Hành lang kinh tế Việt Nam Trung Quốc – Nguyễn Bá Lộc

Cac Bai Khac

No sub-categories

Hành lang kinh tế Việt Nam Trung Quốc – Nguyễn Bá Lộc

Trên thế giới, đã từ lâu, theo truyền thống tự nhiên đã có sự giao dịch thương mại tại biên giới của hai hay nhiều nước. Trong những năm gần đây, với sự hổ trợ của của nhiều cơ quan quốc tế, một số quốc gia đưa sự hợp tác về kinh tế biên giới ở mức cao hơn. Những dự án hay chương trình thỏa hiệp đó gọi chung là Hành lang kinh tế (HLKT). HLKT là sự phối hợp nhiều mặt hơn trong sự phát triển chung về kinh tế – xã hội vùng biên giới.

 Mục tiêu của các phương án nầy là nhằm phát triển kinh tế tại vùng biên giới. Tuy nhiên sự hợp tác, có nhiều phức tạp ở phía sau, trong đó có những tìềm ẩn âm mưu đen tối và nguy hiểm. Đó là trường hợp thỏa hiệp HLKT to lớn và toàn diện giữa Việt Nam (VN) và Trung quốc (TQ).

Theo cơ quan Liên hiệp quốc thì cho là hợp tác HLKT Việt Trung là một mẫu mực điển hình tốt. Nhưng trên bình diện quốc gia và dân tộc, đó là một vấn đề của nhiều vấn nạn trong mối bang giao giữa VN và TQ.

Theo tin tức mới nhứt, VN và TQ vừa khánh thành xa lộ xuyên qua cửa Hữu nghị (thuộc tỉnh Lạng sơn) đi sâu vào TQ, vào ngày 2 tháng 10 -2012 . Đây là lần đầu tiên, các loại xe có thể đi từ Hà nội đền các tỉnh sâu trong nội địa TQ, với chiều dài 1.300 km (trước kia chỉ vào có 20 km). Và một xa lộ khác nối Côn Minh (tỉnh Vân Nam) đến Hải phòng cũng đã được khánh thành ngày 16-8-2012. Hai công trình nầy là một phần của kế hoạch HLKT Việt Trung đã và sẽ triển khai manh mẽ trong âm mưu bá quyền của TQ lấn át kinh tế VN và dùng lảnh thổ VN Trung quốc tiến xuống các nước Đông nam Á.

I.Tổng lược Hành Lang Kinh tế

1. Ý niệm tổng quát: HLKT là vùng nằm hai bên biên giới và được sự thỏa hiệp chánh thức của hai hay nhiều nước nhằm phát triển kinh tế trong vùng biên giới (Cross-Border Economic Cooperation Zones). Nó tương đối rộng lớn, đi sâu vào đất liền hay cảng ven biển nối liền nhiều thành phố trọng yếu của hai bên. HLKT được kiến tạo tương đối qui mô, nhiều đự án phát triển liên quan đến kinh tế xã hội.

Những sanh hoạt kinh tế vùng HLKT rất đa dạng. Đại cương nó gồm có:

–          Sanh hoạt kinh tế trực tiếp : Thương mại , Đầu tư, Khu kỹ nghệ , Dịch vụ , Ngân hàng, Du lịch.

–          Sanh hoạt gián tiếp và yểm trợ phát triển chung: Hệ thống đường sá , bến càng , phi trường, khoa học kỹ thuật, văn hóa giáo dục…

Các sanh hoạt kinh tế thương mại thì có nhiều hình thức: Chánh thức qua thỏa hiệp của hai quốc gia, các thương nhân phải có giấy phép. Hoặc buôn bán lẻ tẻ ở chợ nhỏ biên giới không có giấy phép. Và loại khác không có giấy phép và không kiểm soát nỗi, đó là buôn lậu. Hoạt động thương mại của HLKT là họat động qui mô, có phép tắc.

Mục tiêu của HLKT là hổ trợ, hợp tác để phát triển kinh tế vùng hai bên biên giới và giúp cho sự phát triển kinh tế chung của các đối tác.

