Đông Nam Á trong mắt Trung Quốc: Miến Điện, eo biển Malacca và Biển Đông
Có những góc nhìn cho rằng Trung Quốc là bên thua cuộc trong cuộc đảo chính tại Miến Điện. Lập luận này dựa trên những tuyên bố ngoại giao của Trung Quốc, tuyên bố của những học giả Trung Quốc và những cảm xúc chống đối và nghi kỵ Trung Quốc trong xã hội dân sự Miến Điện và thậm chí trong cả một số lãnh đạo quân đội.
Tuy nhiên, nếu xét từ góc độ lợi ích địa chính trị, giới quân sự Miến Điện hiện đã bước vào tình thế cần Trung Quốc. Cuộc đảo chính và việc đàn áp đẫm máu người biểu tình hiện nay có thể thay đổi bàn cờ địa chính trị ở châu Á, đem lại lợi thế to lớn cho Trung Quốc.
Hiện nay thế giới ngạc nhiên quan sát sự can thiệp của Trung Quốc vào Miến Điện. Trung Quốc phủ nhận nhưng không dấu giếm các chuyến bay đến Miến Điện với tần suất cao khi quân đội Miến Điện thảm sát người dân phản đối cuộc đảo chính vào đầu tháng Hai. Tại sao Trung Quốc chọn Miến Điện? Sự kiện ở Miến Điện gần đây có quan hệ gì với những điểm nóng châu Á khác mà Trung Quốc đang quan tâm?
Tại sao Quân đội Miến Điện đảo chính?
Cuộc tấn công âm thầm của đảng NLD và Aung San Suu Kyi vào quân đội Miến
Một báo cáo của Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp quốc tháng 9 năm 2019 chỉ ra quân đội Miến Điện nắm giữ những quyền lợi kinh tế cốt lõi của đất nước, từ phân phối thẻ SIM, xây dựng, đến sản xuất bia, thuốc lá, từ khai thác khoáng sản, đá quý, nhà máy xay xát đến ngành du lịch và xuất nhập khẩu. Các học giả Úc Michele Ford, Michael Gillan và Htwe Htwe Thein gọi hệ thống kinh tế mà giới quân sự Miến Điện kiểm soát là “chủ nghĩa tư bản thân hữu quân sự” (military crony capitalism).
Nắm quyền từ 2015, Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (National League for Democracy – NLD) của bà Suu Kyi đã cố gắng tấn công vào lợi ích kinh tế của quân đội. Năm 2019, họ đã tước Cục Hành chính Tổng hợp (General Administration Department) khỏi tay quân đội. Cục này trước đây thuộc quyền quản lý của Bộ Nội vụ (Ministry of home affairs) do quân đội kiểm soát, có chức năng quản lý, bổ nhiệm quan chức toàn quốc. Từ tháng 12 năm 2018, NLD đưa Cục này về Bộ Văn phòng Chính phủ Liên bang (Ministry of the Office of the Union Government), do mình kiểm soát.
Ngoài ra, NLD còn thay đổi nhiều điều khoản trong Luật Khai thác đá quý Miến Điện (Myanmar Gemstones Law), tấn công trực diện vào ngành kinh doanh béo bở do quân đội kiểm soát.
Theo “Sáng kiến Minh bạch các Ngành công nghiệp khai thác” (Extractive Industries Transparency Initiative), khoảng 60-80% đá quý được khai thác ở Myanmar bị buôn lậu, không thông qua hệ thống chính thức. Năm 2015, Global Witness, một tổ chức phi chính phủ quốc tế, công bố báo cáo “Ngọc thạch – “bí mật quốc gia lớn nhất của Miến Điện” (Jade: Myanmar’s “Big State Secret”), ước tính kim ngạch buôn bán bất hợp pháp ngọc bích hàng năm ở nước này là 31 tỷ USD.
“Cuộc điều tra kéo dài 12 tháng này cho thấy ngành công nghiệp khai thác ngọc bích lớn hơn nhiều so với hình dung trước đây, trị giá lên tới 31 tỷ đô la Mỹ chỉ trong năm 2014. Con số này tương đương với gần một nửa GDP của cả nước Miến Điện, nhưng hầu như không có khoản tiền nào đến tay người dân bình thường hoặc kho bạc nhà nước. Thay vào đó, ngành kinh doanh này bị kiểm soát bí mật bởi mạng lưới chóp bu quân đội, các trùm ma túy và các công ty thân hữu gắn liền với những ngày đen tối nhất của chế độ quân phiệt.”
Đá quý buôn lậu của Miến Điện chủ yếu được bán sang Trung Quốc.
