Kỹ Nghệ Giấy Việt Nam – Nhà máy Bãi Bằng – Phần I – Mai Thanh Truyết

Cac Bai Khac

No sub-categories

Kỹ Nghệ Giấy Việt Nam – Nhà máy Bãi Bằng – Phần I – Mai Thanh Truyết

Lời người viết: Bài nầy đã được trang trải từ năm 2007, ngay sau khi nhận được tin nhà máy giấy Hậu Giang đã được làm lễ “đặt viên đá đầu tiên” vào ngày 6 tháng 8 năm 2007. Dự án nhà máy với tổng mức đầu tư lên đến 1,2 tỷ Mỹ kim. Địa điểm xây dựng tại khu công nghiệp Phú Hữu A, huyện Châu thành, Hậu Giang với diện tích 200 mẫu. Hôm nay, bài viết được nhuận sắc lại vì Nhà máy Giấy Hậu Giang vừa được khánh thành vào đầu tháng sáu 2016. Xin bạn đọc tiếp tục xem Phần II tiếp theo sau.

Dự án Nhà máy làm bột giấy và giấy Bãi Bằng đã có từ năm 1974, được dư định xây cất tại Vĩnh Phú với số vốn đầu tư là 170 triệu Mỹ kim thời bấy giờ do chính phủ Thuỵ Điển tài trợ 100%. Nhưng khi đưa vào hoạt động phí tổn đã lên đến hơn 1 tỷ Mỹ kim  để có được một nhà máy hoàn chỉnh với công suất 55 ngàn tấn giấy năm 2006.

Đây là một công trình viện trợ kéo dài nhất so với các công trình viện trợ của Thuỵ Điển. Trong thời gian chiến tranh Mỹ-Việt, vào thập niên 1960, Thủ tướng Thụy Điển thời bấy giờ Olof Palme cùng với dư luận Thuỵ Điển phản đối sự tham dự vào chiến tranh Việt Nam của Hoa Kỳ. Ông cho rằng hành động viện trợ cho Việt Nam thể hiện sự phản đối của Thuỵ Điển đối với Hoa Kỳ. Rolf Ekeus, phát ngôn viên của Đảng Dân chủ Xã hội đã phát biểu:”Tây phương đã dội bom nước nghèo (Viêt Nam) để biến nước nầy trở thành thời kỳ đồ đá, ít nhất, chúng ta cần làm là giúp họ xây dựng lại”.

Sự hình thành của dự án giấy Bãi Bằng

Trong giai đoạn đầu, Thuỵ Điển dư định gíup đở trong vòng ba năm về nguồn tài trợ để:

  • Trợ giúp kỹ thuật và tài chính trong việc trồng rừng vùng đồi núi,
  • Xây dựng nhà máy làm bột giấy,
  • Xây dựng nhà máy làm bàn ghế,
  • Cung cấp phương tiện vận chuyển như xe cộ, tàu bè…,
  • Khai triển bến bãi,
  • Xây dựng nhà máy phát điện với công xuất 350 MW,
  • Và sau cùng giúp đở để xuất cảng.

Chính phủ Thuỵ Điển thuê công ty tư vấn SIDA để thực hiện dự án.

Đến năm 1977, chi phí dự án đã lên đến 263,75 triệu Mỹ kim và không ai có thể kiểm soát được mức chi tiêu  cho dự án trong lúc nầy, và Bãi Bằng trở thành một “Trại Thuỵ Điển” vì đã chứa hơn 600 kỹ sư, công nhân, và gia đình, đại đa số là người Thuỵ Điển, và nơi nầy đã từng được các nhà quan sát ngoại quốc chế diễu là một “trại hè” hơn là một công trường xây dựng nhà máy!

 

Có thể nói hơn 40% chi phí tiêu xài trong thời gian xây dựng đã vào tay các nhà tư vấn (consultants) cũng như dụng cụ, máy móc và hầu hết dịch vụ đều do Thuỵ Điển cung cấp chiếm hơn 80% phí tổn của dự án. Trong 3 năm đầu của dự án, các nhà tư vấn hoàn toàn không có kinh nghiệm thực tế nào về xây dựng một nhà máy giấy. Sau đó SIDA phải thuê cty tư vấn Brazil và thiết kế theo tiêu chuẩn của các nhà máy giấy của xứ nầy.

