Giặc Hán đốt phá nhà Nam (Kỳ 10) – Huỳnh Tâm
“..Quả nhiên người dân Việt Nam đã cầm nhầm 12 chữ vàng “Ân thâm, nghĩa nặng, tình bền (恩深,义重,情长), và “Tình đồng chí, tình anh em (战友情谊 , 兄弟情谊). Các cấp lãnh đạo CSVN híp mặt, mộng mị, ngủ say trong men nồng của 42 Sư đoàn Trung Cộng chỉ huy chiến thắng Điện Biên Phủ…”
Năm 1940, Mao Trạch Đông thành lập nhóm tổng hợp hoạt động tại Việt Nam, gồm Thứ trưởng ngoại giao, Trung tướng Trần Canh phụ trách dân sự, Thượng tướng Vi Quốc Thanh quân sự và Hồ Chí Minh phụ trách chiến lược cướp chính quyền.
Ngày 18 tháng 1 năm 1950, Trung Quốc thấy cần thành lập thêm nhóm 2, và nhóm 3 cùng chia nhau lãnh đạo chiến tranh tại Việt Nam. Nhóm thứ 2 do Vi Quốc Thanh lãnh đạo, nhóm thứ 3 do Hồ Chí Minh đứng đầu tổ chức chiến tranh, mục đích cướp chính quyền của nước lân bang, chống lại những ai không theo cộng sản kể cả nhân dân. Vào thời điểm này, Hồ Chí Minh tiếp nhận của Mao Trạch Đông 12 chữ vàng: “Ân thâm, nghĩa nặng, tình bền” (恩深,义重,情长) và “Tình đồng chí, tình anh em” (战友情谊,兄弟情谊).
Mao Trạch Đông đề ra phương châm 12 chữ vàng cho Hồ Chí Minh thực hiện, xác định tư tưởng Mao, đúng đắn hướng đi có chỉ đạo của cách mạng vô sản, đáng làm khung tổng thể phát triển quan hệ hai đảng, đánh dấu quan hệ Trung-Việt bước vào giai đoạn quyết định lập quốc gia Cộng Sản. Hai đảng, tự ký bí mật tuyên bố chung, ngày 12 tháng 2/1949.
Đưa đến mối quan hệ mang tính hai quốc gia một Trung Quốc, bề ngoài Việt Nam-Trung Quốc thiết lập quan hệ ngoại giao song phương, thực chất Việt Nam đã thuộc vào loại chư hầu không thành văn. Theo suy nghĩ đơn điệu, 12 chữ vàng của Mao Trạch Đông đối với Hồ Chí Minh là một ân sủng lớn, quả nhiên Hồ tiếp nhận trịnh trọng cho rằng tư tưởng Mao đạt đến đỉnh cao trí tuệ. Do ý tưởng thiển cận, cộng thêm thành tích khoác lác, họ Hồ đã đẩy 12 con giáp (12 chữ vàng) vào lộ trình chuyển đổi toàn diện vận mệnh đất nước Việt Nam. Trước nhất thay đổi suy nghĩ của người dân, sinh hoạt đời sống, giáo dục, kinh tế, tổ chức xã hội và truyền thống văn hóa v.v…
Hai điệp viên cố vấn Vi Quốc Thanh (韦国清), (ảnh bên trái) và Đặng Dật Phàm(邓逸凡), thay mặt Mao Trạch Đông trao cho Hồ Chí Minh một công hàm phân tích, hướng dẫn, thực hiện 12 chữ vàng. Hồ, trịnh trọng tiếp nhận, sau khi đọc công hàm, Hồ hứa với Vi và Đặng: “Quý đồng chí an tâm hãy báo cáo lại với Chủ tịch Mao, tôi cam đoan thực hiện thành công 12 điều này của Chủ tịch”. Nguồn: Hoa Nam.
Trung Quốc mượn tay Hồ Chí Minh để âm thầm thực hiện 12 chữ vàng, tròng vào cổ người dân Việt Nam làm dây thòng lọng, chờ ngày chín muồi, đúc người đổ vào khuôn mẫu. Cuối cùng nhân dân Việt Nam tự động bị cuốn hút vào hệ thống vệ tinh Cộng sản Đông Nam Á. Thời kỳ 1940-1969, Hồ Chí Minh, đã thực hiện được 3/4, 12 chữ vàng.