Nỗ lực đầu tiên để chấn chỉnh ngành khai thác đá quý của chính quyền của đảng NLD là trì hoãn gia hạn giấy phép khai thác đá quý từ 2016 đến 2018. Ngoài ra, năm 2016, NLD đề xuất sửa đổi Luật Khai thác đá quý Miến Điện và được Quốc hội do đảng này chiếm đa số thông qua năm 2019. (Xem “The Myanmar Gemstone Law” 2019)
Luật mới tăng thuế đối với các công ty khai thác đá quý, chủ yếu cho quân đội kiểm soát (Chương 9). Bên cạnh đó, luật này tăng quyền lực cho Bộ Bảo tồn Tài nguyên và Môi trường Quốc gia (Ministry of National Resources and Environmental Conservation – MNREC), theo đó Bộ này có thẩm quyền kiểm tra, kiểm soát hoạt động khai thác, kinh doanh đá quý (Chương 10, 11, 12, 13).
Đặc biệt, Luật mới trao quyền cho MNREC thành lập Ủy ban Giám sát Đá quý Trung ương (Central Gemstone Supervisory Committee), bao gồm các chuyên gia, kỹ thuật viên đá quý và đại diện của Hiệp hội Doanh nhân Đá quý và Trang sức Myanmar (Myanmar Gems and Jewellery Entrepreneurs Association). Ủy ban này có chức năng tư vấn cho chính phủ xây dựng chính sách khai thác và kinh doanh đá quý.
Cục Thuế nội địa (Internal Revenue Department) trực thuộc Bộ Tài chính dưới thời chế độ quân phiệt không thu thuế từ khai thác và kinh doanh đá quý. Năm 2019, Quốc hội do NLD chiếm đa số đã thông qua Luật thuế Liên bang Myanmar (the Union Tax Law 2019), yêu cầu tất cả thuế thu được từ đá quý trực tiếp chuyển đến Cục Thuế nội địa này để quản lý một cách tập trung và thống nhất.
Có thể nói, trong 5 năm cầm quyền từ 2015 đến 2020, đảng NLD đã tiến hành xây dựng các công cụ pháp lý và chính trị để có thể trong tương lai điều chỉnh những bất cập trong nền kinh tế Miến Điện, đặc biệt là ngành khai thác kinh doanh đá quý vốn bị quân đội lũng đoạn nhiều thập niên.
Những động thái này của NDL, trong tương lai, có thể đe dọa sự thống trị của các tướng lĩnh quân đội trong ngành kinh doanh đá quý ở Miến Điện. Các quyền lợi kinh tế của giới tướng lĩnh quân đội được bảo đảm bởi thế thượng phong về mặt chính trị của họ. Về chính trị, họ chuyển hóa thành chính quyền dân sự năm 2011 nhưng nội các chủ yếu do tướng lĩnh quân đội chuyển sang (nội các “dân sự” có 33 bộ trưởng thì 28 thành viên là cựu quan chức quân đội). Hiến pháp 2008 quy định quân đội mặc định có 25% số ghế không cần bầu cử trong Quốc hội liên bang (Assembly of the Union), giúp họ có thể ngăn cản mọi khả năng cải cách hiến pháp.
Tuy nhiên, cuộc bầu cử 2015 đã làm cho đảng NLD chiếm đa số và đủ khả năng tự xây dựng nội các. Các tướng vị tướng quân đội chuyển sang nội các dân sự từ 2011 đến 2015 đã bị loại khỏi chính phủ. Quân đội chỉ còn nắm lực lượng vũ trang (ba bộ Quân đội, Cảnh sát và Biên phòng). Tuy NLD không thể cải cách hiến pháp, họ đã cải cách nhiều bộ luật liên quan đến quản lý kinh tế quốc gia, trực tiếp đe dọa nguồn lợi bất hợp pháp của giới quân sự.
Kết quả cuộc bầu cử 2020 tiếp tục duy trì tình thế 2015 – 2020, đặt quân đội vào khả năng mất thế thượng phong về mặt chính trị trong tương lai, từ đó, mất khả năng kiểm soát các nguồn lực kinh tế.
NLD và Aung San Suu Kyi ngăn chặn Trung Quốc
Hoàn Cầu thời báo, một tờ báo trực thuộc Tân Hoa Xã, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Trung Quốc, không che giấu cái nhìn của Trung Quốc về bà Suu Kyi, coi cuộc đảo chính là “một sự điều chỉnh cấu trúc quyền lực bị rối loạn về mặt chức năng của đất nước”. (“an adjustment to the country’s dysfunctional power structure”)
Theo số liệu của Ngân Hàng Thế giới, đến cuối năm 2019, Miến Điện chỉ còn nợ Trung Quốc 3.34 tỉ đô la, giảm 26% so với cuối năm 2015, trước khi NLD cầm quyền. Trong cùng khoảng thời gian này, nợ của Lào tăng vọt 72%, nợ của Campuchia tăng 34%.
