Đồng tiền Đông Nam Á trượt giá đang gợi lại tiếng vang của năm 1997.
Các ngân hàng trung ương khác có thể theo dõi đợt tăng lãi suất bất ngờ của Indonesia
William Pesek – Ngày 25 tháng 10 năm 2023 05:00 JST
Đồng Baht Thái, nền tảng của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997, là một trong những đồng tiền có tỷ giá hối đoái giảm hàng đầu trong khu vực
William Pesek là nhà báo từng đoạt giải thưởng ở Tokyo và là tác giả cuốn sách “Nhật Bản hóa: Thế giới có thể học được gì từ những thập kỷ mất mát của Nhật Bản”
Các chính phủ Đông Nam Á đã dành phần lớn thời gian trong thập kỷ qua để giữ đồng nội tệ của mình ở mức thấp như một cách để hỗ trợ tăng trưởng xuất khẩu và du lịch.
Chiến lược này hiện đang phản tác dụng khi bất ổn địa chính trị thúc đẩy lạm phát toàn cầu. Đột nhiên, tỷ giá hối đoái yếu là một điểm yếu nghiêm trọng.
Một phần của vấn đề là động lực mới nằm trong tay các quan chức ở Washington nhiều hơn là ở Bangkok, Kuala Lumpur, Jakarta hay Manila.
Các thành viên Hội đồng Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ đang cân nhắc các động thái bổ sung để thắt chặt chính sách, có lẽ ngay trong tuần tới. Những điều này có thể thúc đẩy đồng đô la tăng giá hơn nữa, gây tổn hại cho châu Á khi dòng vốn chảy vào Mỹ tăng tốc.
Tiếng vang của năm 1997 thật khó để bỏ lỡ. Đúng vậy, Đông Nam Á đã đi được một chặng đường dài kể từ cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực. Các ngân hàng ổn định và minh bạch hơn nhiều, thị trường sâu sắc hơn, mối liên kết giữa khu vực công và tư ít loạn luân hơn và dự trữ ngoại hối dồi dào.
Nhưng cũng giống như 26 năm trước, nguy cơ thắt chặt quá mức của Fed là một mối nguy hiểm rõ ràng và hiện hữu. Hậu quả lạm phát đến từ cuộc xung đột Hamas-Israel là không thể dự đoán được. Tuy nhiên, điều không phải là điều bí ẩn là Đông Nam Á phải đối mặt với một hành động cân bằng bấp bênh: hạn chế thiệt hại do giá năng lượng tăng cao trong khi vẫn giữ lãi suất đủ thấp để hỗ trợ tăng trưởng.
Việc Ngân hàng Indonesia bất ngờ tăng lãi suất vào tuần trước đã làm nổi bật nỗ lực khó khăn mà các ngân hàng trung ương châu Á phải đối mặt trong việc bảo vệ tiền tệ và kiềm chế lạm phát. Vào ngày 19 tháng 10, nhóm của Thống đốc Perry Warjiyo đã nâng lãi suất chuẩn của Indonesia thêm 1/4 điểm phần trăm lên 6%.
Một động thái khiêm tốn nhưng khiến các nhà đầu tư hoàn toàn bất ngờ vì tỷ lệ lạm phát của Indonesia – 2,3% hàng năm trong tháng 9 – thấp so với tỷ lệ lạm phát của các nước láng giềng.
Đổ lỗi cho đồng rupiah yếu kém đã đưa nền kinh tế của Tổng thống Joko Widodo lên hàng đầu vì tất cả những lý do sai lầm. Đồng tiền của Indonesia nằm trong số những đồng tiền tệ nhất châu Á, gần đây đã giảm xuống mức thấp nhất so với đồng đô la kể từ tháng 4 năm 2020.
Thủ tướng Malaysia Anwar Ibrahim đang chuyển hướng khỏi giao dịch bằng đồng đô la và ưu tiên giao dịch bằng đồng nội tệ với Trung Quốc, Indonesia và Thái Lan. (Bể bơi qua Reuters)
Ngân hàng Indonesia đang gợi ý về sự can thiệp để hạn chế sự trượt giá của đồng rupiah. Khả năng hành động táo bạo có thể tăng lên cùng với lợi suất trái phiếu Mỹ, hiện ở mức cao nhất trong 17 năm và thu hút nguồn vốn mà châu Á cực kỳ cần. Nhóm của Warjiyo phải cẩn thận để tránh bất kỳ sự suy giảm nào nữa trong cán cân thanh toán của Jakarta.
Indonesia là biểu tượng cho sự báo động ngày càng tăng của các nhà hoạch định chính sách châu Á. Đồng Baht, đồng tiền khiến Thái Lan trở thành điểm dừng trong cuộc khủng hoảng năm 1997, cũng là một trong những đồng tiền có tỷ giá hối đoái giảm hàng đầu châu Á. Mối lo ngại về sức khỏe tài chính của Bangkok đang gia tăng khi căng thẳng ở Trung Đông thúc đẩy giá dầu tăng cao.
Cùng với hóa đơn nhập khẩu năng lượng ngày càng tăng của Thái Lan, các thương nhân đang chú ý đến kế hoạch của chính phủ mới nhằm nâng khoản vay khoảng 8% lên 2,43 nghìn tỷ baht (66,6 tỷ USD) trong năm tài chính tiếp theo.
Trong khi đó, nhu cầu xuất khẩu khó đáp ứng hơn do Trung Quốc tăng trưởng chậm lại và các hộ gia đình Mỹ điều chỉnh theo chi phí vay “cao hơn trong thời gian dài hơn”. Điều này khiến Thái Lan và các nước láng giềng phải vật lộn để tận dụng tỷ giá hối đoái yếu hơn.
Tất nhiên, vấn đề là mặc dù Đông Nam Á đã đạt được những tiến bộ trong việc nâng cấp kinh tế nhưng khu vực này vẫn quá phụ thuộc vào xuất khẩu để tăng trưởng. Chưa bao giờ các chính phủ cần phải hành động táo bạo hơn để tạo ra nhiều nhu cầu trong nước hơn bằng cách khuyến khích đổi mới và tăng năng suất cũng như chào đón sự đột phá.
Với việc các chính phủ đang nỗ lực hỗ trợ tiền tệ, nhu cầu đa nhiệm cũng hiếm khi cao hơn. Cải cách dài hạn phải đi đôi với quản lý tiền tệ ngắn hạn. Nếu không, tiềm năng tăng trưởng của Đông Nam Á có thể phải trả giá đắt.
Đồng ringgit – giảm hơn 8,5% so với đồng đô la trong năm nay – đã giảm gần gấp đôi so với đồng baht. Ngân hàng trung ương Malaysia đã chậm chạp trong việc thu hẹp khoảng cách lãi suất với Mỹ và quốc gia này cũng dễ bị ảnh hưởng bởi sự suy thoái của Trung Quốc hơn nhiều nước láng giềng.
Những xu hướng này khiến Thủ tướng Malaysia Anwar Ibrahim phải chuyển hướng khỏi giao dịch bằng đồng đô la ở mức tối đa mà một nền kinh tế phụ thuộc vào thương mại có thể làm được vào khoảng năm 2023. Malaysia đang ưu tiên sử dụng đồng nội tệ để đối phó với Trung Quốc, Indonesia và Thái Lan.
Nếu bất kỳ nhà lãnh đạo nào ẩn chứa một số PTSD năm 1997, thì đó là Anwar. Hồi đó, ông là bộ trưởng tài chính khi Kuala Lumpur phải vật lộn để không cùng Thái Lan, Indonesia và Hàn Quốc phá giá đồng tiền. Ngày nay, Anwar đảm nhận vai trò bộ trưởng tài chính khi đồng ringgit lại chao đảo.
Philippines dường như cũng đã chín muồi để theo bước Indonesia. Biên bản cuộc họp gần đây nhất của Bangko Sentral ng Pilipinas vào ngày 21 tháng 9 có cảnh báo rằng “rủi ro đối với triển vọng lạm phát vẫn có xu hướng tăng trong giai đoạn 2023 đến 2025 và có thể gây ra khả năng vi phạm mục tiêu lạm phát vào năm 2024. “
Gợi ý ở đây là năm 2024 có thể là năm thứ ba liên tiếp Manila không đạt mục tiêu lạm phát. Philippines không chỉ phải gánh chịu hậu quả do giá dầu tăng cao mà còn do chi phí vận tải và điện năng tăng cao. Do đó, các quan chức của BSP đang tập trung “vào việc nối lại hành động thắt chặt chính sách tiền tệ”.
Năm tới có vẻ giống như giai đoạn thắt dây an toàn đối với một khu vực vẫn còn chưa trải qua những sự kiện cách đây một phần tư thế kỷ. Đương nhiên, ưu tiên hàng đầu là giảm thiểu hậu quả ngay lập tức. Nhưng một chút đa nhiệm sẽ giúp ích rất nhiều cho tương lai của Đông Nam Á.
www.nikkei.com [Lê Văn dịch lại]