Theo đánh giá của Mao Trạch Đông:
‒ Ba thập niên đối với một quyết sách, 12 chữ vàng, quả là thành công lớn. Quả nhiên người dân Việt Nam đã cầm nhầm 12 chữ vàng “Ân thâm, nghĩa nặng, tình bền (恩深,义重,情长), và “Tình đồng chí, tình anh em (战友情谊- chiến hữu tình nghị, 兄弟情谊– huynh đệ tình nghị). Các cấp lãnh đạo CSVN híp mặt, mộng mị, ngủ say trong men nồng của 42 Sư đoàn Trung Cộng chỉ huy chiến thắng Điện Biên Phủ. Tâm đắc, ôm cả Hồ Chí Minh vào lòng làm tư tưởng lãnh đạo đất nước, tự mình làm những điều phản bội lương tâm, trái với tinh thần bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam!
Trong công hàm 12 chữ vàng, ngoài ra còn chứa một nội dung chứa đựng ẩn ngữ chỉ người trong cuộc mới thấu hiểu. Nó hàm chứa rất nhiều vấn đề phức tạp. Khi Hồ Chí Minh hành động, đương sự phải tuân theo chỉ dụ của họ Mao, thực hiện mọi thủ thuật khác nhau, như gặm nhấm, dần dà hao mòn, pha trộn, tự tan. Kết quả đưa Việt Nam vào suy đồi phong hoá, suy vong mọi mặt và tự trói chính sách đối ngoại. Trung Quốc chờ đợi thời cơ ra tay thu hoạch nước Việt Nam.
Trong khi đảng cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục tung hô Hồ Chí Minh làm cha già dân tộc, Quốc tế lại truy nã Hồ Chí Minh về tội ác chiến tranh. Do đó không có quốc gia nào trên thế giới thiết tha làm bạn với đất nước Việt Nam, một chư hầu của Trung Quốc.
Lịch sử Việt Nam chưa hề xét xử tội ác chiến tranh của một ai, đây là lần đầu tiên Việt Nam có một cha già dân tộc như Hồ Chí Minh được thế giới bình chọn lên án: “Độc tài và tội ác chiến tranh”. Ông Hồ thực sự đã thủ tiêu trên 1 triệu mạng người, nước Việt Nam điêu tàn trong tay của Hồ, chưa kể những thế hệ trẻ chết trên đường Trường sơn, Nguồn: Tân Hoa Xã.
Hồ Chí Minh là một phiên bản của Trung cộng nên mới có tâm trạng “Ân thâm, nghĩa nặng, tình bền. Đứng trên lĩnh vực chủ quyền phân lập của hai quốc gia, Việt Nam và Trung Hoa có ngôn ngữ riêng, lãnh thổ và dân tình phong tục riêng, tập quán riêng, thì làm gì lại có 12 chữ trên. Đây là cách chơi chữ của họ Mao, chẳng nhẽ 12 chữ vàng họ Mao chúng vượt biên giới từ Trung Quốc tràn sang Việt Nam để dạy nhân dân Việt cách sống. Thực ra nếu không có Hồ chí Minh đất nước Việt Nam ngày nay văn minh tột cùng. Tai họa đã đến nước Việt cũng vì chữ “Ân-恩” do Hồ mang vào Việt Nam với mưu đồ của Trung Hoa. Ngôn ngữ Trung Quốc trong lòng chữ Ân đã có chữ Oán, cho nên Hồ Chí Minh đi vay nợ, lập chiến khu là Ân, nếu không trả nợ sinh Oán, trong Oán có “Thâm-深” ; thâm đồng nghĩa “Sâu”, nợ trả hoài không hết. Tư liệu Hoa Nam có ghi lại: Chủ tịch Mao Trạch Đông nói với Hồ rằng: “恩曾经付出数千参观 (Ân tằng kinh phó xuất xúc thiên tham quán) – Ân một lần phải trả muôn ngàn lần thâm”.