Việc giảm nợ Trung Quốc giữa lúc đang cần tiền đầu tư cho kinh tế phải chăng là biểu hiện của thái độ “thoát Trung” trong thực chất của chính quyền Aung San Suu Kyi?
Chính quyền Suu Kyi có lý do để không thích vay nợ của Trung Quốc.
Nhật Bản đã xóa nợ 6 tỷ USD cho Miến Điện năm 2012 và 2013 mà không kèm theo điều kiện nào. Sau đó, Nhật tiếp tục cho những khoản vay hợp lý để phát triển kinh tế, xã hội, viện trợ không hoàn lại để đào tạo nhân lực cho Miến Điện.
Ngược lại, Trung Quốc đề nghị cho vay 7,5 tỷ USD để xây dựng cảng Kyaukpyu, chủ yếu để phục vụ lợi ích của chính bản thân Trung Quốc còn Miến Điện chỉ nhận được những lợi ích nhỏ và một món nợ không có nguồn thu để trả. Mặc dù Suu Kyi đang cần sự ủng hộ của Trung Quốc sau khi phương Tây tẩy chay bà vì vấn đề người Rohingya, bà đã gọi “món quà nợ” 7,5 tỷ USD của Trung Quốc là “điên rồ và lố bịch” (“crazy” and “absurd”) và yêu cầu giảm quy mô dự án và món nợ xuống còn 1,2 tỷ USD.
Có thể nói chính quyền Suu Kyi đã ngăn chặn để Miến Điện không rơi vào bẫy nợ và phải nhượng hải cảng cho Trung Quốc như Sri Lanka.
Đó có phải là “cấu trúc quyền lực bị rối loạn về mặt chức năng” trong cách nhìn của “Hoàn Cầu thời báo”? Trung Quốc không những không thể đưa Miến Điện vào bẫy nợ 7,5 tỷ USD mà số nợ của Miến Điện còn bị giảm xuống gần một phần ba kể từ khi bà Suu Kyi cầm quyền.
Sự trợ giúp của Trung Quốc cho giới quân sự Miến Điện
Diễn biến của cuộc bầu cử cuối năm 2020 và đảo chính ở Miến Điện đầu tháng 2 năm 2021 cho thấy cuộc đảo chính ở Miến Điện đã được lập kế hoạch ít nhất từ khi có kết quả bầu cử và được Trung Quốc hỗ trợ. Quân đảo chính cũng cân nhắc kỹ lưỡng từng thời điểm hành động.
Cuộc bầu cử quốc hội ở Miến Điện diễn ra ngày 8 tháng 11 năm 2020. Ngày 10 tháng 11, bà Aung San Suu Kyi và đảng National League for Democracy (NLD) tuyên bố chiếm đa số ghế trong quốc hội để tự thành lập chính phủ.
Tuy nhiên, quân đảo chính không “tố cáo gian lận bầu cử” ngay lập tức. Quân đội Miến Điện chờ đợi hai tháng sau, cuối tháng 12 năm 2020, tuyên bố bầu cử có gian lận một cách hệ thống. Có thể họ đã cân nhắc đến các mối quan hệ với Hoa Kỳ. Cuối tháng 12 năm 2020 là thời điểm các nỗ lực bằng con đường kiện tụng để lật ngược kết quả bầu cử ở Hoa Kỳ của cựu tổng thống Trump đã ngã ngũ. Biden chắc chắn nhậm chức vào ngày 20 tháng 1 năm 2021, tuy nhiên ông sẽ phải tập trung xử lý hàng loạt khó khăn trong nội bộ nước Mỹ.
Hai tuần sau khi quân đội Miến Điện tuyên bố có gian lận bầu cử, tháng 1 năm 2021, Ngoại trưởng Trung Quốc Wang Yi thăm Miến Điện, đã gặp riêng rẽ bà Suu Kyi (ngày 11) và Tổng tư lệnh quân đội Min Aung Hlaing (ngày 12).
Đến 26 tháng 1 năm 2021, quân đội Miến Điện cảnh cáo có thể làm đảo chính. Một tuần sau, họ đảo chính. Họ không thể làm sớm hơn, nhưng cũng không thể chậm hơn, vì nếu đảo chính khi chính quyền mới ở Mỹ đã ổn định được chính trị nội bộ, cuộc đảo chính có thể bị phản ứng mạnh mẽ.
