Liệu Trung Cộng có thể suy sụp một cách êm thấm không?
Theo Bauxite Việt Nam – Andy Morimoto – The National Interest, 19 tháng Mười Một 2014 – Trần Ngọc Cư dịch
“Dù Trung Quốc có thịnh hay suy, các giả thuyết hợp lý nhất đều tiên đoán rằng xung đột vũ trang có khả năng xảy ra, nếu không phải là hoàn toàn không thể tránh.”
Quan niệm cho rằng Trung Quốc không thể trỗi dậy một cách hòa bình gần như đã trở thành một sự thật trong các quan hệ quốc tế. Lập luận này cũng đơn giản thôi: trong khi kinh tế Trung Quốc tăng trưởng, thì quân đội Trung Quốc cũng phát triển theo, và giống như các đại cường khác đã sử dụng vũ lực để thực hiện các mục tiêu đối ngoại, Trung Quốc cũng sẽ làm như thế. Nhưng mặc dù các nhà phân tích đã tốn rất nhiều bút mực để tìm hiểu các hệ lụy an ninh do sự trỗi dậy của Trung Quốc gây ra, ít ai chịu khó nghiên cứu các hậu quả tiềm năng do một sự suy sụp đột ngột và kéo dài của kinh tế Trung Quốc gây ra. Việc này có lẽ sắp thay đổi.
Như tờ Wall Street Journal gần đây đưa tin, tỉ lệ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc sẽ xuống dốc nhanh chóng trong thập niên tới, rơi từ 7,7 phần trăm năm 2013 xuống 3,9 phần trăm trong thời khoảng 2020-2025. Một số nhà phân tích còn bi quan hơn, tiên đoán tỉ lệ tăng trưởng kinh tế Trung Quốc có thể rơi xuống 1,6 hay 1,7 phần trăm. (Xin hãy so sánh những con số này với tỉ lệ tăng trưởng trung bình 10,2 phần trăm từ năm 1980 đến 2011.) Những xu thế này đã khiến một số nhà nghiên cứu trên tờ National Interest lập luận rằng Trung Quốc đang lao tới tình trạng suy sụp kinh tế và rằng chúng ta sắp chứng kiến sự cáo chung – chứ không phải là một đình hoãn tạm thời – của việc Trung Quốc trỗi dậy trong lãnh vực kinh tế.
Nếu kinh tế Trung Quốc trở nên đình đốn, việc này sẽ có những hệ lụy địa chính trị gì đối với Trung Quốc, các nước láng giềng, và với cả Hoa Kỳ? Trong tình hình đó, liệu Trung Quốc có ra khỏi con đường dẫn tới đụng độ như nhiều người đã nghĩ trước đây không, hay xung đột vẫn là một điều không thể tránh?
Trước hết, chúng ta nên có một thái độ cảnh giác nhẹ nhàng nhưng cần thiết: chúng ta không có bằng chứng thực nghiệm về những biến cố tương lai, vì thế phải cần đến các giả thuyết để trả lời những câu hỏi trên. Dẫu sao, hiện có hai giả thuyết đặc biệt hữu ích được lưu hành trong giới nghiên cứu. Giả thuyết thứ nhất cho rằng một cuộc suy trầm kinh tế tại Trung Quốc sẽ buộc giới lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc hướng vào các công việc nội bộ của mình, không còn đủ thời gian và năng lực để gây hấn với các nước láng giềng trong khu vực Thái Bình Dương (đừng nói chi với Hoa Kỳ). Thay vào đó, các lãnh đạo Trung Quốc sẽ dồn hết quan tâm vào các chính sách đối nội, với hi vọng có thể sắp đặt lại “việc nhà”.
Đáng buồn là, căn cứ vào tầm mức của các tranh chấp quốc tế hiện nay của Trung Quốc, giả thuyết này không thể trở thành hiện thực. Xin nhớ rằng Trung Quốc có ít ra năm cuộc tranh chấp lãnh thổ chưa giải quyết xong: với Việt Nam về chủ quyền quần đảo Hoàng Sa; với Brunei, Malaysia, Philippines, Đài Loan và Việt Nam về quần đảo Trường Sa; với Nhật Bản về quần đảo Sensaku; với Bhutan và Ấn Độ về tranh chấp biên giới trên đất liền; và với Đài Loan về vấn đề độc lập của đảo quốc này. Khó tưởng tượng rằng những tranh chấp âm ỉ này sẽ được lắng dịu nhờ nền kinh tế Trung Quốc trở nên suy yếu.