Hồ Chí Minh nhận một súng máy với viên đạn phải trả nợ bằng một đại pháo và đạn cối, trả nợ không được, phải dâng các xã huyện biên giới cho Trung Quốc, chính “ân thâm” nằm trong nghĩa đen này. Đương nhiên Hồ phải biết chữ “nghĩa-义” của Trung cộng, ý muốn nói “nghĩa” của người đã tạo hoá ra Hồ Chí Minh, phải nhớ ơn sinh thành của Mao, cho nên họ Hồ luôn luôn xem “nặng-重”. Đứng trên phương diện ngoại giao, hai quốc gia không bao giờ có “tình bền-情长” cả, chỉ có đàm phán tương quan quyền lợi, nếu đem “tình bền-情长” theo kiểu Hồ Chí Minh áp dụng vào xã hội Việt Nam, không khác nào đưa dân tộc Việt Nam làm nô lệ của Trung Quốc!
Chúng tôi đã từng nghe nhiều lần ông Nguyễn Đức Tâm, nguyên tình báo Hoa Nam cụm HMK273, sau này làm đến Trưởng Ban tổ chức Trung ương (Bộ Chính Trị) :
‒ Bác Hồ đã làm được 3/4, của 12 chữ vàng “ân thâm, nghĩa nặng, tình bền” (恩深,义重,情长) và “Tình đồng chí, tình anh em (战友情谊,兄弟情谊). Phần còn lại, hy vọng chúng tôi sẽ kết thúc, nay 12 chữ vàng đã đưa vào các cấp lãnh đạo đảng học tập, và đưa vào giáo dục học đường, thậm chí trong nhân dân cũng học theo lời Bác Hồ: Nhân dân cần học tập cách sống văn hoá “ân thâm, nghĩa nặng, tình bền” (恩深,义重,情长), làm như thể ta với người là một (Việt Nam-Trung Quốc).
Chưa hết, Trung Quốc ban cho Bác, đảng và nhân dân Việt Nam một câu thần chú, trước giờ đi ngủ phải tụng kinh “Tình đồng chí, tình anh em (战友情谊, 兄弟情谊), từ đó cả nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoa mắc phải chứng bệnh tin địch. Do đó, trước ngày 17/2/1979, Trung Quốc không còn che dấu ẩn lòng, xua quân tràn sang biên giới xâm chiếm Việt Nam hầu bành trướng đất nước Trung Quốc, kẻ cướp còn to miệng sỉ nhục và mạ lị: “Tình Đồng chí, tình Đồng Minh là kẻ thù” (而同盟国之间的战友, 共同敌人). Ba chữ “tình anh em” không còn trên môi các đồng chí Trung Quốc, trái lại đảng cộng sản Việt Nam vẫn phải tiếp tục học tập theo di chúc Bác Hồ để lại: “Tình Đồng chí, tình anh em”, mãi mãi bền lâu!
Hồ Chí Minh cùng những cố vấn quân sự, dân sự, tổ chức hướng dẫn Bộ chính trị và các cấp lãnh đạo Quân ủy Trung ương học tập “Tình đồng chí, tình anh em” (战友情谊, 兄弟情谊) tại rừng Việt Bắc. Hồ Chí Minh nghiêm chỉnh tuyên bố: “Chân lý của chủ tịch Mao không thể thiếu trong chiến tranh Việt Nam”.
Hồ Chí Minh, Vi Quốc Thanh (韦国清), Lã Quý Ba (罗贵波), Mai Gia San (梅嘉生), Đặng Dật Phàm (邓逸凡) và những điệp viên tình báo Hoa Nam, hội thảo, học tập tư tưởng Mao tại chiến khu Việt Bắc. Nguồn: Hoa Nam.
