Lật tẩy chiến lược thống trị Biển Đông của TC

Cac Bai Khac

No sub-categories

Lật tẩy chiến lược thống trị Biển Đông của TC

The National Interest – Tác giả: Wilson VornDick – Người dịch: Huỳnh Phan – 10-04-2015

H1

Với các tiết lộ về việc bồi đắp có hệ thống và nhanh chóng của Trung Quốc hay việc ‘xây dựng đảo’ trên nhiều thể địa lý khắp Biển Đông, tranh chấp âm ỉ lâu nay ở Biển Đông dường như gần tới chỗ sôi sục lên. Terriclaims, viết tắt của việc bồi tạo lãnh thổ (territorial reclamation) là một thuật ngữ dùng để mô tả các hoạt động bồi đắp của một quốc gia khi tìm cách duy trì hoặc mở rộng lãnh thổ như là một phần của sự tham vọng địa chính trị rộng lớn hơn. Nhiều nước đã bồi tạo đất đai trong nhiều thiên kỷ, nhưng không có một nước nào tìm cách để làm việc đó ở những nơi quá xa biên giới nước mình như Trung Quốc. Hơn nữa, kiểu cách ám muội mà Trung Quốc tiến hành các hoạt động này trong Biển Đông là nguyên nhân gây quan ngại.

Để hiểu lý do tại sao terriclaims của Trung Quốc là không bình thường thì việc xem xét một số dự án xây dựng của các nước khác là điều có ích. Trung Quốc không đang xây một đảo Palm hoặc nhiều đảo World như thành phố Dubai của Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất. Dự án bồi tạo đất nhiều tỉ USD của Dubai bắt đầu vào năm 2001 dự kiến nhiều quần đảo chạy từ bờ biển Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất tới Vịnh Iran (Ba Tư). Palm Jumeirah, quần đảo gần đây nhất hoàn thành vào năm 2006 và được cấu tạo theo dạng một cây cọ (palm), bao gồm các ngôi nhà sang trọng, các khu nghỉ dưỡng khác nhau, và một đường monorail trãi dài nhiều dặm trên đất mới bồi tạo.

Trái lại, có vẻ các dự án xây dựng của Trung Quốc là một phần của việc tóm thu lãnh thổ rộng lớn hoặc để làm cho yêu sách đường 9 vạch bị tranh cãi của Trung Quốc thành thực tế. Những terriclaims này dường như là nỗ lực mới nhất của Trung Quốc theo chiến thuật xâm lấn chậm rãi và có phương pháp để khẳng định quyền kiểm soát Biển Đông, một chính sách bị gọi mỉa mai là ‘cắt lát salami’ (tằm ăn dâu). Trong khi các hoạt động của Trung Quốc tại quần đảo Trường Sa có thể chỉ thu hút sự chú ý của quốc tế mới gần đây, việc họ sử dụng chiến thuật này không phải là điều mới.

Bồi tạo đất đai trong lịch sử Trung Quốc

Terriclaims là một nỗ lực mới của Trung Quốc để thiết lập lại ranh giới biển trong Biển Đông, nhưng sự xuất hiện của chúng không làm các nhà quan sát hoàn toàn bất ngờ. Đó là vì terriclaims là hiện thân mới nhất của lịch sử bồi tạo đất lâu dài ở Trung Quốc vốn lâu nay được chính quyền các cấp của Trung Quốc cấp nguồn lực và hậu thuẫn. Trung Quốc có một di sản về bồi tạo đất đai từ thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên, khi họ sử dụng kỹ thuật nạo vét và bồi đắp để tạo ra Kênh Đại Vận Hà (Dà Yùn Hé/大运河). Thành phố cổ Tô Châu có dạng giống như Venice được xây dựng trên đất do bồi đắp. Trong thời kỳ hiện đại, Trung Quốc đã bồi tạo nhiều phần to lớn của Macao, Thượng Hải, và thậm chí sử dụng cách bồi đắp đất trong việc mở rộng Sân Bay Quốc Tế Hong Kong gần đây. Ngoài ra, các hoạt động bồi tạo đất đã được lồng vào việc quản trị quốc gia của Bắc Kinh và trách nhiệm về các hoạt động bồi tạo đất đã lan đến tất cả các cấp chính quyền. Thật vậy, bộ máy chính quyền của Trung Quốc có bốn tổ chức lớn trông coi một hoặc nhiều khía cạnh của vấn đề bồi tạo đất đai: Bộ Tài Nguyên Đất Đai, Bộ Tài Nguyên Nước, Bộ Bảo Vệ Môi Trường và Cục Hải Dương Quốc Gia (SOA).

