Khi Việt Nam nói chuyện nhân quyền
Số là, ngày 21 Tháng Mười Hai vừa qua, chính phủ Việt Nam ban hành Chỉ Thị số 34/CT-TTg do ông Vũ Đức Đam, phó thủ tướng ký, với nội dung “tăng cường thực hiện đề án đưa nội dung quyền con người vào chương trình giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân.”
Chỉ thị này nằm trong một loạt
các hoạt động của chính phủ tuyên truyền cái gọi là “nhân quyền” theo cách hiểu
của họ nhằm chống lại, phản ứng lại, những lời chỉ trích gay gắt và liên tục của
các chính phủ dân chủ phương Tây và các tổ chức nhân quyền quốc tế về chiến dịch
đàn áp khốc liệt những tiếng nói bất đồng ở trong nước.
Sáng ngày 1 Tháng Mười Một vừa
qua, tại cuộc đối thoại trong khuôn khổ Hội Nghị Biến Đổi Khí Hậu của Liên Hiệp
Quốc lần thứ 26 (COP26) diễn ra tại Glasgow, Scotland, ông Phạm Minh Chính, thủ
tướng, đã đưa ra một tuyên bố cứng rắn về vấn đề nhân quyền: “Tôi sẵn sàng đối
thoại với bất cứ ai trên thế giới này về vấn đề nhân quyền. Nhân quyền lớn nhất
là lo cơm ăn áo mặc cho 100 triệu dân, không để ai thiếu ăn thiếu mặc, khi khó
khăn không bỏ ai lại phía sau.”
Những lời lẽ cao ngạo này được
ông Chính nhắc lại trong hội nghị Diễn Đàn Cấp Cao Lần Thứ Ba Về Cách Mạng Công
Nghiệp 4.0 do Ban Kinh Tế Trung Ương đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN) tổ chức tại
Hà Nội hôm 6 Tháng Mười Hai vừa qua. Ở đó ông Chính còn nhấn mạnh: “Trong kỷ
nguyên số con người là yếu tố quan trọng nhất” (!)
Thảm cảnh đó đã được đề cập rất
nhiều trên trang báo này, xin phép không nhắc lại nữa. Chính phủ của ông Chính
chẳng những không lo được cơm ăn áo mặc cho người dân mà còn câu kết với giới
tư bản thân hữu để bòn rút của họ đến đồng xu cuối cùng. Và dẫu người dân có đủ
cơm ăn áo mặc đi nữa thì đó cũng không phải là “thành tích nhân quyền” mà một
chính phủ có thể đem ra khoe khoang với các nhà lãnh đạo thế giới.
Nhân quyền (human rights) là một
giá trị phổ quát cho mọi con người sinh sống trên hành tinh, đã được minh định
trong các công ước của Liên Hiệp Quốc, đặc biệt là Công Ước Quốc Tế về Các Quyền
Dân Sự và Chính Trị (ICCPR) năm 1966, quy định các bên tham gia ký kết sẽ phải
tôn trọng các quyền dân sự và chính trị của từng cá nhân, bao gồm quyền sống,
quyền tự do tôn giáo, tự do phát biểu, tự do hội họp, quyền bầu cử và quyền được
xét xử bình đẳng và theo đúng trình tự pháp luật; Công Ước Quốc Tế về Các Quyền
Kinh Tế, Xã Hội và Văn Hóa (ICESCR) năm 1966, quy định các quốc gia tham gia
công ước phải cam kết trao các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa cho các cá
nhân, bao gồm quyền tham gia nghiệp đoàn và quyền chăm sóc sức khỏe, quyền giáo
dục, và quyền được đảm bảo mức sống phù hợp.
Việt Nam đã ký kết tham gia cả
hai công ước quốc tế này ngày 14 Tháng Chín, 1982. Bây giờ ông thủ tướng Việt
Nam tuyên bố “nhân quyền lớn nhất là cơm ăn, áo mặc” thì hóa ra ông ta đã sổ toẹt
quy định của các công ước quốc tế mà Việt Nam đã long trọng ký kết. Đơn giản
hóa “nhân quyền = cơm ăn áo mặc,” phải chăng ông Chính muốn nói cái nhân quyền
mà chính phủ của ông nhắm tới chỉ là một thứ “nhân quyền” của “Trại Súc Vật” –
mượn tên tác phẩm “Animal Farm” của nhà văn Anh George Orwell – trong đó các
thành viên súc vật không có nhu cầu gì khác hơn là được ăn no!
Cách hiểu giá trị nhân quyền thô
thiển như vậy của ông thủ tướng Việt Nam không tự dưng nảy ra mà có gốc gác sâu
xa trong các bài giảng của Học Viện Chính Trị Quốc Gia Hồ Chí Minh. Bao năm
qua, học viện này đào xới cái gọi là “tư tưởng Hồ Chí Minh” – thực chất là những
tín điều cứng nhắc của chủ nghĩa Cộng Sản Marx-Lenin, để nhồi nhét vào đầu cán
bộ đảng viên những quan điểm phản động và lạc hậu về mọi lĩnh vực cuộc sống, kể
cả các vấn đề dân chủ, tự do, nhân quyền.
Theo Chỉ Thị số 34/CT-TTg nói
trên, Học Viện Chính Trị Quốc Gia Hồ Chí Minh sẽ đứng ra biên soạn các tài liệu
truyền thông, tài liệu chuyên khảo, tham khảo về giáo dục quyền con người sử dụng
trong hệ thống trường học. Chưa cần đọc các tài liệu đó cũng đủ biết người ta sẽ
dạy cho sinh viên học sinh cái “nhân quyền” gì. Tiến Sĩ Nguyễn Quang A ở trong
nước gọi đó là “nhân quyền CSVN!”
