Một thoáng hương vị thi ca trữ tình Ðức ngữ
Ðàm Trung Pháp
Thành kiến cho rằng Đức ngữ chói tai, vụng về và nặng nề đã bị thi ca trữ tình Đức ngữ phản bác bằng bản chất uyển chuyển, linh động, và đầy nhạc tính của nó. Chính bản chất này đã giúp thơ trữ tình Đức ngữ đi sâu vào di sản văn học nhân loại, qua một cơ duyên hy hữu: sự thăng hoa của loại thơ chan chứa tình cảm này xảy ra cùng lúc mà âm nhạc đang đi đến tột đỉnh tại Đức Quốc. Mối liên kết diệu kỳ giữa chữ nghĩa và âm điệu trong thế kỷ 18 và 19 đã tạo nên những bài ca bất hủ cho các danh tài âm nhạc Brahms, Schubert, và Schumann. Trong bài viết này, bút giả mời quý bạn đọc một vài bài hoặc đoạn thơ chan chứa tình người, trong đó –theo lời Hermann Hesse (giải Nobel văn chương 1946)– các thi sĩ sẵn sàng “gọi tên từng con thú từng phiến đá với tất cả yêu thương.”
Du bist wie eine Blume (Em như là một đóa hoa) là một tuyệt tác của Heinrich Heine (1797-1856). Bài thơ này đã được Robert Schumann phổ nhạc nên lại càng thêm lừng danh hoàn vũ. Nó phản ánh mối tình tuyệt vọng giữa thi nhân và một người bà con trong họ mang tên Amalie, xinh đẹp nhưng rất thực tế. Nàng làm ngơ Heinrich để đi lấy chồng giàu sang, gây ra một vết thương lòng dai dẳng cho nhà thơ. Trong đoạn mở đầu bài thơ, người đọc đã thấy ngay mức xót xa khôn tả của Heinrich – Amalie yêu kiều bao nhiêu thì chàng đau lòng bấy nhiêu:
Em trông như một đóa hoa [Du bist wie eine Blume]
Bao nhiêuduyên dáng mặn mà băng trinh [So hold und schoen und rein]
Ngắm em anh thấy khổ đau [Ich schau’ dich an und Wehmut]
Lẻn vô tâm thất thảm sầu lòng anh [Schleicht mir ins Herz hinein]
Tuyệt vọng nhưng lại là một người thua cuộc cao thượng, trong phần còn lại của bài thơ ấy Heinrich đã nguyện cầu Ơn Trên ban phước lành cho Amalie được mãi mãi là một đóa hoa rực rỡ làm đẹp cho đời. Người ta thường coi Heine là nhà thơ lớn sau cùng của trào lưu lãng mạn Đức đã có thể viết lên những bài thơ tráng lệ tiêu biểu nhất của thời điểm ấy. Chẳng hạn, bài thơ Im wunderschoenen Monat Mai (Trong tháng năm rực rỡ) của Heine cho người đọc thấy con người và thiên nhiên, vốn đã sẵn có những liên hệ mật thiết, cùng chợt bừng tỉnh khi mùa xuân trở lại:
Trong tháng Năm rực rỡ [Im wunderschoenen Monat Mai]
khi muôn hoa đua nở [Als alle Knospen sprangen]
là lúc trong tim tôi [Da ist in meinem Herzen]
tình yêu bừng thức dậy [Die Liebe aufgegangen]
Trong tháng Năm rực rỡ [Im wunderschoen Monat Mai]
khi chim chóc líu lo [Als alle Voegel sangen]
tôi cùng nàng thú thật [Da hab’ ich ihr gestanden]
lòng ham muốn của tôi [Mein Sehnen und Verlangen]