Điều này đưa chúng ta đến giả thuyết thứ hai – một giả thuyết mà tôi cho là có khả năng trở thành hiện thực hơn. Giả thuyết này cho rằng một cuộc suy trầm kinh tế tại Trung Quốc sẽ gây khủng hoảng về tính chính đáng của Đảng Cộng sản Trung Quốc, vì thế đảng này bèn dồn quan tâm vào những đe dọa từ ngoài vào nhằm củng cố chính nghĩa của mình đối với dân chúng. Nói cách khác, các lãnh đạo Trung Quốc sẽ chơi lá bài dân tộc chủ nghĩa, có lẽ sẽ châm ngòi một đám cháy quốc tế tại một hay nhiều mồi lửa nói trên.
Chúng ta đã xem vở kịch quen thuộc này trước đây. Sau Thế chiến II, kinh tế Trung Quốc rơi vào tình trạng hỗn độn, nhưng Trung Quốc không chịu nhìn vào bên trong, mà lại tập trung vào bán đảo Triều Tiên. Một cách tương tự, trong đại họa kinh tế đi liền với cuộc Cách mạng Văn hóa, các lãnh đạo Trung Quốc tập trung chú ý vào Việt Nam. Zhang Lifan, một sử gia Trung Quốc, giải thích: “Lịch sử cho thấy, cứ mỗi giai đoạn có nhiều xung đột sâu sắc diễn ra trong nước, Đảng lại đẩy mạnh tinh thần bài ngoại.” Ngày nay các vụ việc cũng không khác trước.
Chỉ năm này thôi, tờ Nhân dân nhật báo, một nhật báo của Nhà nước, đã cho đăng 42 bài qui trách nhiệm các vấn đề nội bộ của Trung Quốc cho các thế lực bên ngoài. Thậm chí ngay giữa hội nghị APEC diễn ra vào tháng này (thông thường là một cơ hội bằng vàng để khoe khoang uy tín ngoại giao đối với quốc tế và giả vờ bày tỏ nhiệt tình trong việc xây dựng các nhịp cầu hữu nghị), Chủ tịch Tập Cận Bình lại công khai ca ngợi một blogger trẻ hiện đang nổi tiếng về các bài viết sặc mùi dân tộc chủ nghĩa – một số bài gần như có tinh thần bài ngoại.
Các lãnh đạo Trung Quốc sẽ không dễ gì dập tắt lòng căm thù mang tính dân tộc chủ nghĩa mà họ đã tạo ra. Và nếu kinh tế Trung Quốc thực sự đình đốn, chúng ta nên dự kiến có thêm nhiều biểu hiện dân tộc chủ nghĩa inh ỏi hơn, chứ không lắng dịu đi. Chẳng may là, thật không khó để ta tưởng tượng ra một kịch bản trong đó sự cuồng nhiệt của lòng yêu nước sẽ lan tràn khắp Trung Quốc, dẫn đến việc leo thang xung đột, tính toán sai lầm hay một cuộc chiến xảy ra từ một vụ việc tình cờ.
Để giảm đến mức tối thiểu khả năng xảy ra các cuộc khủng hoảng này, Hoa Kỳ nên duy trì sự tập trung chính xác vào chiến lược tái quân bình lực lượng hướng về châu Á, tránh dính vào các tranh chấp ngoại biên và trấn an các đồng minh trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương rằng Hoa Kỳ là một quốc gia đáng tin cậy, đảm bảo an ninh cho họ. Ngoài ra, Trung Quốc và các nước láng giềng phải mở thêm nhiều đường dây nóng (nghĩa là thêm nhiều “điện thoại đỏ”) để giảm bớt rủi ro là các khủng hoảng tiềm năng có thể leo thang thành xung đột vũ trang thật sự.
Các viễn ảnh hòa bình tại châu Á là không mấy hứa hẹn. Thật vậy, dù Trung Quốc có thịnh hay suy, các giả thuyết hợp lý nhất đều tiên đoán rằng xung đột vũ trang có khả năng xảy ra, nếu không phải là hoàn toàn không thể tránh. Tuy nhiên, như John Mearsheimer, một giáo sư tại Đại học Chicago, đã nhận xét, các giả thuyết về bang giao quốc tế vẫn còn là “những công cụ khá thô sơ” và “thậm chí các lý thuyết hay ho nhất để giải thích quá khứ và tiên đoán tương lai đều bị hạn chế.” Chúng ta nên hi vọng rằng ông nói đúng.
Andy Morimoto hiện làm việc tại Hội đồng Tư vấn Chicago về các Vấn đề Toàn cầu [The Chicago Council on Global Affairs]. Ông lấy bằng Thạc sĩ từ Đại học Chicago và bằng Cử nhân từ Đại học North Carolina tại Charlotte.
A. M.
Dịch giả gửi BVN.