Sau khi người dân Miến Điện biểu tình phản đối chính quyền quân sự, Trung Quốc đã trợ giúp Miến Điện. Các nhà hoạt động Miến Điện biểu tình phản đối trước Đại sứ quán Trung Quốc ở Yangon, tố cáo các chuyến bay của Trung Quốc đến nước này với tần suất lớn để hỗ trợ quân đảo chính. Trung Quốc chỉ đơn giản trả lời rằng đó là những chuyến bay chở hải sản. Họ cũng chặn nghị quyết của Liên Hiệp Quốc lên án cuộc đảo chính, từ chối tham gia các cuộc thảo luận quốc tế để giải quyết vấn đề Miến Điện. Xinhua, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Trung Quốc, gọi cuộc đảo chính này là “cải tổ nội các” và thừa nhận chính phủ mới.
Việc quân đội Miến Điện thẳng tay bắn giết người biểu tình trên đường phố cho thấy họ đã chủ động đóng lại cánh cửa thương lượng và hòa giải với NLD. Lựa chọn này cũng đồng nghĩa với việc chấp nhận tách khỏi phương Tây và Nhật Bản, dựa vào Trung Quốc để giữ quyền lực.
Cho đến đầu tháng Ba, hơn một tháng sau cuộc đảo chính, phản ứng của Hoa Kỳ và phương Tây đối với cuộc đảo chính và các cuộc giết người biểu tình trên phố ở Miến Điện nói chung là yếu ớt bởi lẽ họ không có nhiều công cụ để gây sức ép lên giới quân sự nước này. Các quan chức ngoại giao của họ phát biểu phản đối. Họ tuyên bố trừng phạt kinh tế. Họ đưa vấn đề Miến Điện lên Hội đồng Bảo an Liên Hiệp quốc, nơi chắc chắn Trung Quốc và Nga bác bỏ. Đó là những biện pháp trừng phạt mà giới quân đội Miến Điện đã có kinh nghiệm đối phó, như Tổng tư lệnh quân đội Miến nói thẳng với một quan chức UN, “chúng tôi đã quen thuộc với các lệnh trừng phạt và chúng tôi đã sống sót sau các lệnh trừng phạt đó trong quá khứ (…) chúng tôi phải học cách đi tiếp chỉ với một vài người bạn.“
Vị trí chiến lược của Miến Điện trong bản đồ địa chính trị mới của Trung Quốc
Trong “Chiến tranh lạnh” giữa hai khối cộng sản và tư bản, Việt Nam có vị trí chiến lược về mặt địa chính trị đối với Trung Quốc. Việt Nam vừa là cánh cửa cho Trung Quốc tiến xuống Đông Nam Á, vừa là hàng rào phòng thủ phía nam của họ. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã ủng hộ Đảng Lao động Việt Nam (tức “Đảng Cộng sản Việt Nam”) tối đa về mặt vật chất trong chiến tranh Việt Nam. Ngày nay, phải chăng Miến Điện thay thế vị trí này của Việt Nam trong bản đồ địa chính trị Trung Quốc?
Từ 2013, Trung Quốc triển khai đại chiến lược “Một vành đai, một con đường” để thúc đẩy tiến trình toàn cầu hóa theo hướng tạo ra một hệ thống mới, cạnh tranh với hệ thống phương Tây dẫn đầu từ sau thế chiến thứ hai. Đại chiến lược này xây dựng “Vành đai kinh tế phân bố dọc theo con đường tơ lụa” (“Silk Road Economic Belt”) và “Con đường Tơ lụa trên biển” (“Maritime Silk Road”). Ấn Độ Dương chiếm vị trí trung tâm trên “Con đường Tơ lụa trên biển” này. Do đó, Miến Điện đã trở nên đặc biệt quan trọng về mặt địa chính trị với Trung Quốc.
Xét về địa chính trị, Miến Điện là con đường nối trực tiếp Trung Quốc với Ấn Độ Dương, một điểm Trung Quốc cần giữ trong chiến lược “One Belt One Road”. Kiểm soát được Miến Điện, Trung Quốc không cần đi qua yết hầu Malacca, nơi Hoa Kỳ có thể dễ dàng khóa chặt.
Trung Quốc đã đầu tư đập thủy điện Myitsone ở Miến Điện, một số đường cao tốc nối Miến Điện với Côn Minh và Thành Đô, một tuyến đường sắt mới, xuyên qua vùng biên giới để nối Trung Quốc với Miến Điện, một đường ống dẫn dầu chạy từ cảng Kyaukpyu đến Trung Quốc.
Giới quan sát đã để ý đến động thái của Trung Quốc tại Kyaukpyu từ lâu. Trung Quốc có thể làm cho Kyaukpyu từ một địa điểm ít người quan tâm trở thành một vị trí chiến lược về mặt quân sự và kinh tế đối với họ.
Trung Quốc có thể dùng cảng Kyaukpyu và đường ống dẫn dầu từ vị trí này đến Côn Minh để hóa giải yết hầu Malacca Straits hay không?