Mười Hai (12) chữ vàng thời Hồ Chi Minh, chưa thực hiện thành công, Trung cộng đã chuẩn bị lấy quyết định phán tiếp Mười Sáu (16) chữ vàng và Bốn (4) tốt, một hình thức chuyển biến mới vào năm 1986 thời kỳ của Tổng bí Thư đảng Nguyễn Văn Linh. Ông Linh để lại một trang sử đen tối nhất cho Bác đảng. Đến tháng 12/1997, Lê Khả Phiêu lên làm Tổng bí thư Đảng. Kể từ năm 1986 đến 1990, trải qua 4 đời Tổng bí Thư đảng, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười hai nhiệm kỳ, và Lê Khả Phiêu, Trung Quốc đã có đủ thời gian để bắt được mạch đảng cộng sản Việt Nam “ham sống sợ chết, thà tao còn nước mất”. Lê Khả Phiêu buộc phải thi hành lệnh của hội nghị Việt-Trung tại Thành Đô tỉnh Tứ Xuyên ngày 3 tháng 9 năm 1990, và họ Phiêu tiếp nhận Mười sáu (16) chữ vàng: “Láng giềng hữu nghị; Hợp tác toàn diện; Ổn định lâu dài; Hướng tới tương lai”, và Bốn (4) tốt: “Láng giềng tốt; Bạn bè tốt; Đồng chí tốt; Đối tác tốt”.
Những ghi chú trong mật mã HPL1940/ 1990/ 123456, được lưu trữ tại Quân ủy Trung ương Trung Quốc (CPC). Nay được giải mã:
A- HPL (Hồ, Phiêu, Linh), số 1 tên của Hồ Chí Minh tiếp nhận 12 chữ vàng của Mao Trạch Đônglàm phương châm: “ân thâm, nghĩa nặng, tình bền-恩深,义重,情长” và 6 chữ tình: “Tình đồng chí, tình anh em战友情谊,兄弟情谊”.
B- 1940-1990, năm mươi (50) năm, Trung Quốc cai trị Việt Nam qua hai lần ban bố phương châm.
C- P, ám chỉ Lê Khả Phiêu số 2, Nguyễn Văn Linh số 3, Phạm Văn Đồng số 4, Đỗ Mười số 5, Lê Đức Anh số 6. Năm nhân vật trên đã tiếp nhận 16 chữ vàng và 4 tốt, do Giang Trạch Dân ban bố, để Việt Nam làm phương châm gối đấu hành động.
Trong văn kiện Thành Đô có một ghi chú viết bằng mực đỏ hai chữ “Phiêu Linh”, nhấn mạnh vai trò phản bội tổ quốc của Lê Khả Phiêu và Nguyễn Văn Linh. Và hai nhân vật này thi hành quyết định vào tháng 11/2000. Đảng cộng sản Việt Nam phải có bổn phận trung thành tư tưởng chỉ đạo của Giang Trạch Dân.
Hai chữ “Phiêu Linh” nói rõ hai kẻ bán nước là ai. Đó chính là Lê Khả Phiêu và Nguyễn Văn Linh. Hai chữ này còn có một ý nghĩa khác: Nhân dân Việt Nam từ đây khởi đấu phiêu linh chính trên đất của mình, trôi nổi không định hướng, phiêu bạt đó đây vô định, lênh đênh như gió cuốn, kết thúc sinh mệnh của một dân tộc không còn đất sống và hòa tan dân Việt vào văn hóa Hán.
Ngày nay Việt Nam đang bước vào giai đoạn quan hệ mật thiết và toàn diện với Trung Quốc, trong khuôn khổ tổng thể hoà tan, đánh dấu giai đoạn mới bằng 3 đột phá: mở cửa biên giới đất liền, mở biển, mở giao thông đường bộ. Đẩy mạnh giao lưu và hợp tác giữa hai bên trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, khoa học, kỹ thuật, văn hóa ngày càng mở rộng không gian vô hạn định. Tuy những nhà lãnh đạo Trung Quốc không viết trên giấy trắng mực đen, nhưng ai cũng có thể hiểu được ý nghĩa ngầm: “Việt Nam chư hầu Trung Quốc”.