Trong khoảng 10 năm trở lại đây , trong các chương trình phát triển kinh tế xã hội vùng, một số cơ quan quốc tế như Ngân hàng phát triển Á châu , Ngân hàng thế giới , Chương trình phát triển của Liên hiệp quốc (UNDP) yểm trợ cho các dự án HLKT.

2.Vài Hành lang kinh tế trên thế giới.

Trên bình diện quốc tế, việc mua bán trao đổi hàng hóa trên HLKT, trước kia còn gọi là“mậu dịch biên cương”. Do dân chúng ở hai bên biên giới mua bán và trao đổi hàng hóa với nhau. Với sách lược mới, với tinh thần hợp tác mới, môt số nước thỏa hiệp xây dựng khu vực HLKT .

Có thể trình bày ở đây vài HLKT trên thế giới hiện nay:

  • Hành lang Đông tây (WEC)

Đây là một trong những nội dung của Chương trình hơp tác phát triển giữa các nước: Việt Nam , Lào , Cambodia, Miến Điện và Tây Nam Trung quốc.

Nội dung hơp tác đại cương gồm có:

-Nâng cấp các tuyến đường bộ từ Thái lan và cuối cùng là hải cảng Việt Nam.

-Nâng cấp một số hải cảng Việt Nam có liên hệ tới các nước trên.

-Đầu tư khai thác tài nguyên

-Hợp tác phát triển thủy lợi

-Phát triển kỹ nghệ chế biến

-Nghiên cứu khả năng xây cất đường ống dẫn dầu

-Đâỷ mạnh giao dịch thương mại

-Và một số chương trìng về xã hội , y tế chung

Đây là phương án lớn. Ngòai ngân khoản của các chánh phủ liện hệ, còn có các cơ quan và quốc gia khác tài trợ dưới hình thức tiền vay theo chưong trình ODA. Và một số đầu tư ngoại quốc bỏ vào.

  • Hành lang phát triển Maputo

Đây là thỏa ước giữa Nam phi và Mozambia. Hai nước nầy có lịch sử lâu đời về mua bán qua lại giữa hai biên giới chung. Đây là phương án rất lớn. Có nhiều chương trình vừa kinh tế , du lịch và xã hội. Số tiền đầu tư dự trù lên tới 7 tỷ mỹ kim.

Hành lang phát triển Maputo được sự yểm trợ của một số cơ quan quốc tế. Phương án đã bắt đầu cách đây 5 năm. Lợi ích của kế hoạch nầy khổng chỉ cho hai nước Nam phi và Mozambia mà còn tới một số nước Phi châu khác.

Nhiều HLKT trên thế giới đã trở thành những chương trình phát triển vùng và đóng góp khá tốt cho sự phát triển kinh tế toàn cầu. Vì vậy có một số dự án phát triển HLKT được nhiều cơ quan quốc tế yểm trợ. Như Ngân hàng Á châu, Ngân hàng thế giới.

Ngoài ra một số HLKT quan trọng có thể trở thành địa bàn đầu tiên để từ đó tiến đến các vùng kinh tế khác . Ví dụ HLKT Việt Trung là bàn đạp cho kế họach phát triển và âm mưu bá quyền giữa Trung quốc và các nước ASEAN, một vùng rất quan trọng mà TQ muốn nắm lấy.

Trên thế giới hiện còn có một số HLKT nữa có mục tiêu tương tự .

3. Lợi ích tổng quát của HLKT:

Các HLKT có nhiều cái lợi, nhưng mối lợi không đồng đều cho hai bên. Có khi một bên vừa có lợi vừa có hại trên một số mặt nào đó. Nói chung, các lợi ích có thể được tóm tắt như sau:

-Giảm chi phí lưu thông hàng hóa . Vì hệ thống đường sá tốt hơn thuận tiện hơn. Do dó giá cả sẽ thấp hơn.

-Hạ tầng cơ sở trong vùng (điện, nước, cảng ) tốt hơn đưa tới phí tổn thấp hơn và tiết kiệm thời gian hơn.