Chủ đề “carpe diem” hoặc “xuân bất tái lai” không thể thiếu trong thi ca trữ tình, và thi sĩ Ludwig Heinrich Christoph Hoelty (1748-1776) tài hoa mệnh yểu viết về chủ đề này như có linh tính về cuộc đời ngắn ngủi của chính mình. Giỏi thần học và bi quan về cuộc sống phù du, Hoelty mê say thiên nhiên, ái mộ tuổi trẻ, và ngợi ca tình ái. Nhưng cạnh niềm vui trong thơ Hoelty, người ta thấy lẩn quất đâu đây một thiên tai đang đợi, một Tử Thần đang chờ. Trong bài Lebenspflichten (Trách nhiệm cuộc đời), giữa khung cảnh tráng lệ của mùa xuân Hoelty đưa ra cái chết bất ngờ của một chàng trai đang dồi dào sinh lực:
Hôm nay trong điệu xuân vũ [Heute huepft, im Fruelingstanz]
chàng thanh niên còn vui thú nhảy cao [Noch der frohe Knabe]
Mai đây vòng hoa thương nhớ [Morgen weht der Todtenkranz]
trên mộ chàng đã theo gió phất phơ [Schon auf seinem Grabe]
Nhưng từ cái nhìn thực tế đến cõi đời ngắn ngủi, Hoelty không buồn mà chỉ muốn xác định mục đích cuộc đời một cách giản dị và hợp lý: vì cái chết không thể tránh được, chúng ta hãy tận hưởng cuộc sống phù du ấy trong niềm vui cùng thiên nhiên, tình ái, và say sưa:
Chớ để chim họa mi nào [Lasset keine Nachtigall]
líu lo nhưng không ai biết [Unbehorcht verstummen]
con ong nào lúc xuân về [Keine Bien’, im Fruehlingsthal]
rầm rì mà chẳng ai nghe [Unbelauschet summen]
o o o o o
Hãy tận hưởng khi Trời ưng thuận [Fuehlt, so lang es Gott erlaubt]
nụ hôn cùng những trái nho ngon [Kuss und suesse Trauben]
cho đến khi Thần Chết tham ô/[Bis der Tod, der alles raubt’]
cướp đi hết những gì anh có [Kommt, sie euch zu rauben]
Thi nhân trữ tình lẫy lừng nhất trong văn học Đức phải là Johann Wolfgang von Goethe (1749-1832). Bậc thiên tài hy hữu trong lịch sử loài người đã thành công trong đủ mọi loại văn chương. Trong cõi thơ trữ tình của ông, nổi bật nhất là ngôn ngữ bình dị và cấu trúc ngữ pháp đơn sơ theo truyền thống dân ca. Trọn bài thơGefunden (Tìm thấy) chuyển ngữ dưới đây phản ánh vẹn toàn các đặc trưng đó:
Tôi đi trong rừng [Ich ging im Walde]
Một mình cô quạnh [So fuer mich hin]
Chẳng tìm kiếm chi [Und nichts zu sehen]
Đó là chủ ý [Das war mein Sinn]
o o o o o
Bỗng trong bóng mát [Im Schatten sah ich]
Ló rạng nụ hoa [Ein Bluemenchen stehn]
Long lanh tựa sao [Wie Sterne leuchtend]
Đẹp đôi mắt hiền [Wie Aeuglein schoen]
o o o o o
Tôi muốn bẻ hoa [Ich wollt’ es brechen]
Nhưng hoa khẽ bảo [Da sagt’ es fein]
Hoa sao khỏi héo [Soll ich zum Welken]
Nếu phải lìa cành [Gebrochen sein]
o o o o o
Tôi đào tất cả [Ich grub’s mit allen]
Rễ nhỏ cây hoa [Den Wuerzlein aus]
Đem về vườn cây [Zum Garten trug ich’s]
Bên nhà lộng lẫy [Am huebschen Haus]
o o o o o
Tôi trồng lại hoa [Und pflanzt’ es wieder]
Trong góc vườn vắng [Am stillen Ort]
Giờ đây cây lớn [Nun zweigt es immer]
Mãi mãi trổ bông [Und blueht so fort]
Cần nói thêm rằng cái cây hoa tươi tốt mà lại biết nói tiếng Đức rất có duyên trong bài thơ hiền hòa chan chứa ân tình nêu trên chính là cô Christiane Vulpius. Cô là một thanh nữ đẹp cả người lẫn nết mà thi nhân đã bất ngờ “tìm thấy” trong một công viên tại La Mã và mang ngay về nhà làm bạn đời đấy!