Sau cùng, nhà máy giấy I hoàn thành vào tháng 12/1980, nhà máy giấy II vào tháng 3/1982 và nhà máy làm bột giấy tháng 9/1982.

Giai đoạn vận hành nhà máy

Những năm đầu tiên nhà máy hoạt động quả thật là một sự thất bại hoàn toàn vì, Việt Nam không có đủ chuyên viên và thợ chuyên môn để  điều hành nhà máy. Thêm nhiều vấn nạn khác liên tục xảy ra như không có các bộ phận trong máy cần phải thay thế cũng như thiếu hoá chất cần nhập cảng. Chính vì các lý do trên mà nhà máy vận hành không điều hoà và thường xuyên.

Về nguyên liệu, nhà máy quy hoạch và đặt trọng tâm chính vào diện tích tre nứa có trong vùng, nhưng vì hệ thống đường xá và chuyên chở không thích ứng với nhu cầu vận chuyển cho nên nguyên liệu không được cung cấp đúng kỳ hạn. Đây cũng là một trong nhiều lý do chính yếu làm cho nhà máy bị ngưng trệ nhiều lần vì thiếu nguyên liệu. Đứng trước tình thế đó, SIDA lại có dịp mời gọi thêm “chuyên viên quốc tế” vào giúp đở, vì vậy chi phí cho chuyên gia ngày càng tăng thêm.

 

Đứng về mặt sản xuất, hoàn toàn không có hiệu quả kinh tế. Ở thời điểm nầy, trong Nam, Ông Võ Văn Kiệt đang có ảnh hưởng lớn về việc “tái sử dụng” những chuyên viên cũ của Việt Nam Cộng Hòa, ông đã thành lập nhóm khoa học & kỹ thuật  và về sau có tên “nick name” “Nhóm Nghiên cứu Kinh tế Thứ Sáu“.

Nhóm đã bắt đầu tham gia vào dự án Bãi Bằng bằng cách ra tận nơi quan sát vào năm 1983, điều nghiên và sau cùng góp ý trong việc quản lý và điều hành nhà máy. Cũng vào thời điểm nầy, SIDA đã bổ nhiệm Sigvard Bahrke làm Giám đốc công trình năm 1984 và đề nghị chính phủ Thụỵ Điển gửi chuyên viên và công nhân sang Việt Nam để điều hành nhà máy, nhưng yêu cầu sau cùng không được chấp thuận.

Nhà máy cần phải có chuyên viên và công nhân Việt Nam. Từ đó vai trò của Nhóm Thứ Sáu ngày càng quan trọng đối với nhà máy. Tuy nhiên, đại đa số thành viên của Nhóm đều là cựu tù nhân cải tạo, không rập khuôn theo khuôn sáo “hồng hơn chuyên” như GS Nguyễn Ngọc Trân trong dự án nhà máy giấy Hậu Giang hiện nay, nên các phân tích khoa học của họ không được chấp nhận hoàn tòan; và do đó mới tạo nên những tác hại “dở khóc dở cười” trong các dự án nghiên cứu phát triển xảy ra thường xuyên trong rất nhiều dự án ngũ niện của CS Bắc Việt!

Vấn đề nguyên liệu

Mốt vấn đề then chốt khác nữa là nguyên liệu dùng để sản xuất. Theo quy hoạch, nhà máy căn cứ vào 100.000 mẫu rừng tre trong vùng và xem đây là nguồn nguyên liệu chính. Điều nầy ngay từ đầu (1974), cố vấn Jaakko Poyry đã khuyến cáo là nguồn nguyên liệu nầy không đủ tính khả thi vì con số trên chỉ là văn bản có ghi trên bản đồ: diện tích đất thì có, nhưng rừng tre bao phủ thì không! Điều nầy đã được kiểm chứng khi nhà máy bắt đẩu vận hành vào đẩu năm 1983.  Rừng tre bị chặt đốn lúc đầu, cây trồng lại không đủ thời gian để cho tre non mọc kịp thời, cho nên vào thời vụ 1986-1987, nhà máy không còn nguyên liệu để sản xuất ra bột giấy nữa.