-Giao thông vận tải nhanh hơn , tiết kiệm hơn, an toàn hơn , khuyến khích du lịch và cải thiện đời sống dân cư hai bên biên giới.

-Liên kết xây dựng kỹ nghệ tốt hơn, tận dụng nguyên liệu và kỹ nghệ chế biến lâm sản , nông sản gần khu sản xuất .

-Lơị tức dân chúng vùng liên hệ sẽ khá hơn, vì kinh tế phát triển hơn.

-Phát triển nhân dụng khá hơn, bớt thất nghiệp.

-Công cuộc khai thác tài nguyên thiên nhiên tốt hơn

 

II. Tiến trình thực hiện HLKT Việt -Trung

1. Ý định và quan điểm về HLKT Việt -Trung

Trong lịch sử Việt Nam , từ rất xa xưa, cũng đã có giao dịch kinh tế thưong mãi tại vùng biên giới giữa Việt Nam Trung quốc , Lào và Cambodia. Mặc dù mức độ giao thương không cao , nhưng cũng đã có một số định chế và dân chúng vùng biên giới đó coi như một hoạt động để sống hằng ngày. Bên cạnh sự chánh thức hóa còn có những họat động bất họp pháp, thậm chí có những đường dây buôn lậu qui mô hay một số hoạt động liên quan đến vấn đề an ninh quốc gia.

Họat động kinh tế đó không thể xóa bỏ được trên thực tế. Vấn đề là cần có sự hợp tác  công bằng và hợp lý giữa hai nước.

Ý nghĩ thành lập HLKT qui mô giũa Việt Nam và Trung quốc đã có từ khi VN lệ thuộc nhiều vào TQ  và từ khi TQ đã đạt mức phát tiển cao từ đầu thập niên 2000. Nhưng cụ thể, sau những vận động hậu trường.Kế họach HLKT Việt Trung được nêu ra tại Hội nghị các Bộ trưởng các nước tiểu vùng Mekong tại Manila tháng 9 – 1998. Hội nghị nầy do Ngân hàng phát triển Á châu ( Asian Development Bank) chủ trì. Sau đó Chánh quyền VN và TQ chánh thức ký thỏa ước HLKT Côn Minh – Hải phòng vào năm 2007.

Mục đích chánh của bài nghiên cứu nhỏ nầy không phải nhằm trình bày chi tiết sự trao đổi kinh tế thương mại của hai nước, mà thông qua kế họach HLKT Việt Trung , đặc biệt qua HLKT Côn Minh – Lao Cài-Hà nội -Hải phòng, ( gọi tắt là HLKT Côn Minh – Hải phòng), để thấy thêm những chèn ép kinh tế của TQ đối với VN cùng với những âm mưu khác của TQ trong kế họach kềm tỏa VN và ảnh hưởng rộng lớn tới vùng Đông nam Á.

Trong kế hoạch mở rộng xuống Đông Nam Á, đối với TQ, Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi trở thành một công cụ hay một tay sai .

Với quan điểm và mưu tính đó, TQ và VN đã thảo luận, âm mưu và ký thỏa hiệp HLKT Việt Trung.

Tại các buồi bàn thảo cũng như ký kết thỏa ước, cả hai nước VN và TQ cho việc thực hiện là hết sức cấp thiết để đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế toàn cầu và phát triển kinh tế của hai nước.

Đứng trên bình diện lợi ích quốc gia, Việt Nam nhận được nhiều bất lợi hơn là có lợi.

Việt Nam và Trung quốc có biên giới chung rất dài, có một số cửa khẩu để giao thương. Trong đó có hai cửa khẩu quan trọng nhứt là Lào Cai thuộc tỉnh Lào Cai và cửa khẩu Hữu nghị thuộc tỉnh Lạng sơn.Con đường từ Vân nam của Trung quốc qua Lào Cai là quan trọng nhứt, vì đi từ vùng tương đối chưa phát triển mạnh ở phía tây nam TQ, đi xuyên qua VN trong một vùng rất quan trọng có số dân chiếm 25% tổng số dân toàn quốc. Nhứt là qua hai trọng điểm là Hà nội và Hải phòng.