Trung Quốc nhập khẩu 505.68 triệu tấn dầu thô năm 2019. Khoảng 80% dầu Trung Quốc nhập khẩu đi qua eo biển Malacca, tương đương khoảng 400 triệu tấn. Hệ thống đường ống dẫn dầu nối cảng Kyaukpyu đến Côn Minh hiện có khả năng vận chuyển 12 triệu tấn dầu thô và đang hoạt động hết công suất. Như vậy, đường ống dẫn dầu nối từ cảng Kyaukpyu ở Miến Điện đến Côn Minh chỉ vận chuyển được khoảng 2,5% lượng dầu thô Trung Quốc nhập khẩu từ Trung Đông và Châu Phi năm 2019, do đó nó vẫn chưa thể hóa giải được yết hầu Malacca.
Vai trò của Malacca vẫn chưa thể nhanh chóng mất đi trong tương lai gần nhưng Trung Quốc đang nỗ lực hết sức mình để giảm sự lệ thuộc vào nó. Năm 2017 Trung Quốc có kế hoạch xây dựng đường ống dẫn dầu thứ hai từ Miến Điện. Ngoài ra, các dự án đường sắt và đường cao tốc phục vụ vận chuyển hàng hóa nói chung và dầu thô nói riêng từ cảng Kyaukpyu vào Trung Quốc cũng đang được nghiên cứu triển khai.
Nếu Trung Quốc muốn giảm sự lệ thuộc vị trí yết hầu Malacca, mở con đường mới kết nối với Ấn Độ Dương, Miến Điện là một vị trí Trung Quốc không thể mất.
Trung Quốc đã kiểm soát được cảng Gwadar của Pakistan. Nhưng khoảng cách từ cảng Gwadar đến Tân Cương (Xinjiang), Trung Quốc, dài gấp đôi khoảng cách từ Kyaukpyu đến Côn Minh. Mặt khác, con đường đi từ cảng Gwadar đến Tân Cương đi qua vùng núi non hiểm trở và khu vực Kashmir tranh chấp với Ấn Độ. Ngoài ra, con đường này cũng gần các điểm nóng ở Afghanistan. Việc xây dựng đường ống dẫn dầu, đường cao tốc và đường sắt kết nối Gwadar và Tân Cương sẽ rất tốn kém vì quá xa, hiểm trở và có nhiều rủi ro chính trị. So với Gwadar của Pakistan, cảng Kyaukpyu của Miến Điện có những lợi thế đáng kể. Khoảng cách từ Kyaukpyu đến Côn Minh chỉ bằng một nửa khoảng cách từ Gwadar đến Tân Cương. Côn Minh lại là một trung tâm đô thị ở phía Tây Trung Quốc, phát triển vượt trội so với Tân Cương. Miến Điện đã có con đường Burma Road kết nối Yangon với Côn Minh được Anh và Trung Quốc xây dựng từ thế chiến thứ hai để thay thế cho tuyến đường biển nối khu vực miền Tây Trung Quốc với vùng đồng bằng ven biển Guangzhou bị Nhật Bản khóa lại sau khi đánh chiếm Nam Ninh.
Cảng Kyaukpyu thuộc bang Rakhine, nơi xảy ra cuộc diệt chủng người Rohingya. Cuộc khủng hoảng này đã đẩy cả quân đội Miến Điện và Suu Kyi lại gần Trung Quốc từ ba năm trước. Kiểm soát an ninh ở bang Rakhine không phải là việc khó khăn đối với Trung Quốc và quân đội Miến Điện.
Miến Điện, Biển Đông và Ấn Độ Dương
Các cuộc sắp xếp thế trận quân sự xung quanh eo biển Malacca càng làm cho Trung Quốc có lý do để kiểm soát Miến Điện.
Trung Quốc đã kiểm soát phía đông eo biển Malacca trên Biển Đông. Trung Quốc đã xây dựng hai thực thể địa lý nửa nổi nửa chìm là Subi Reef và Fiery Cross Reef thành hai căn cứ quân sự, án ngữ tuyến đường biển từ Malacca lên vùng Đông Bắc Á.
Ngoài ra, Trung Quốc đã xây đảo nhân tạo và căn cứ quân sự trên các thực thể địa lý khác trên Biển Đông như Cuarteron Reef, Gaven Reef, Hughes Reef, Johnson Reef, Mischief Reef, Antelope Reef. Những căn cứ này kiểm soát khu vực trung tâm và phía đông quần đảo Trường Sa và tuyến đường biển đi từ Australia vào Biển Đông. Trong trường hợp yết hầu Malacca Strait bị khóa, tàu thuyền sẽ phải đi vòng qua quần đảo Indonesia rồi vòng vào Biển Đông và đi qua các căn cứ này của Trung Quốc.