Nhiệm vụ chính trị và trọng tâm về biển của Cục Hải Dương Quốc Gia (guó jiā hǎi yáng jú 国家 海洋局: Quốc Gia Hải Dương Cục), dưới quyền Cục trưởng Liu Cigui (刘赐贵: Lưu Tứ Quý), làm cho cơ quan này trở thành độc đáo trong bốn cơ quan đó. SOA giữ vai trò lãnh đạo trong việc tổ chức lại hầu hết các tổ chức dân sự và bán quân sự trên biển của Trung Quốc trong năm 2013. Điều này trùng hợp với việc lập ra một nhóm tư vấn cấp cao mới về các vấn đề an ninh biển của Ban Thường Vụ Bộ Chính Trị vào năm 2012 mà trưởng nhóm đầu tiên là Tập Cận Bình. Bằng chứng này cho thấy SOA đang lãnh đạo công việc terriclaim theo chỉ đạo từ các cấp cao nhất ở Bắc Kinh.

Trung Quốc cũng không phải là nước đầu tiên sử dụng việc bồi đắp lấn biển ở Biển Đông. Năm 1999, Malaysia đã xây dựng trên Bãi Thám Hiểm (Investigator) – nằm giữa Philippines và Malaysia, một tòa nhà bê tông hai tầng cùng với một bãi đáp trực thăng, trạm radar và bến tàu. Đài Loan thực hiện các dự án lấn biển lớn trên đảo Pratas trong năm 2007. Trung Quốc đã biến Đảo Phú Lâm trong quần đảo Hoàng Sa thành đảo đất (terraformed) chứa một đường băng dài 2400 m, ba cảng, và các cơ sở của Hải Quân và Không Quân. Tuy nhiên, Trung Quốc có vẻ không những đang bảo vệ yêu sách của mình mà còn mở rộng thêm chúng với những dự án terriclaim lớn có ý hướng độc đáo về mặt quân sự. Sự tiến triển của các điểm terriclaims cho việc xây đường băng, cơ sở vật chất kiên cố, kho chứa, khu vực tập kết, và các kênh sâu cho tàu thuyền. Cơ sở hạ tầng về thông tin liên tạc dân sự nâng cao, trạm nghiên cứu khoa học, hoặc các cơ sở phục vụ đánh cá không cần có một diện tích lớn như vậy và cũng không đòi hỏi phải làm vội vàng và thậm thụt như vậy. Các nhà quan sát Trung Quốc, chẳng hạn như Yoji Koda của Nhật, cho rằng chỉ riêng việc bồi đắp (terriclaim) tiềm năng ở Bãi Scarborough cũng có khả năng tạo ra một đảo gồm nhiều dặm vuông đất mới.

Ảnh hưởng toàn cầu

Terriclaims của Trung Quốc có thể có tác dụng thứ hai và thứ ba đáng kể. Terriclaims, nếu được các bên tranh chấp khác ở Biển Đông, ASEAN, hoặc cộng đồng quốc tế rộng hơn thừa nhận, có thể dẫn đến việc mất đi lãnh thổ to lớn trên biển nếu một terriclaim được hợp pháp hóa. Điều này cũng có thể dẫn đến xung đột. Biển Đông đã chứng kiến xung đột về lãnh thổ trong quá khứ, nhưng khả năng và ảnh hưởng toàn cầu của Trung Quốc đã tăng lên đáng kể. Đồng thời, chiến thuật này không nhất thiết chỉ giới hạn trong Biển Đông, nó có thể được sử dụng ở các vùng ven biển thuận lợi khác. Hiện có hơn 150 quốc gia ven biển yêu sách hơn 36 % diện tích biển của thế giới. Các nước đất thấp ven các Biển Caribbean, Baltic, Địa Trung Hải, Vịnh Iran, Châu Đại Dương và Bắc Cực đều dễ bị terriclaim. Độ sâu lúc triều thấp nhỏ và sự gần gủi với các nước ven biển khác tại các vùng ven biển giàu tài nguyên kề cận nhau này làm terriclaim có thể thực hiện được, có lẽ, cũng mời gọi. Ngoài ra, Công Ước Liên Hiêp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982, không có quy định nào nói đến terriclaims. Các quy định trong UNCLOS có thể diễn giải để thách thức hay bảo vệ terriclaims tốt nhất chỉ là mơ hồ.[1]