2. Các chương trình và kết quả sơ khởi về HLKT Việt Trung

Hành lang nầy nối liền tỉnh có nhiều tài nguyên ở phía Tây nam Trung quốc là Vân Nam và khu vực trọng điểm Hà nội Hải phòng. Tuy nhiên ảnh hưởng tỏa lan rộng ra gần như toàn bộ vùng đồng bằng Bắc Việt. Phía Trung quốc là cả vùng phía tây nam, còn kém phát triển. Khi hợp tác với VN qua ngả Hà nội Haỉ phòng là con đường ngắn nhứt và thuận lợi nhứt đi ra biển và xuống Đông nam Á. Đó cũng là bàn đạp TQ dùng trong giao thương kinh tế với các nước ASEAN .

-Địa lý và dân số vùng HLKT Côn Minh – Hải phòng:

Phía bên TQ là tỉnh Vân Nam mà Côn Minh là thủ phủ. Nó thuộc vùng rộng lớn Tây nam TQ . Kinh tế chưa được phát triển nhiều. Tiềm năng kinh tế chánh là khoáng sản , nông sản và lâm sản. Vùng nầy ở rất xa bờ biển và hải cảng TQ. HLKT nầy di qua lảnh thổ TQ chỉ có độ 15 triệu dân. Côn minh là thành phố lớn , là trung tâm kinh tế , chánh trị của miền Tây nam. Hành lang nầy đi dọc theo con đường xe lửa Côn Minh – Hải phòng qua các tỉnh / Thị xã: Hải phòng , Hải dương, Hưng yên, Hà nội , Vĩnh Phúc, Phú thọ, Yên Bái , Lao Cài . Cửa khẩu Lao cài và Hữu nghị là hai cửa chánh qua TQ.

Về bên phía VN , dù diện tích không lớn , nhưng trải dài qua vùng rất quan trọng. Xuyên qua 6 tỉnh miền Bắc, tới thủ đô Hà nội và đến cảng Hải phòng . Đây là đầu nảo vừa là yết hầu của VN. Dân cư trên HLKT có đến 20 triệu ( rất lớn so với tổng số dân).

-Thương mại : Mục đích chánh của HLKT là phát triển thương mại biên cương . Dù có dự án HLKT hay không thì chuyện mua bán trao đổi giữa hai bên vẫn đều đều mỗi ngày. Nó được nâng lên mức cao hơn là nhờ định chế hóa rõ ràng và đầy đủ hơn, và nhờ cải thiện hệ thống vận chuyển, và nhiều chương trình khác . Theo ước tính của VN thì năm 2011  số hàng hóa qua cửa Hữu nghị là một triệu tấn; số người qua lại là 726.000 người. Thực tế con số cao hơn nhiều , nhứt là hàng buôn lậu. Theo tin tức từ Ngân hàng Á châu thì mâu dịch biên giới Việt Trung trong những năm gần đây tăng từ 2-6%/năm, trị giá độ 4,2 tỷ mỹ kim.

Hàng VN bán qua TQ ít hơn hàng TQ qua VN. Thâm thủng ngọai thương vùng HLKT giửa VN và TQ ước lượng trên 4 tỳ mỹ kim vào năm 2010. VN nhập của TQ hàng quan trọng là phân bón, hóa chất, vải, nông sản, hàng gia dụng . TQ nhập của VN khóang sản các lọai, cao su, than đá , dầu thô, hải sản . Nhìn chung TQ muốn khai thác nguyên liệu VN cho kỹ nghẽ TQ. Còn VN thì mua nhiều thứ hàng tiêu dùng hay hàng hóa yểm trợ cho nông nghiệp. Hàng hóa TQ qua VN phần lớn qua hai cửa khẩu chánh là Lao Cai và Hữu nghị.

Giao thông vận tải: Hợp tác cải thiện hệ thống giao thông vận tải hết sức quan trọng. Vì đường sá giúp cho phát triển thương mại, kỹ nghệ và du lịch tiến triển tốt hơn.

Có 70% hàng hóa chánh thức trong HLKT đi bằng đường xe lửa, và 30% đi bằng đường bộ. Càng Hải phòng trở nên quan trọng và rất cần thiết cho hàng nhập và xuất của TQ , nhứt là hàng TQ xuống các nước Đông nam Á.

Con đường xe lửa Côn Minh và Hải phòng là huyết mạch có từ thời thuộc Pháp. Nay đã được canh tân. Hai đường bộ quan trọng bậc nhứt từ TQ qua VN cũng mới khánh thành. Đường nối Côn Minh – Lào Cai được khánh thành ngày 16 tháng 8 – 2012 . Đường nối Quảng Tây – Hà nội qua cửa hữu nghị dài 1.300 km mới khánh thành ngày 2 tháng 10- 2012 . Một số con đường nhỏ khác nối TQ và VN cũng đã được cải tiến ( Từ TQ qua VN có 8 con đường bộ). VN và TQ hơp tác xây dựng sân bay Lao Cai.

Khu kỹ nghệ: Trong kế họach chung hai bên cũng có dự án mở mang một số kỹ nghệ trong các thị trấn dọc biên giới. Nhưng cho tới nay thì kỹ nghệ chưa đáng kể .

Văn hóa giáo dục : Bên cạnh các chương trình nhằm phát triển kinh tế thương mại , HLKT còn có một số chương trình hợp tác giáo dục và văn hóa.

Quản lý : Hai bên thiết lập uỷ ban để quản lý HLKT , đặt luật lệ, kiểm soát việc qua lại.

Chánh quyền TQ có chánh sách yểm trợ rõ ràng và mạnh mẽ cho mậu dịch biên giới. Như bỏ một số lớn giấy phép, bỏ hay giảm thuế xuất nhập. Phía VN cũng cải tiến quản lý mậu dịch biên giới.

Thực tế cả hai bên quản lý không nổi hoạt động kinh tế tại các cửa khẩu và cà HLKT, vì nguyên nhân chánh là tham nhũng quá đáng. Tình trạng nầy khó mà cải thiện được.

  • Về ngân khoản cho dự án:

Dự án HLKT Việt Trung được được hai định chế quốc tế lớn tài trợ , đó là Ngân hàng phát triển Á châu (ADB) và UNDP của Liên hiệp quốc. Phần còn lại do hai chánh phủ VN và TQ đài thọ.

Dự án khởi đầu 30/10/2007. Dự trù hoàn tất vào năm 2011.

UNDP tài trợ : 1.600.000   mỹ kim

Chánh phù liên hệ:  2.000.000  mỹ kim

Dự án xa lộ đi từ Hà nội đên Tứ Xuyên (1300 km) do ADB tài trợ.

Ngân hàng Phát triển Á châu (ADB) tài trợ trong kế hoạch kiến thiết hạ tầng cơ sở. Đây là một dự án nằm trong chương trình phát triển vùng sông Cửu long. ( Phó Chủ tịch ADB là người Trung hoa.). Phân nữa chi phí còn lại do hai chánh phủ đài thọ. Cà TQ và VN tiếp tục bỏ tiền đầu tư vào các dự án đã thiết lập cũng như một số chương trình mở mang hai bên HLKT. ADB tài trợ con đường Vân Nam – Hải phòng  một con đường rất quan trọng chuyển vận hàng chẳng những cho VN mà còn cho các nước ASEAN. ADB còn tài trợ cho một số dự án nhỏ khác nhằm phát triển HLKT.

 

III. Nhận xét về HLKT Viêt Trung

Như nói ở trên, HLKT Việt Trung , Côn Minh – Hải phòng,  là một kế họach lớn có sự yểm trợ của một số cơ quan quốc tế. Nó đã bắt đầu triển khai hơn 5 năm nay. Một số dự án và công trình đã xong và còn nhiều chương trình tiếp tục.

Trong một hoàn cảnh bình thường thì sự phát triển HLKT có lợi cho cả hai bên. Nhưng trong trường hợp VN hiện nay thì cái lợi ít hơn điều có hại.