Nhiều nước lớn đã thực hiện những bước đi có tính chiến lược để phản ứng lại các bước leo thang của Trung Quốc trên Biển Đông. Ấn Độ đã thành lập lực lượng quân sự nhỏ tại chuỗi đảo Andaman và Nicobar (“Andaman and Nicobar Command”) năm 2001 nằm ngay cửa phía tây của Malacca Strait, trên Ấn Độ Dương. Khi Trung Quốc bắt đầu mở rộng sự hiện diện ra các vùng biển xa, Bộ Tứ Mỹ, Nhật, Úc, Ấn đã phát triển các căn cứ quân sự tại đây. Như vậy họ có thể khóa yết hầu Malacca khi nào họ muốn.
Tình thế này tại Malacca Strait làm cho Trung Quốc cần phải tìm con đường khác đi ra Ấn Độ Dương, kết nối với khu vực dầu mỏ ở Trung Đông và Châu Phi. Có thể nói Trung Quốc đã chọn Miến Điện. Trong những năm sắp tới, Trung Quốc sẽ đầu tư mạnh mẽ hơn vào Miến Điện đồng thời kiểm soát chính trị nước này để phát triển nơi này thành cánh cửa kết nối với Ấn Độ Dương.
Trung Quốc can thiệp vào biên giới Miến Điện
Cuộc đảo chính tháng Hai năm 2021 buộc giới quan sát nhìn lại việc Trung Quốc can thiệp Miến Điện lâu nay ở vùng biên giới thông qua các nhóm cộng sản từ thời chiến tranh lạnh và các nhóm thổ phỉ vùng miền núi.
Trung Quốc đã viện trợ cho các đảng cộng sản ở Đông Nam Á từ thập niên 1950s, gồm ở Miến Điện, Việt Nam, Philippines, Cambodia… Mặc dù cùng được Trung Quốc hỗ trợ, các đảng cộng sản này có số phận khác nhau.
Đảng Cộng sản Việt Nam, do nằm ở vị trí địa chiến lược quan trọng với Trung Quốc trong chiến tranh lạnh, đã được Mao viện trợ vũ khí và nhu yếu phẩm quy mô lớn và liên tục từ 1950, lần lượt giành quyền kiểm soát một nửa nước từ 1954 và toàn bộ đất nước từ 1975. Đảng Cộng sản Philippines có vai trò mờ nhạt đối với khối cộng sản chủ nghĩa trong chiến tranh lạnh, không được viện trợ quy mô lớn để giành chính quyền, từ lâu đã thoái hóa thành thổ phỉ, hiện ẩn náu trong khu vực rừng núi. Đảng Cộng sản Khmer chìm đắm trong “chủ nghĩa dân tộc chống Việt Nam”, bị đồng chí Việt Nam tiêu diệt năm 1979 sau 4 năm cầm quyền. Riêng ở Miến Điện, lịch sử các nhóm cộng sản phức tạp hơn.
Ở Miến Điện, năm 1962, tướng Ne Win đảo chính, cướp chính quyền vào tháng Hai, thành lập Đảng Chương trình Xã hội Chủ nghĩa Miến Điện (Burma Socialist Programme Party – BSPP) vào tháng Bảy, tiến hành xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa. Đảng Chương trình Xã hội Chủ nghĩa Miến Điện nắm quyền đến 1988, tổ chức nền kinh tế kế hoạch tập trung với hạt nhân là quân đội.
Trung Quốc của Mao đã trợ giúp cho nhiều nhóm cộng sản khác nhau ở Miến Điện như Communist Party of Burma (1948-1989), Red Flag Communist Party (1948-1978), Shan State Communist Party (1956-1958), Communist Party of Arakan (1962-1986). Ngoại trừ Shan State Communist Party vốn tách ra từ Communist Party of Burma năm 1956 và đầu hàng chính phủ vào năm 1958, các nhóm cộng sản khác đều ở khu vực rừng núi và chống lại người đồng chí xã hội chủ nghĩa BSPP ở trung ương. Trong số đó, Communist Party of Burma (CPB) có ảnh hưởng mạnh nhất. CPB trước đây chủ yếu là người Hán di cư từ Trung Quốc đến Miến Điện sau khi Mãn Thanh lật đổ triều Minh. Từ 1989, họ chuyển hóa thành “Quân đội Liên minh Dân chủ Quốc gia Myanmar” (“Myanmar National Democratic Alliance Army” – MNDAA), một tổ chức thổ phỉ chống đối chính quyền trung ương Miến Điện, hoạt động ở vùng miền núi Kokang, giáp ranh biên giới Trung Quốc.
Theo Wikileaks, từ 1975, cơ quan U.S. Drug Enforcement Agency (DEA) của Mỹ đã liệt lãnh tụ của Đảng này, Peng Jiasheng, một người Miến gốc Hán, vào danh sách một trong những đầu sỏ buôn lậu (major trafficker). Năm 2009, chính phủ Miến Điện tấn công và kiểm soát hoàn toàn Kokang, Peng Jiasheng rời khỏi Miến Điện và ẩn náu ở Trung Quốc.
Năm 2015, khi đảng NLD của bà San Suu Kyi nắm quyền, Peng Jiasheng đột nhiên quay trở lại Kokang, thổi bùng xung đột quân sự với chính phủ trung ương Miến Điện. Tướng Miến Điện Myat Htun Oo cáo buộc “lính đánh thuê Trung Quốc” đã tham gia hàng ngũ của MNDAA. Tờ báo “Global New Light of Myanmar” do chính phủ Miến Điện tài trợ đưa tin là MNDAA sử dụng vũ khí do Trung Quốc sản xuất. Cả chính phủ Trung Quốc và Peng Jiasheng đều phủ nhận sự can dự của Trung Quốc.
Chiến sự ở Kokang giữa MNDAA và chính phủ Yangon kéo dài đến 2017. Năm 2017, Peng Jiasheng và MNDAA quyên góp được nửa triệu dollars từ “tư nhân” và “doanh nghiệp” Trung Quốc, thông qua một tài khoản ngân hàng tại Agricultural Bank of China. Khi việc này được công khai, Agricultural Bank of China đã tạm ngưng tài khoản này. Tuy nhiên, việc một tổ chức thổ phỉ và buôn lậu như MNDAA “quyên góp” được số tiền lớn từ “tư nhân” và “doanh nghiệp” Trung Quốc thông qua một ngân hàng quốc doanh của nước này đã cho phép các nhà quan sát Miến Điện đặt ra giả thuyết về sự can thiệp của Bắc Kinh vào nước này.
Quá trình Trung Quốc thao túng các nhóm cộng sản ở Miến Điện trước đây, bao gồm “Communist Party of Burma” mà ngày nay là MNDAA, cho thấy Trung Quốc đã chủ động tạo ra bất ổn chính trị nội bộ bên trong Miến Điện để dễ dàng thực hiện chiến thuật “hỗn thủy mạc ngư” (khuấy bùn cho nước bị đục, rồi thừa cơ bắt cá) và đẩy chính phủ Yangon, dù đó là phe quân đội hay phe NLD, vào tình thế cần họ hơn.
Mặc dù mâu thuẫn nhau trong chính sách kinh tế, đảng NLD và quân đội Miến Điện không mâu thuẫn nhau trong chính sách đối với người Rohingya. Năm 2017, quân đội Miến Điện đẩy mạnh bạo lực nhắm vào người Rohingya ở bang Rakhine trên bờ biển Ấn Độ Dương. Bà Suu Kyi đứng về phe quân đội, bị phương Tây phê phán. Trung Quốc cũng đã ngăn chặn Liên Hiệp Quốc ra nghị quyết lên án cuộc thảm sát.
Như vậy, Trung Quốc đã cố gắng chơi tất cả các quân cờ đối địch nhau trên chiến trường chính trị và quân sự của Miến Điện, để có thể đi những nước cờ phù hợp với từng tình huống sao cho không trật khỏi đường ray dẫn đến mục tiêu. Đây cũng là chính sách Trung Quốc thực hiện ở Cambodia hơn nửa thế kỷ nay.
Tương lai của Miến Điện?
Quá trình toàn cầu hóa đang dần dần bước vào tình thế hình thành hai hệ thống song song, một do Mỹ xây dựng và dẫn đầu từ sau thế chiến thứ hai và một do Trung Quốc đang tái cấu trúc lại. Con đường chính trị đúng của Miến Điện là không trở thành chiến trường cho hai hệ thống cạnh tranh lẫn nhau bằng vũ lực.
Miến Điện cần phải dân chủ hóa, tôn trọng các lực lượng chính trị đối lập, chấm dứt thảm sát người Rohingya và hỗ trợ họ khôi phục cuộc sống hòa bình, hòa giải với lực lượng vũ trang của các dân tộc thiểu số nổi loạn, như nhóm “Karen National Union” (KNU) của tộc người Karen ở vùng Kawthoolei giáp với Thái Lan, và ngăn chặn không để cho hình thành những nhóm vũ trang mới.