Một nhà thơ rất ái mộ Goethe là Jakob Michael Reinhold Lenz (1751-1792). Lenz bắt chước cả lối sống lẫn phong cách làm thơ của Goethe. N
hiều bài của Lenz giống thơ Goethe đến nỗi người đương thời không thể phân biệt nổi. Bài thơ thống thiết Wo bist du itzt? (Em ở đâu bây giờ?) mà hai đoạn được trích dẫn dưới đây cho thấy thêm vài chi tiết thú vị. Lenz làm bài này để tặng Friedericke Brion, một phụ nữ mà thi nhân đang choáng váng say mê. Friedericke cũng đã là nguồn cảm hứng dạt dào một năm trước đó cho các bài thơ tình nồng nàn nhất của Goethe! Chắc hẳn Lenz đã làm bài thơ đó trong lúc thương nhớ người trong cuộc đến tái tê, viết ra những câu không gò bó, chất ngất đắm say riêng tư, rập theo khuôn mẫu những bài thơ trữ tình ban đầu của Goethe. Có lẽ chỉ những ai đã có kinh nghiệm với sự kiện người yêu mình tự nhiên biệt tích tăm hơi mới có thể hiểu thấu nỗi đau lòng của Lenz lúc đó:
Từ buổi em đi, mặt trời hết sáng [Seit du entfern will keine Sonne scheinen]
và có mối tâm đồng [und es vereint]
giữa trời xanh và người bạn em đây [das Himmel sich, dir zartlich nachzuweinen]
nhớ thương em than khóc vơi đầy [mit deinem Freund]
Mọi lạc thú cùng em xa vắng [All unsre Lust ist fort mit dir gezogen]
lặng tanh thành phố lẫn đồng hoang [still ueberall]
theo em đã vụt bay đi khỏi [ist Wald und Feld. Dir nach ist sie geflogen]
cả chú chim nhỏ bé họa mi [die Nachtigall]
Bài thơ trữ tình tiếng Đức mà bút giả cho là thấm thía nhất mang tên Der Wirtin Toechterlein (Con gái nhỏ bà chủ quán) của Ludwig Uhland (1787-1862) sẽ kết thúc bài viết này. Nhiều thơ của Uhland đã nghiễm nhiên trở thành dân ca thực sự của dân tộc Đức. Bài dân ca nổi tiếng dưới đây của Uhland có nhiều yếu tố bất ngờ độc đáo trong nội dung. Xin ngừng tại đây với bài dân ca mà không ít người nghe hoặc đọc đã phải hoe con mắt:
Ba chàng trai trẻ vượt sông Rhein [Es zogen drei Bursche wohl ueber den Rhein]
đến ghé thăm một bà chủ quán [Bei einer Frau Wirtin, da kehrten sie ein]
“Bà chủ còn rượu ngon đấy chứ [“Frau Wirtin, hat Sie gut Bier und Wein]
ái nữ yêu kiều của bà đâu?” [Wo hat Sie Ihr schoenes Toechterlein?”]
o o o o o
Và khi họ bước vô phòng khách [Und als sie traten zur Kammer hinein]
thấy cô nằm trong chiếc hòm đen [Da lag sie in einem schwarzen Schrein]
o o o o o
Chàng thứ nhất lật tấm khăn che mặt [Der erste, der schlug den Schleier zurueck]
và ngắm nàng qua tia mắt khổ đau [Und schaute sie an mit traurigen Blick]
“Em đẹp xinh ơi, nếu em còn sống [“Ach! Lebtest du noch, du schoene Maid]
anh sẽ yêu em mãi mãi chẳng ngừng” [Ich wuerde dich lieben von dieser Zeit”]
o o o o o
Chàng thứ hai lật tấm khăn che mặt [Der zweite deckte den Schleier zu]
rồi quay lưng, cho lã chã lệ rơi [Und kehrte sich ab und weinte dazu]
“Hỡi em yêu nằm trong quan tài tối [“Ach! Dass du liegst auf den Totenbahr]
anh chót yêu em đã mấy năm rồi [Ich hab’ dich geliebt so manches Jahr”]
o o o o o
Chàng thứ ba bước tới lật khăn lên [Der dritte hub ihn wieder sogleich]
hôn miệng nàng đã ngả mầu trắng bệch [Und kuesste sie an den Mund so bleich]
“Anh đã yêu em, yêu em hôm nay [“Dich liebt’ ich immer, dich lieb’ ich noch heut]
và sẽ còn yêu em tận muôn đời” [und werde ich lieben in Ewigkeit”]