Làm thế nào thoát cơn ‘khủng hoảng’ văn hóa đọc?
Từ ngày 15 đến 17-2-2019, Hội sách Mùa Xuân được tổ chức ở Hà Nội. Hoạt động văn hóa này nói riêng, cùng với sự bùng nổ ngành xuất bản nói chung, đã mang lại cảm giác rằng sách đang là một hình ảnh tích cực trong việc phát triển xã hội. Thực tế thảm hơn vậy và thảm hơn được nghĩ: Việt Nam là một trong những quốc gia có tỷ lệ đọc sách kém nhất thế giới…
Theo tổng kết của Cục Xuất bản, năm 2018, ngành xuất bản tung ra gần 32.000 cuốn sách mới với hơn 390 triệu bản, tăng 20,6% so với năm 2017; đạt doanh thu 2.506 tỷ đồng; nộp ngân sách 187,15 tỷ đồng (tăng 71% so với năm 2017); lợi nhuận sau thuế của các nhà xuất bản đạt khoảng 212,34 tỷ đồng – tăng 11,5% so với năm 2017 (VietnamNet 26-1-2019). Tổng quát, “năm 2018, lượng sách ra thị trường tăng trên 20%, nhiều nhà xuất bản doanh thu cao, tất cả các đơn vị đều được đầu tư vốn, cơ sở vật chất và nhân sự đảm bảo hoạt động” (Zing 18-1-2019). Không chỉ thị trường sách, hoạt động thư viện cũng có vẻ “khởi sắc”. Hội thảo “Phát triển và đổi mới hoạt động thư viện trong thời kỳ mới” tổ chức tại Thư viện Quốc gia ngày 5-12-2018 cho biết, Việt Nam hiện có một thư viện quốc gia, 63 thư viện tỉnh, 663 thư viện huyện và 3.257 thư viện xã; cùng 16.727 phòng đọc sách làng, thôn, bản; gần 400 thư viện thuộc các trường cao đẳng và đại học; 25.915 thư viện trường phổ thông; 100 thư viện thuộc các bộ ngành, viện nghiên cứu; hơn 500 thư viện và khoảng 4.500 phòng đọc sách thuộc lực lượng vũ trang…
Sách in nhiều và thư viện mọc khắp nơi nhưng người đọc ở đâu? World Culture Score Index cho biết Ấn Độ là quốc gia hàng đầu thế giới hiện nay về “chỉ số đọc”, với trung bình 10 tiếng 42 phút mỗi tuần; Thái Lan thứ nhì với trung bình mỗi tuần 9 tiếng 24 phút… Dân Malaysia đọc trung bình 12 cuốn/năm. Trong khi đó, tại Việt Nam, trung bình mỗi người đọc tổng cộng chỉ 4 cuốn/năm mà con số này bao gồm cả sách giáo khoa! Trung tâm nghiên cứu Việt Nam và Đông Nam Á cho biết thêm, có đến 26% dân số Việt Nam không bao giờ đọc sách, 44% thỉnh thoảng đọc và chỉ 30% đọc thường xuyên. Sách chất chồng chất đống, các hội chợ sách đông nghịt, nhưng sách vẫn nằm ngoài đường hơn là vào nhà, sách ngủ trên kệ thư viện hơn là trên tay. Đi hội chợ sách cũng cứ như đi hội chợ hoa. Ngắm nhiều hơn mua. Hiện tượng tréo cẳng ngỗng này cho thấy sách được bán là sách gì và sách thư viện là sách thế nào? Một cách khách quan, có thể điểm lại vài nguyên nhân khiến người Việt ngán sách.
Yếu tố lười đọc như một “hiện tượng thời đại” là không thể bỏ qua. Chưa bao giờ người ta lười đọc sách đến như vậy. Tình trạng này xảy ra ngay tại Mỹ, nơi sách được phát hành nhiều nhất thế giới. Với người Việt, máy tính bảng, điện thoại, Facebook đã trở thành “tác nhân” bồi thêm vào tâm lý “chán” sách. Đọc ngắn, thậm chí cực ngắn, đang trở thành một thói quen phổ biến. Ngay cả sinh viên cũng “sợ” đọc sách. Tuy nhiên, đổ thừa cho thiết bị số là không hoàn toàn chính xác. Sinh viên các nước khu vực, Thái Lan hay Singapore, vẫn ôm sách đọc mỏi tay. Vấn đề ở chỗ học đường trung học và giảng đường đại học Việt Nam không tạo ra được một không khí học thuật. Sự thất bại của giáo dục Việt Nam là ngành giáo dục đã không mang lại được một không khí học thuật tự do và tìm kiếm tri thức tự do để từ đó tạo cho người học cảm hứng đọc sách và bồi bổ kiến thức từ sách. Sinh viên đến lớp nghe giảng như học trò phổ thông. Giảng viên đại học “dạy chữ” như giáo viên phổ thông. Chẳng có gì để kích thích hứng khởi tìm hiểu và nâng cao kiến thức. Tâm lý lười đọc càng thêm lười – một hiệu ứng lười mang tính lây lan.