Ông thủ tướng Cộng Sản còn cao ngạo
thách thức: “Tôi sẵn sàng đối thoại với bất cứ ai trên thế giới này về vấn đề
nhân quyền;” quả là hết sức đại ngôn, điếc không sợ súng! Ông Chính có đủ trình
độ và can đảm để “đối thoại” về nhân quyền với một số công dân Việt Nam đang bị
chế độ của ông cầm tù như các ông Trần Huỳnh Duy Thức, Phạm Chí Dũng, cô Phạm
Đoan Trang… hay không? Ông có dám đối thoại sòng phẳng, thực chất và cầu thị chứ
không phải bằng dùi cui, còng số tám và các thủ đoạn vu cáo, chụp mũ hay không?
Nếu ông Chính thực tâm muốn đối thoại một cách văn minh thì chắc không thiếu những
nhân sĩ trí thức trong nước và đồng bào Việt Nam hải ngoại sẵn sàng “tiếp
chiêu” ông bất kể ở đâu, bất kể lúc nào.
Dài dòng như vậy để nhận chân cái
gọi là “giáo dục nhân quyền” mà đảng CSVN đang thúc đẩy bằng Chỉ Thị 34 chẳng
qua chỉ là một phần của chiến dịch tuyên truyền, tẩy não các thế hệ trẻ về một
vấn đề hết sức thiết yếu với tương lai của đất nước.
Trong chiến dịch này, một mặt đảng
ra sức dập tắt những tiếng nói đấu tranh cho nhân quyền; một mặt đẩy mạnh tuyên
truyền, nhồi nhét vào đầu thế hệ trẻ cái quan điểm phản động về nhân quyền, quảng
bá cái gọi là “nhân quyền CSVN.”
Không nên hy vọng mơ hồ rằng việc
Hà Nội thúc đẩy “giáo dục nhân quyền” trong các trường học theo Chỉ Thị 34 nói
trên là “điều đáng mừng” hoặc “có giá trị nhất định” như nhận định của vài nhà
hoạt động trong nước chừng nào chế độ này vẫn tiếp tục duy trì các điều luật mơ
hồ như Điều 88, Điều 117 Bộ Luật Hình Sự và các biện pháp độc tài tàn bạo để
bóp nghẹt các quyền tự do căn bản của công dân.
Tại sao đảng CSVN chọn thời điểm
này để ban hành đề án “giáo dục” nhân quyền? Phát biểu với đài Tiếng Nói Hoa Kỳ
(VOA) mới đây, hai nhà hoạt động trong nước là Tiến Sĩ Nguyễn Quang A và ông
Nguyễn Lân Thắng nói rằng, có thể do Việt Nam đang ráo riết vận động cho việc ứng
cử vào Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc. Đặt trong bối cảnh quốc tế rộng lớn
hơn, hành động của chính phủ CSVN còn có một mục đích khác.
Chiến dịch đàn áp các tiếng nói bất
đồng ở Việt Nam đang lên tới cao điểm trong những ngày cuối năm 2021 và hậu quả
là Hà Nội đang bị phản đối chưa từng thấy của công luận quốc tế. Không chỉ các
chính phủ Mỹ, Anh, Canada, Đức, Úc và nhiều nước khác lên tiếng lo ngại, không
chỉ các tổ chức nhân quyền toàn cầu như Ân Xá Quốc Tế (Amnesty International),
Theo Dõi Nhân Quyền (Human Rights Watch) lên tiếng mà cả các định chế Liên Hiệp
Quốc như Văn Phòng Cao Ủy Nhân Quyền (OHCHR) cũng đã ra tuyên bố bày tỏ lo ngại
sâu sắc và yêu cầu Việt Nam trả tự do ngay lập tức cho bốn nhà hoạt động nhân
quyền Phạm Đoan Trang, Trịnh Bá Phương, Nguyễn Thị Tâm và Đỗ Nam Trung.
Bà Ravina Shamdasani, phát ngôn
viên OHCHR, ra thông cáo hôm 17 Tháng Mười Hai, kêu gọi Việt Nam “bãi bỏ tất cả
các quy định pháp luật vi phạm các quyền tự do cơ bản” và nói rằng các cáo buộc
chống lại bốn người này là “mơ hồ và quá rộng do đó không phù hợp với các chuẩn
mực nhân quyền quốc tế.” Đây là một trường hợp hiếm hoi mà một định chế Liên Hiệp
Quốc “nặng lời” với một quốc gia thành viên về thành tích nhân quyền tồi tệ.
Điều mà Hà Nội phải làm lẽ ra là bãi bỏ các điều luật mơ hồ và vô lý, tuân thủ quy định của các công ước quốc tế về nhân quyền mà họ đã ký kết, thực thi những điều khoản được ghi trong bản hiến pháp năm 2013 của họ, và trả tự do ngay cho các tù nhân lương tâm đang bị giam giữ trong các trại tù từ Nam chí Bắc. Làm được như vậy thì đảng CSVN mới có chút tư cách và đạo đức tối thiểu để lên bục giảng nói chuyện với sinh viên học sinh về nhân quyền mà không lo bị chế giễu nói một đàng làm một nẻo.
Hiếu Chân – (Người Việt) – 25-12-2021