Hội nghị Thành Đô tỉnh Tứ Xuyên, giữa hai lãnh đạo Trung-Việt (ngày 3 tháng 9 năm 1990). Hàng trước từ trái sang: Hoàng Bích Sơn, trưởng ban đối ngoại T.Ư.(1), Phạm Văn Đồng, cố vấn BCHTƯ (3), Nguyễn Văn Linh, tổng bí thư (4), Giang Trạch Dân (5), Lý Bằng (6), Đỗ Mười (7), Hồng Hà (9). Nguồn: Tân Hoa Xã.
Ngày nay đảng cộng sản Việt Nam vẫn tự hào, phương châm 16 chữ đểu và 4 sự hèn là con đường đảng phải kinh qua, cho nên đảng áp dụng giáo dục nhân dân Việt Nam:
‒ “Ổn định lâu dài” (长期稳定, Trường kỳ ổn định) là nhấn mạnh tình hữu nghị Trung Việt là phù hợp lợi ích căn bản của hai đảng, hai nước và nhân dân hai nước, bất kỳ lúc nào, bất kỳ tình hình nào đều phải giữ sự ổn định và phát triển lành mạnh của quan hệ hữu nghị, khiến nhân dân hai nước đời đời hữu nghị với nhau;[4]
‒ “Hướng tới tương lai” (面向未来, Diện hướng vị lai) là phải xuất phát từ hiện nay, nhìn về lâu dài, kế thừa truyền thống, mở ra tương lai tốt đẹp hơn cho quan hệ Trung Việt;
‒ “Hữu nghị láng giềng” (睦邻友好, Mục lân hữu hảo) là yêu cầu hai bên phải làm người láng giềng tốt, người bạn tốt, trước sau xử lý mọi vấn đề trong quan hệ hai nước với tinh thần hữu nghị láng giềng;[4]
‒ “Hợp tác toàn diện” (全面合作, Toàn diện hợp tác) là phải không ngừng củng cố, mở rộng sự giao lưu sâu sắc và hợp tác giữa hai đảng, hai nước trong mọi lĩnh vực, để mưu cầu hạnh phúc cho hai nước và nhân dân hai nước, đồng thời góp phần cho việc giữ gìn và thúc đẩy nền hoà bình, ổn định và phát triển trong khu vực.
Trung Quốc thừa cơ hội đất nước Việt Nam suy nhược, trỗi dậy mưu đồ cướp nước lân bang và đảng cộng sản Việt Nam lén lút bán nước, cả hai cùng đẩy mạnh tuyên truyền, cố ý đưa Việt Nam lạc hướng, đánh mất chủ quyền quốc gia và tạo điều kiện để nhân dân Việt Nam mất dân tộc tính.
Họ đã viện cớ:
‒ Do Việt Nam cùng đặc thù với Trung Quốc, có chung địa lý tự nhiên, con người, chế độ xã hội và vận mệnh sống còn của hai đảng cầm quyền của hai nước hết sức gần gủi, gắn bó.
Thực chất hai đảng cộng sản Việt-Trung thừa cơ hội đẩy đất nước Việt Nam vào vòng lệ thuộc, mất biến nguồn cội bằng bốn câu thơ nguyên văn Hán ngữ:
儿子水电相关性,
理想的互操作性,
文化的相似性,
相关命运。
Dịch :
Sơn thủy tương liên,
Lý tưởng tương thông,
Văn hóa tương đồng,
Vận mệnh tương quan.
Cách truyền tụng thi ca trên cho thấy mưu đồ dài hạn của Trung Quốc, và ngày nay đảng cộng sản Việt Nam chỉ là một phiên bản của Trung Quốc, cả hai cùng nhau ca hát một luận điệu, chuẩn bị lập lại kịch bản 1000 năm đô hộ Tàu, tuy nhiên ngày nay phong cách đô hộ của Trung Quốc tinh vi hơn.
Việt Nam có một bờ cõi riêng, văn hóa riêng, xã hội riêng, vận mệnh riêng đã từng thăng trầm bể dâu mới có được bề dày lịch sự 5000 năm văn hiến. Tuy có gần gũi với Trung Quốc nhưng hoàn toàn không gắn bó. Việt Nam đã bị Trung Quốc cướp nước và phải trải qua 1000 năm đô hộ nhục nhã. Làm gì có gắn bó, thưa các ông lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam!