Hữu nghị Trung Việt, mộng tưởng của những kẻ mị dân

Cac Bai Khac

No sub-categories

Hữu nghị Trung Việt, mộng tưởng của những kẻ mị dân
Huỳnh Tấn Bửu
29-9-2017
Ảnh minh họa. Nguồn: internet/ QHQT
Quan hệ Trung – Việt đã có một lịch sử tới 2.000 năm. Trong 1.000 năm đầu, trừ thời gian ngưng chiến ngắn ngủi và những lúc ở Trung Quốc có nội loạn, còn toàn bộ thời gian có thể nói là Trung Quốc đã trực tiếp thống trị Việt Nam. Trong 1.000 năm sau, tuy Việt Nam không bị Trung Quốc trực tiếp thống trị, nhưng họ chịu đủ mọi thứ đối xử không bình đẳng, như là một thuộc quốc, xen vào đó là thời kỳ cách quãng của những cuộc chinh phục bằng quân sự.
Như Engene Lawson nói: “Điều mà Trung Quốc đắn đo chủ yếu đối với Việt Nam không phải là chuyện cướp đoạt của cải, mà chính là vì an ninh của bản thân Trung Quốc. Điều mong mỏi nhất quán trong chính sách của Trung Quốc là muốn ở khu vực bắc Việt Nam phải do một Chính phủ tương đối hữu nghị thân thiện lãnh đạo. Vì trong giới lãnh đạo của Trung Quốc Cộng sản hiện nay vẫn ghi nhớ một nỗi đau là vào cuối thế kỷ XVIII người Pháp đã thâu tóm khu vực Đông Dương và vùng Tây Nam của Trung Quốc thành phạm vi thế lực của mình. Năm 1940, vì lợi ích quân sự, người Nhật đã nắm lấy quyền lực hành lang Việt Nam – Tokyo”. Kỳ vọng truyền thống của Trung Quốc đối với Việt Nam là Trung Quốc muốn Việt Nam trở thành một quốc gia đệm ở trên vùng biên giới để đối phó với những nguy cơ từ sự xâm lược từ bên ngoài vào. Cho đến ngày hôm nay, khi phải lo lắng ý đồ Liên Xô bao vây Trung Quốc, thì kỳ vọng đó vẫn cứ tồn tại. Chỉ nhìn bối cảnh lịch sử 2.000 năm, chúng ta cũng không thể xem thường Chủ nghĩa bá quyền Trung Quốc và mưu đồ Hán hóa các quốc gia xung quanh họ. Còn hiện nay Chủ nghĩa bá quyền dân tộc cộng với sức mạnh của hình thái ý thức, thì đó chính là thứ Chủ nghĩa cộng sản dưới sự chỉ đạo của tư tưởng Mao Trạch Đông, Tình cảm của người Việt Nam đối với Trung Quốc tương đối phức tạp, nó là một mối mâu thuẫn chứa đầy hận thù với hữu nghị.
Một mặt, người Việt Nam ca tụng và tôn trọng Trung Quốc như là nơi bắt nguồn cho những quan niệm mới, những tư duy mới của họ: tư tưởng và quan niệm về các mặt chế độ nhân viên hành chính, tư tưởng Nho gia, ngôn ngữ và cả đến chế độ nông nghiệp của Trung Quốc, thế nhưng trên mặt khác, người Việt Nam bao giờ cũng nghi ngờ ý đồ thật của Trung Quốc xâm lược Việt Nam và họ rất căm ghét thái độ ngạo mạn của người Trung Quốc đối với “Nam man”. Thực trạng quá khứ Trung Quốc xâm lược Việt Nam đã làm cho người Việt Nam khiếp sợ sự thống trị của Trung Quốc, thậm chí ngay cả ở trong nước người Việt Nam cũng rất sợ bị các Hoa kiều có thành đạt về mậu dịch và buôn bán khống chế. Đương nhiên có một phần nhân cách con người dân tộc Việt Nam đã bị Trung Quốc hóa, song họ vẫn rất kiên trì bảo vệ giữ gìn tính độc lập về văn hóa và tính cách của chính bản thân mình. Đến khoảng cuối thế kỷ XIX, có hai sức mạnh làm cho những người cách mạng Trung Quốc và những người cách mạng Việt Nam gắn bó với nhau: Sức mạnh thứ nhất là Chủ nghĩa dân tộc của Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của tiên sinh Tôn Trung Sơn đã lật đổ Chính phủ Mãn Thanh, đó là tấm gương cho những người Việt Nam dân tộc chủ nghĩa. Sức mạnh thứ hai là cả hai bên đều có chung mục đích cố gắng đánh đổ Chủ nghĩa đế quốc phương Tây mà đỉnh cao của nó biểu hiện ở việc cách mạng Việt Nam đã đánh đổ được ách thống trị của hai cường quốc Pháp vàMỹ.
Alexiou có chỉ ra rằng: chúng ta có thể dễ dàng thấy được liều thuốc kích thích Trung Việt quan hệ với nhau. Đó là vào những năm cuối đời nhà Thanh, tiên sinh Tôn Trung Sơn đã lấy Hà Nội làm một căn cứ để phát động cách mạng Trung Quốc; còn năm 1911 những người cách mạng Việt Nam chịu ảnh hưởng của tư tưởng Tôn Trung Sơn đã lấy Quảng Châu làm một căn cứ cách mạng của mình.  Harold Hinton chỉ rõ: “Con đường của Chủ nghĩa dân tộc hiện đại của Trung Quốc và Việt Nam là con đường tiến song song, cũng có khi nó gắn chặt với nhau”.
Mâu thuẫn trong quan hệ Trung – Việt đã biểu hiện cụ thể ở Hội nghị Băng Đung năm 1954. Lawson nói: “Bắc Kinh vô cùng phản đối ý đồ của Hà Nội, họ ép Hà Nội phải biểu thị công khai rằng sẽ không can thiệp vào công việc của Lào”.  Năm 1954, Việt Nam đánh bại Pháp, sau đó tổ chức đàm phán ở Giơ-ne-vơ vào tháng 5, thảo luận về việc quân đội Pháp rút khỏi Việt Nam và lấy vĩ tuyến 17 để phân chia Nam, Bắc Việt Nam. Hội nghị Giơ-ne-vơ là hội nghị lần đầu tiên Trung Quốc tham gia với vai trò quyền lực. Đến sau này, quan hệ Trung – Việt bị phá vỡ vào năm 1979, Việt Nam đã công bố “Sách trắng”, trong đó có nêu rõ: “lúc đó họ đã sắp sửa nhanh chóng giành được thắng lợi trên toàn Đông Dương và chỉ trích Trung Quốc trong Hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954 đã ép Việt Nam phải chấp nhận đề nghị phân chia Miền Bắc và Miền Nam Việt Nam thành hai nước”.
“Sách trắng” còn công bố, sau khi ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ, Chu Ân Lai đã đề nghị với em trai Ngô Đình Diệm là Ngô Đình Nhu để Miền Nam Việt Nam được công khai đặt Công sứ quán tại Bắc Kinh. Hành động này, theo “Sách trắng” để lộ, chứng tỏ Trung Quốc có ý đồ làm cho Việt Nam vĩnh viễn bị chia cắt.  “Sách trắng” tiếp tục nói rõ, Việt Nam cho rằng mục đích cuối cùng trong chính sách ngoại giao đối với Đông Nam Á của Mao Trạch Đông là duy trì sự chia cắt Việt Nam để Trung Quốc có thể đạt được mưu đồ thống trị toàn Đông Nam Á. Lawson cũng từng nói rằng: “Trung Quốc rất hài lòng với Hiệp định này. Và trên thực tế là trong vòng 10 năm sau, Hiệp định Giơ-ne-vơ đã chi phối cách suy nghĩ của Trung Quốc trong giải quyết các vấn đề liên quan đến Việt Nam”. Cho đến tận nay, Việt Nam vẫn nói rằng, dưới sức ép của Trung Quốc, nên trong Hiệp định Giơ-ne-vơ, Lào chỉ giành được hai tỉnh của cả nước Lào để có thể làm khu căn cứ xây dựng và chỉnh đốn quân đội, Việt Nam còn tố cáo Trung Quốc khi thừa nhận chính quyền Sihanouk đã không dành cho quân Cộng sản Cămpuchia một vùng đất đai nào cả.