Nguồn nguyên liệu vốn đã thiếu, cộng thêm kỹ thuật chặt đốn tre, gỗ thiếu kinh nghiệm, cho nên lượng tre thất thoát trong di chuyển chiếm đến 45% thể tích vì không thích hợp với đặc tính của gỗ cần thiết cho nhà máy. Một lý do khác nữa giải thích cho sự thất thoát là gỗ bị “rút tỉa” để chở về Hà Nội bán (fuelwood) để chụm lửa đun bếp cho việc nấu nướng. Điều nầy theo chuyên gia Ohlsson, số lượng thất thoát có thể lên đến 80%. 

Từ những nguyên nhân trên, Việt Nam lại tăng thêm diện diện tích quy hoạch là 200.000 mẫu rừng vùng Hà Tuyên và sau đó vùng Hà Tuyên, Hoàng Liên Sơn, và Vĩnh Phú chiếm thêm 1,2 triệu mẫu nữa, trong đó việc trồng rừng, đặc biệt là cây khuynh diệp và cây me keo (acacia) được cổ suý rộng rãi như là hai loại cây mọc nhanh nhất.

Vào năm 1990 có 6.500 mẫu dùng làm thí điểm để trồng hai loại cây nầy.

Thành quả và hệ lụy tồn đọng

Sau 14 năm hoạt động của nhà máy Bãi Bằng (1994), một báo cáo chính thức từ ban Thanh tra trong ngành là: “Nhà máy Bãi Bằng đã hoạt động 14 năm, và chỉ hoạt động theo từng giai đoạn và không dùng hết công suất của nhà máy. Nhà máy vẫn bị lỗ lã, vẫn còn tiếp tục nhận tài trợ của Thuỵ Điển và chính phủ Việt Nam. Trong thời gian nầy, phải tốn 310 triệu Mỹ kim để trồng 45.000 mẫu rừng. Nhà máy chỉ có một lợi thế duy nhất để tiêu thụ lượng giấy sản xuất mặc dù giá cao và luật cấm nhập cảng giấy trong giai đoạn nầy” (theo chuyên gia Chris Lang).

Vào năm 2000, nhà máy huy động 3.500 công nhân và chuyên viên kỹ thuật. Năm 2001, nhà máy sản xuất được 72.840 tấn giấy nhờ nhập cảng trên 80% nhu cầu bột giấy với giá rẻ. Tuy nhiên giá thành của giấy vẫn cao hơn độ 20% so với giá giấy trên thế giới.

Vào năm 2001, nhà máy mở rộng và dự kiến tăng công suất từ 55 ngàn lên 100 ngàn tấn giấy với phí tổn 50 triệu Mỹ kim.

Mặc dù có sự tài trợ hoàn toàn của Thuỵ Điển, nhà máy Bãi Bằng cho đến ngày nay vẫn chưa hoạt động độc lập hoàn toàn. Nguồn nguyên liệu vẫn căn cứ vào bột giấy nhập cảng. Hàng năm nhà máy nhập khoảng 25 đến 30% bột giấy (20.000 tấn bột giấy năm 2006).

Vào năm 2003, nhà máy đã xây dựng thêm một nhà máy làm bột giấy ở Phú Thọ với công suất 250 ngàn tấn/năm và phí tổn là 289 triệu Mỹ kim.

Thay lời kết 

Qua những thông tin liệt kê ở phần trên, nhiều kinh nghiệm cần được rút tỉa sau đây:

*           Nhà máy đã được khánh thành từ 36 năm qua, nhưng cho đến ngày nay vẫn còn được bao cấp và tài trợ từ nước ngoài. Điều nầy chứng tỏ rằng nhà máy không được quản lý theo một cơ chế tự do;

*           Về mặt quy hoạch, nguồn nguyên liệu là một yếu tố huyết mạch của nhà máy, nhưng vẫn còn nằm trong tình trạng lệ thuộc vào nguyên liệu nhập cảng dù diện tích trồng rừng quy hoạch đã tăng từ 100 ngàn mẫu lúc ban đầu lên đến 1,5 triệu mẫu hiện tại nhưng vẫn tiếp tục nhập cảng bột giầy cho nhu cầu sản xuất.