Mặt khác , TQ lợi dụng kế hoạch HLKT để bành trướng bá quyền kinh tế xuống VN và các nước Đông nam Á. Đó là âm mưu độc hại chẳng những về kinh tế mà còn về phương diện ngoại giao và an ninh khu vực.

1. Lợi và hại về phía Việt Nam

Về thương mại : Khối lương hàng hóa qua lại hai nước nhiều hơn. Người tiêu thụ sẽ có nhiều loại hàng hóa từ TQ với giá rẽ hơn. Theo tin từ báo điện tử Xinhua ngày 18-11-2011 , theo phát biểu của Thứ trưởng Thương mại và kỹ nghệ VN thì “Thoả ước kinh tế Việt Trung , từ 2006 –2010 là gia tăng thương mại và phát triển nhanh chóng. Mỗi năm trung bình tăng 16,6% và khối hàng hóa giao dịch trong 5 năm qua đạt được 23,55 tỷ mỹ kim.”. Thực sự hàng hóa từ TQ qua VN nhiều gấp 5-6 lần hàng VN qua TQ. Đó là một điều đáng ngại, vì kinh tế VN rất yếu.

Hàng kỹ nghệ TQ tương đối có phẩm chất tốt hơn hàng VN, cho nên hàng TQ qua VN thuận chiều hơn. Điều nầy là một trong những yếu tố làm cho kỹ nghệ VN không phát triển nổi.

Nhờ những điều kiện tốt của HLKT  cộng thêm tham nhũng, mà hoạt động buôn lậu gia tăng mạnh mẻ hơn ( theo ước tính từ VN mỗi năm hàng lậu vào khỏang 2 tỷ mỹ kim.)

Mặt khác thương nhân TQ qua VN quá nhiều. Chánh quyền gần như buôn lỏng. Các thương gia TQ qua VN phần lớn là đi chui hay qua với diện du lịch. Họ nhờ những trung gian người Việt đi gôm mua nông sản , hải sản … cho họ mang về bên Tàu. Lúc đầu họ mua với giá gấp đôi gấp ba giá của thị trương VN. Nông ngư dân VN bán cho thương gia  Tàu vì lợi hơn. Rồi nông dân VN aò aò sản xuất các loại đó. Sau đó, TQ không mua nữa , giá xuống nhanh , nông dân bị lỗ nặng.

Về khai thác khóang sản và nguyên liệu. Lợi dụng tình trạng VN chưa có khả năng chế biến các loại khóang sản có khá nhiều ở các tỉnh thuộc HLKT, TQ qua thu mua giá rẽ về biến chế lại. Mặc dù VN có thị trường lớn ở TQ nhung luôn luôn bị ép giá. Mặc dù VN có bán được khoáng sản và nguyên liệu , nhưng mãi mãi sẽ không tới được giai đoạn chế biến được sản phẩm hoàn tất . Giá cả thì tuỳ thuộc bên TQ. Ở đây chưa nói đến tình trạng chánh quyền VN dâng cho TQ một số vùng khai thác khoáng sản hay rừng , họ đem qua VN nhiều công nhân và cán bộ sẽ dần dần tạo những bất an và bất hợp pháp ngay tại khu vực VN , nhứt là vùng có dân tộc thiểu số.

Về giao thông vận tải: Nhờ thỏa hiệp HLKT mà hệ thống đường bộ, đường xe lửa, hàng không được cài thiện tốt hơn hay được tân lập thêm. Về phương diện kinh tế đó là điều rất tốt. Bởi vì sự chậm tiến của hạ tầng cơ sở của hai bên là một trở ngại rất lớn từ lâu cho việc mở mang vùng có nhiều tiềm năng đó.

Cảng Hảỉ phòng được mở rộng. Nó trở thành cảng quốc tế rất quan trọng nhờ qui mô và vị trí ở trong vùng. VN có một số quyền lợi về quá cảng hàng TQ . Nhưng cái hại là cho TQ xử dụng tự nhiên có thể khống chế cảng nầy. Đây là điểu TQ rất mừng, vì từ khu vực rộng lốn Tây nam TQ ra biển để tiếp cận với nhiều quốc gia khác , xuyên qua cảng Hải phòng là con đường ngắn nhứt. Về đường hàng hóa vận chuyễn chiếm 40% tồng số hàng trong khu vự phía Bắc VN. Các sông đi qua tới TQ và tới cảng Hải phòng.