Với tư cách là “chủ đầu tư” chính cho lực lượng Việt Minh đánh Pháp. Lần đầu tiên, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc được xuất hiện tại Geneva với tư cách là nước lớn và có tiếng nói trên thế giới thông qua chiến thắng Điện Biên Phủ.
Báo Nhân dân của Việt Nam có viết: “Chính sách của họ (Trung Quốc) lúc đó là mong cho nội bộ Việt Nam và Lào bị chia rẽ, đồng thời muốn lợi dụng Miền Bắc Việt Nam cùng với hai tỉnh giải phóng của Bắc Lào làm thành khu vực đệm theo biên giới phía nam của Trung Quốc. Họ đã phớt lờ lợi ích của cách mạng Cămpuchia, trong khi đó cách mạng Cămpuchia đã giải phóng được hai phần ba đất nước”. Trên thực tế, trong khoảng thời gian từ năm 1954 đến năm 1964, giới lãnh đạo của Trung Quốc luôn hy vọng dùng biện pháp đàm phán và biện pháp tiến đánh du kích nhỏ lẻ để giải quyết vấn đề xung đột với Việt Nam, bởi vì trong thập kỷ 50 và đầu thập kỷ 60, chính sách của Trung Quốc là muốn ủng hộ Chính phủ trung lập ở Lào và Cămpuchia, cốt để tránh được việc Việt Nam mở rộng lực lượng trên hai nước này. Sau này, trong một bài bình luận, tờ Kinh tế Viễn Đông (FEER) đã tỏ ra đồng tình với các nhận định này, viết rằng “Theo một số nhân sĩ đã từng có quan hệ thân thiết với cố thủ tướng Chu Ân Lai đã để lộ, trong Hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954, đúng sự thực là Chu Ân Lai đã chặn ý muốn của Việt Nam thống trị toàn Đông Dương, đồng thời ông đã ép Việt Nam phải chấp nhận Lào, Cămpuchia, Việt Nam là từng nước độc lập với nhau. Nhưng Việt Nam đã phản bác lại cách đặt vấn đề như thế, họ cho rằng, chính Trung Quốc vì muốn mở rộng Chủ nghĩa bá quyền nên mới buộc ba nước Đông Dương phải phân lập với nhau”.

 

Nhưng để hiểu được tố cáo của “Sách trắng” của Việt Nam, chúng ta cần phải hiểu rõ chính sách cân bằng của Trung Quốc và Liên Xô đối với Việt Nam vào lúc đó. Lawson nói: “Đã từ lâu Việt Nam phát hiện Liên Xô và Trung Quốc đều giống như nhau, cả hai đều muốn ủng hộ có mức độ cho Việt Nam chỉ đủ đạt mức phù hợp với các mục tiêu của họ. Trước năm 1954, Liên Xô ủng hộ Việt Nam vô cùng nhỏ nhoi. Và trong đàm phán ở Hội nghị Giơ-ne-vơ, Liên Xô và Trung Quốc đã cùng nhau ép buộc Việt Nam phải chấp nhận những điều kiện bất lợi.” Cho nên sau khi kết thúc hội nghị đàm phán Giơ-ne-vơ, Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh đã vun đắp quan hệ tốt đẹp với Liên Xô và Trung Quốc để giành được viện trợ cho xây dựng kinh tế và tiến hành đấu tranh ở Việt Nam.