*           Nhà máy không được nghiên cứu tác động môi trường từ lúc ban đầu, mà chỉ căn cứ vào “sự hiện diện” của một nhà máy ở Thuỵ Điển, sau đó đổi qua mô hình của một nhà máy ở Ba Tây (Brazil). Vì vậy tác động và ảnh hưởng lên môi trường và hệ sinh thái trong vùng rất lớn. Hàng chục triệu m3 nước thải độc hại hàng năm vẫn tiếp tục đổ vào các sông ngòi trong vùng huỷ diệt hầu như hoàn toàn nguồn thủy sản trong vùng, cũng như tòan bộ hệ sinh thái bị thay đổi do việc phá rừng và đà gia tăng dân số.

Đây là một bài học lớn cho những người có trách nhiệm về quy hoạch phát triển quốc gia. Và bài học nầy vẫn còn tiếp diễn khi lễ đặt viên đá đầu tiên cho nhà máy giấy Hậu Giang vào năm 2004, nhà máy lớn nhất nước với công suất dự kiến là 570 ngàn tấn giấy/năm trên chi phí 1,2 tỷ Mỹ kim ban đầu và có thể lên đến 1,7 tỷ khi hoàn thành. (Người viết sẽ tiếp tục trong Phần II của Kỹ nghệ giấy Việt Nam).

Để kết luận và với tính cách thông tin, những hình ảnh của những nhà máy giấy hiện đang hoạt động dưới đây cho chúng ta thấy được tính quy hoạch của các “đỉnh cao trí tuệ CS Bắc Việt” trong việc phân bổ kỹ nghệ giấy. Sự tập trung rất nhiều nhà máy trong một vùng đất không thể trồng cây để làm nguyên liệu cho việc sản xuất bột giấy, và hấu hết các hảng xưởng làm giấy đều do “các ông chủ người Tàu” cũng như thiết bị, máy móc, và nguyên liệu bột giấy đến từ…Trung Cộng. Chỉ một vài nhà máy do “chủ” là Đài Loan, Nhật Bản, và Đức quốc.

 

Từ đó cho chúng ta có thể kết luận là:

  • Tính lệ thuộc của Cộng sản Bắc Việt vào Trung cộng;
  • Thiết lập nhà máy giấy trong những vùng đông dân và không có nguồn nguyên liệu…ngoài việc nhập cảng;
  • Hầu hết tất cả nhà máy giấy đang hoạt động đều có thành phẩm là giấy có giá thành cao hơn…giấy nhập cảng. Điều nầy cho thấy tính quản lý ưu việt của xã nghĩa;
  • Tập trung phát triển miền Bắc nhằm mục đích “cào bằng” miền Nam trong lãnh vực kinh tế, giống như việc tập trung phát triển và nâng cao giáo dục miền Bắc;
  • Não trạng của CS Bắc Việt vẫn xem việc “thống nhứt đất nước” chỉ là hình thức, mà thực tế vẫn là một quốc gia Bắc Việt xâm chiếm lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa cũng như thực hiện một chính sách “thực dân mới” không khác gì thời kỳ đô hộ của Tây Phương trong thế kỷ 18,19, và bán thập niên đầu của thế kỷ 20.
  • Và sau cùng, phải chăng việc thiết lập các nhà máy giấy khắp nơi, nhứt là tập trung ở miền Bắc nhằm mục đích thâm sâu là “nuôi” lao động bằng số lương chết đói hơn là nhắm vào việc phát triển quốc gia thực sự.

 

Mai Thanh Truyết

Hi Khoa hc & K thut Vit Nam ti Hoa Kỳ

Viết cho ngày khánh thành Nhà máy Giy Hu Giang – 6-2016