Về thúc đẩy phát triển nông nghiệp và nông thôn: Cách tổng quát HLKT có thể giúp phát triển vùng nông thôn , nông lâm nghiệp hai bên tốt hơn. Nhờ có thị trừơng thêm, nhờ giao thông vận tải tốt, nhờ trao đổi khoa học kỹ thuật. Nhưng sự thua lỗ của nông dân VN là vì thương gia TQ quá nhiều mánh lới thường không thật thà trong mua bán. Mặt khác chánh quyền VN dâng nhiều đất để người Tàu khai thác rừng, họ sẽ khai thác bừa bãi vì đâu phải đất của họ, chụp giựt được lúc nào hay lúc đó.

Về giải quyết thất nghiệp: Điều nầy dĩ nhiên, bởi vì hoạt động thương mại và kinh tế nói chung gia tăng trong 5 năm qua có cơ hội gíup giải quyết cho một số dân có thêm công ăn việc làm.

  1. 2.      Những âm mưu của Trung quốc qua HLKT

a. Bá quyền TQ đối với VN

Thỏa hiệp HLKT Việt Trung là một trong những HLKT lớn trên trên giới. Ngân khoản cho phưong án lên tới 4-5 tỷ mỹ kim.

Phát triển HLKT cũng như cải thiện mậu dịch biên cương là chủ trương lớn của TQ. Trong 10 năm qua TQ đã tạo điều kiện thuận lợi cho kế hoạch nầy.

Dĩ nhiên là nó lợi cho cả đôi bên, nhưng lợi cho nền kinh tế TQ nhiều hơn cho VN. Phía đàng sau kế họach nầy chứa đựng nhiều âm mưu đen tối và nguy hiểm cho VN không phải chỉ là kinh tế mà còn về an ninh nữa.

Hiệp ước được ký bởi hai đối tác mà bản chất là gian xảo, chỉ vì quyền lợi đảng và nhóm quyền lực mà thôi. Nó không phải là một thỏa ước quốc tế trong sáng và bình đẳng.

Vớí vị tri địa lý, vớí lịch sử kiên cường , vớí tiềm năng kinh tế, tiềm năng con người , vớí sự tương đồng về chế độ , VN là một ưu tiên cao đối với TQ trong tham vọng bành trướng của nước nầy.

Trên bình diện kinh tế , TQ ở thế thượng phong hơn VN. Cho nên TQ dễ điều khiển VN để hợp tác kinh tế phục vụ cho TQ. Chúng ta có thể thấy được những lợi thế và nguy hiểm của TQ như :

a.Dân đông hơn rất nhiều, người dân có trình độ học vấn và tay nghề khá. Nhung họ có tinh thần con buôn và thường ma giáo để mưu tư lợi. Cho nên thương nhân, nông dân VN thường bị lừa gạt.

b.Vị trí địa lý VN nằm cạnh một nước vĩ đại đầy tham vọng trong lịch sử là một đe dọa thường xuyên .

c.Chánh quyền TQ có cùng đảng với VNCS , nhưng luôn luôn tự coi mình là đàn anh của CSVN. Luôn bắt ép VN về mọi mặt. Cả hai chánh quyền đều có mực độ tham nhũng kinh khủng như nhau , nên khi trau đổi mua bán hay đấu đầu các dự án , các viên chức liên quan luôn có chia chác tiền bạc riêng tư qua các thỏa ước hay trao đổi kinh tế.

d.Kỹ nghệ TQ tương đối khá hơn VN, nên họ chỉ muốn khai thác nguyên liệu, khóang sản, nhiên liệu với giá rẽ của VN về chế biến và phục vụ cho sự phát triễn kỹ nghệ TQ

e.Hàng hóa TQ tương đối tốt hơn và đủ loại hơn giá lại rẽ hơn VN , nên hàng tiêu thụ tràn qua VN làm hại kỹ nghệ và nông nghiệp VN. Sự phát triển HLKT còn đóng góp làm gia tăng tình trạng đó.