Nguyên nhân thứ hai là các nhà xuất bản. Thử vào vài nhà sách lớn ở Sài Gòn, sẽ thấy “bội thực” với những đầu sách tương tự về nội dung. Quanh đi quẩn lại cũng “làm thế nào để khởi nghiệp”, “7 bước đi đến thành công”, “8 cách để làm giàu”, “9 phương pháp mang lại hạnh phúc”, “10 bài học thất bại đáng giá” (các đề tài này dù được khai thác mạnh nhưng thành công ở đâu vẫn không thấy gõ cửa và cũng chẳng có thất bại nào được rút ra, không chỉ đối với ngành sách mà với cả quốc gia!). Các chủ đề khác được ưa chuộng là hồi ký; kỹ năng sống và kinh nghiệm sống; học làm người (chủ yếu in lại sách cũ trước 1975); quản trị kinh doanh… Sự trùng đề tài khiến độc giả không chỉ khó khăn để chọn lựa mà còn làm họ ngán. Sự “đánh hơi” thị trường của các công ty sách không đủ độc đáo để tạo ra chỗ đứng riêng biệt cho từng công ty và mang lại sức bền để đi đường dài. Có khi “thắng” được một cuốn đã là mừng hết lớn. Sự cạnh tranh khốc liệt còn dẫn đến bát nháo, đặc biệt sách dịch, cuối cùng đưa đến một tâm lý thị trường phổ biến: “Bà để bà ngắm chứ bà không mua!”. Sách in nhiều nhưng bán được bao nhiêu và được người đọc đón nhận hay không, rõ ràng, không phải là hiện tượng nhất thời. Nó là một thực trạng có khuynh hướng kéo dài. Cần nhắc lại, năm 2014, trong 64 nhà xuất bản thì chỉ có 4 nhà làm ăn có lời và nộp thuế đầy đủ!
Nguyên nhân thứ ba là sự can thiệp của cấp quản lý. Ngày 15-3-2017, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định phê duyệt Đề án phát triển văn hóa đọc trong cộng đồng đến năm 2020, định hướng đến năm 2030, “khẳng định quan điểm phát triển văn hóa đọc là một trong những nội dung quan trọng của sự nghiệp phát triển văn hóa, giáo dục của đất nước”. Tiếp đó, ngày 24-2-2014, Thủ tướng Chính phủ ban hành thêm Quyết định số 284/QĐ-TTG chọn ngày 21-4 hàng năm là Ngày Sách Việt Nam, cũng nhằm mục đích khuyến đọc. Như cách điều hành và quản lý đặc sệt màu sắc XHCN trên mọi lĩnh vực, sách, làm sách, đọc sách cũng đã bị “định hướng”. Tuy nhiên, thực tế cho thấy chẳng “định hướng” nào tốt hơn là buông “bàn tay lông lá” của các “quyết định” ra khỏi lĩnh vực xuất bản. Cho đến nay, công ty tư nhân vẫn buộc phải “liên kết” với nhà xuất bản mới có thể phát hành sách chứ không thể tự do làm sách; và nhà xuất bản thì phải chịu sự kiểm duyệt nhà nước. Làm thế nào có thể tạo ra và phát triển một nền “văn hóa đọc” khi sự hứng thú đọc bị giới hạn trong khuôn khổ hạn hẹp bởi yếu tố kiểm duyệt chính trị?
Sự thò mũi kiểm duyệt và thao túng nội dung xuất bản đã dẫn đến hậu quả là giới làm sách không dám đầu tư đường dài, chỉ nhắm vào các thể loại “mì ăn liền” với những chiến dịch “đánh nhanh rút lẹ” để đảm bảo an toàn nguồn vốn lẫn doanh thu. Khả năng định hướng, về xu hướng lẫn thẩm mỹ, cho thị trường của giới làm sách đã bị triệt tiêu bởi sự “định hướng” chính trị của các cơ quan nhà nước. Bất chấp sự thật rằng ngày nay người ta có thể dễ dàng tìm kiếm “sách cấm” trên mạng, bộ máy quản lý vẫn kiểm soát tuyệt đối nội dung sách in và sẵn sàng ban hành lệnh cấm hoặc thu hồi bất cứ quyển sách nào không “phù hợp” vì “có những chi tiết cần được thẩm định lại”, dù việc “thẩm định” một tác phẩm là việc của thị trường, của người đọc, của giới phê bình, và không nhà nước nào có quyền thay mặt làm điều đó cả! Từ Cung đàn số phận của Lộc Vàng, Một cơn gió bụi của Trần Trọng Kim, Petrus Ký – Nỗi oan thế kỷ của Nguyễn Đình Đầu, đến The Spy Who Loved Us của Thomas Bass… Từ hồi ký, sách sử, sách dịch, biên khảo… Tất cả đều bị kiểm duyệt. Thị trường sách cứ thế không biết “đi đâu về đâu”, không dám đặt ra chiến lược dài hạn, và cuối cùng không thể kích thích được tâm lý ham đọc trong xã hội.
Có thể có người đặt câu hỏi rằng, trong bối cảnh thiết bị kỹ thuật số đang đè bẹp thói quen đọc và như vậy cho dù không bị vòng kim cô kiểm duyệt chụp lên đầu đi nữa thì liệu văn hóa đọc có thể hồi sinh được nổi không? Câu trả lời nên dành cho giới làm sách. Nếu được “trả lại” tự do – một nền văn hóa tự do mà miền Nam trước 1975 từng được thụ hưởng và gặt hái những kết quả rực rỡ, giới làm sách hẳn sẽ biết họ phải làm gì và làm như thế nào để phát triển, và đặc biệt, để giúp độc giả lấy lại niềm hứng khởi đọc cùng sự tự do chọn lựa đọc.