Bất kể sự im lặng tương đối của UNCLOS về vấn đề này, terriclaims cần phải được nêu ra giải quyết. Nếu terriclaims của Trung Quốc được hợp pháp hóa do việc cộng đồng quốc tế không có hành động, điều này sẽ không những là phần thưởng cho hành vi của Bắc Kinh mà còn cung cấp cho Trung Quốc quyền vô điều kiện để tiếp tục terriclaim ở các khu vực khác. Quan trọng hơn, thừa nhận terriclaims sẽ khuyến khích các nước khác làm theo sự đi đầu của Trung Quốc. Nếu không tìm ra giải pháp, terriclaims sẽ tàn phá môi trường biển và các khuôn khổ của nó. Ít nhất, ý hướng vì mục đích quân sự trong terriclaims của Trung Quốc sẽ tiếp tục gây khó chịu các bên tranh chấp khác.

Terriclaims trong tương lai

Nếu như sự mơ hồ pháp lý không được loại bỏ hoặc terriclaims của Trung Quốc không bị thách thức trực tiếp thì có thể kéo theo cuộc đuaterriclaims giữa Trung Quốc và các bên tranh chấp khác. Có hai câu trả lời mà cộng đồng quốc tế cần xem xét. Thứ nhất, các quốc gia ký kết có thể duyệt lại UNCLOS để bao gồm terriclaims vào hoặc kèm thêm một hiệp định phụ tương tự như Hiệp Định về Cá và Nguồn Cá năm 1995. Tuy nhiên, một bản sửa đổi sâu rộng hoặc phụ lục của UNCLOS là khó xảy ra. Để có sự sửa đổi xảy ra, chắc chắn đòi hỏi phải có sự ủng hộ của Bắc Kinh như là một thành viên của Hội Đồng Bảo An và là nước đứng đầu khu vực. Thứ hai, các quốc gia quan tâm có thể dập tắt terriclaims qua trọng tài hoặc Tòa Án Quốc Tế về Luật Biển (ITLOS) hoặc Tòa Án Công Lý Quốc Tế hoặc thông qua một khuôn khổ rộng lớn hơn hay hiệp định. Ngược lại, kiện tụng và trọng tài cũng có thể không nhất thiết là một giải pháp khả thi khi xét tới tình trạng chậm chạp và kéo dài của cuộc chiến pháp lý hiện nay giữa Philippines và Trung Quốc. Tùy thuộc vào việc tố tụng diễn tiến, có thể có nhiều khả năng các bên sẽ rơi ngược vào một hình thức thỏa thuận song phương hoặc đa phương nào đó, tương tự nhưng mạnh hơn Tuyên Bố về Ứng Xử năm 2002 vốn tìm kiếm sự gần gũi về terriclaims giữa ASEAN hoặc các bên tranh chấp là thành viên ASEAN và Trung Quốc. [2]

Terriclaims của Trung Quốc biểu lộ quyết tâm to lớn mà Trung Quốc sẵn sàng theo đuổi để thống trị Biển Đông. Và mặc dù có vẻ mới lạ, thực tế là chiến thuật này giữ một vai trò lâu dài như vậy trong lịch sử Trung Quốc có nghĩa là chúng ta không nên trông đợi thấy nó sớm biến mất khỏi bộ công cụ của Bắc Kinh trong thời gian tới.

[1] Xem các Điều 7 (2) (về lắng tụ và các tam giác châu), 76 (ranh giới cố định thay cho các yêu sách thềm lục địa), 60 (đảo nhân tạo, các kiến trúc, và các cấu trúc), và 121 (sự khác biệt giữa đảo và [đảo] đá).

[2] “Tuyên bố về Quy tắc ứng xử giữa các bên ở Biển Đông,” ASEAN.

Wilson VornDick là thiếu tá Hải quân Mỹ và được phân về Lầu Năm Góc và trước đó ông làm việc tại Viện Nghiên cứu Biển Trung Quốc thuộc trườngCao đẳng Hải chiến Hoa Kỳ. Ông đã khảo sát sự tương tác địa chính trị của cả terriclaims lẫn các chủ đề khác ở Biển Đông trong luận văn tốt nghiệptrường Harvard, sẽ được công bố tháng 5 này. Đây là quan điểm cá nhân của ông, không liên quan đến chính sách của Chính phủ Hoa Kỳ hay của Hải quân Mỹ.

Bài viết này đầu tiên được đăng tải trên trang web của the CSIS Asia Maritime Transparency Initiative ở đây.