f. Âm mưu kềm kẹp bằng viện trợ. Với trử lương ngoại tệ lớn hiện nay, TQ có thể khống chế nhiều nước qua chương trình viện trợ, nhứt là viện trợ không bồi hoàn hay không tính tiền lời. VN thì rất èo ọt về tài chánh, TQ đưa VN vào tròng không khó khăn gì. Trong các dự án của HLKT, TQ cũng chi ra nhiều, và viện trợ nhiều cho VN.

g.TQ ép VN phải cho sử dụng các con dường xe lửa , đường bộ, đường thủy, hàng không,  và nhứt là cảng Hải phòng cho kế họach kinh tế và lảnh thổ của họ. TQ vừa có địa bàn rộng lớn sát phía nam như mồt vành đai, lại vừa nắm được thủ đô Hà nội và kẹp cái yết hầu là cảng Hải phòng. Nhìn chung về phương diện an ninh quốc gia, VN ở trong thế nhiều khó khăn. Từ trên đất liền qua HLKT, từ trên biển qua các hải đảo, qua xa lộ Đông Á đặc biệt khu vực thuộc Cambodia. Nhìn chung, TQ ở thế thượng phong.

Trên đây là các lợi thế lớn của TQ đối với VN. Tình trạng nầy còn kéo dài cho tới khi nào CSVN còn tồn tại.

Về lâu dài đó là một mối hại và nguy hiểm to lớn cho Dân tộc VN.

b. TQ bành trướng xuống các nước ASEAN

TQ đã âm mưu thuyết phục với các nước ASEAN để thành lập khu mậu dịch tư do mà TQ đóng vai trò chủ chốt. Thực sự điều nầy khó hơn, vì hầu hết các nước ASEAN không phải tay chân của TQ, lại còn Hoa kỳ không thể bỏ Đông nam Á.  HLKT Việt Trung là bước thuận lợi cho TQ trong mộng tiến tới gần các nước Đông nam Á.

Vì khu vực nầy có sự phát triển kinh tế tốt và bền vững trên thế giới trong vòng vài chục năm nay, và lại ở gần TQ.

TQ đã và đang phát triển mối tương quan nầy. Mặc dù còn tổng quát , nhưng Khu vực thương mại tự do TQ và ASEAN là khu vực lớn nhứt thế giới với dân số 1,8 tỷ người và tổng sản lương quốc gia đến 1.680 tỷ mỹ kim. (2003).

Giao dịch kinh tế thương mại giữa TQ và ASEAN lớn mạnh trong vòng 20 năm qua.  Ví dụ năm 2003, trị giá xuất nhập cảng đạt 78,252 tỷ mỹ kim, tổng trị giá đầu tư của ASEAN vào TQ là 64,590 tỷ mỹ kim. Cán cân thặng dư nghiên về ASEAN.

Hiệp định dược thi hành từ tháng 7 – 2005. Hiệp dịnh có khung thời gian là 10 năm.

Ý định của TQ đối với ASEAN là giựt một phần thị trường cho hàng TQ tại các nuớc ASEAN đồng thời dùng kinh tế tạo ra ảnh hưởng với các nước nầy trong sách lược chung mà từ trước tới nay do Nhựt bản, Hoa kỳ và Au châu nắm phần lớn. Thứ hai là TQ muốn lôi kéo hơn nữa doanh nhân từ ASEAN đầu tư vào TQ.

Mặt khác , TQ muốn dùng ảnh hưởng của mình để sử dụng phương tiện của các cơ quan quốc tế như Ngân hàng Á châu, Ngân hàng thế giới, Quỹ tiền tệ thế giới, Chương trình phát triển của Liên hiệp quốc.

Kinh tế và an ninh trong khu vực có tác động qua lại với nhau. Các siêu cường quốc bao giờ cũng có mộng bá quyền.

Nhưng TQ là một loại bá quyền gian manh và nguy hiểm nhứt.

Cali, tháng 10 năm 2012

Nguyễn Bá Lộc