Con đường này của Miến Điện là không phải bất khả thi nhưng có nhiều trở ngại nội tại. Có một số vấn đề giới quan sát sẽ phải tiếp tục theo dõi về Miến Điện:
Một là, quân đội Miến Điện hiện nay có thể chấp nhận rút lui khỏi chính trường, trở thành quân đội chuyên nghiệp, như thường thấy ở các nước văn minh hay không? Trong điều kiện nào họ sẽ chấp nhận bước vào hệ thống dân chủ, dù đương nhiên vẫn giữ mối quan hệ hữu hảo với Trung Quốc? Các nước phương Tây có thể giúp Miến Điện tạo ra các điều kiện này hay không?
Hai là, Mỹ và phương Tây đã tẩy chay Aung San Suu Kyi và NLD vì cuộc thảm sát người Rohingya từ năm 2017. Trong điều kiện nào thì họ quay trở lại giúp đỡ “lực lượng dân chủ” bị đảo chính này?
Ba là, nếu các lợi ích kinh tế không được phân chia “công bằng” trong giới chóp bu quân đội, và cuộc phản kháng của người dân tiếp tục dâng cao, tạo ra sức ép khiến họ phải thay đổi chính sách bạo lực hiện nay, liệu có thể xuất hiện những rạn nứt trong lãnh đạo quân đội Miến Điện dẫn đến sự trở lại chính sách năm 2011 hay không?
Xem xét nước cờ Miến Điện của Trung Quốc trong một bàn cờ rộng hơn
“Binh thư yếu lược” là cuốn sách quân sự cổ xưa nhất của Việt Nam, trước tác của Trần Hưng Đạo, người lãnh đạo Việt Nam ba lần đánh bại quân Mông Cổ vào thế kỷ 13. Cuốn sách mặc dù đã bị hủ Nho đời sau thêm thắt, sửa chữa đến mức trở nên tầm thường, nhưng may mắn vẫn còn sót lại một vài ý tưởng có thể coi là tinh hoa về mặt tư duy chiến lược, có thể phán đoán là được lưu lại từ bản gốc. Một trong những ý tưởng ấy là “Đánh chỗ cứng, chỗ mềm hóa cứng. Đánh chỗ mềm, chỗ cứng hóa mềm”.
Có thể hiểu “chỗ cứng” là mục tiêu chính, cuối cùng, chủ yếu, khó giải quyết, còn “chỗ mềm” là những mục tiêu phụ, thứ yếu, dễ thành công, có liên quan đến “chỗ cứng”. Lời dạy này nhấn mạnh đến tính chất chiến lược của “quy trình thực thi” một chiến dịch để đạt được mục đích cuối cùng. Nếu ngay lập tức tấn công trực diện vào mục tiêu chính, không những khó có thể giành mục tiêu này mà còn làm cho các mục tiêu phụ trở nên khó khăn (“chỗ mềm hóa cứng”). Ngược lại, nếu trước tiên tấn công vào các mục tiêu mềm, tính cấu trúc của đối phương có thể bị phá vỡ (“chỗ cứng hóa mềm”) để từ đó xem xét đánh tiếp. Lời dạy này có thể soi sáng cho chúng ta về chiến lược của Trung Quốc.
Ở Miến Điện, đảng NLD và bà Aung San Suu Kyi tuy nắm chính quyền nhưng không nắm được quân đội và cảnh sát, và cũng chưa kịp xây dựng lực lượng vũ trang riêng để tự vệ. Đối đầu với cả nhóm lợi ích trong quân đội Miến Điện và đại chiến lược “Một vành đai – một con đường” của Trung Quốc khi mới nắm chính quyền chưa lâu, họ đã trở thành “chỗ mềm” trên bàn cờ địa chính trị của Trung Quốc.
Trận đánh nhỏ của Trung Quốc ở Miến Điện vừa qua ngoài mục tiêu kiểm soát chắc chắn một vị trí quan trọng trên Ấn Độ Dương, còn có mục đích thăm dò khả năng đáp trả của Hoa Kỳ, Nhật Bản và châu Âu. Mục tiêu cuối cùng không dừng lại ở Miến Điện. Nếu các nước dân chủ phản ứng yếu ớt và không có thực chất, Trung Quốc sẽ đánh dứt điểm ở mục tiêu mình thực sự mong muốn. Hẳn nhiên các nhà quan sát chính trị Châu Á đang theo dõi xem “chỗ cứng” thực sự mà Trung Quốc mong muốn là chỗ nào.
Kênh đào Kra
Trung Quốc từng có kế hoạch xây dựng kênh đào Kra ở Thái Lan để thay thế cho Malacca Strait. Tuy nhiên, các căn cứ quân sự của Ấn Độ trên chuỗi đảo Andaman và Nicobar cũng có thể khóa được cả eo biển Malacca và kênh đào Kra. Kênh đào Kra do đó sẽ không còn nhiều giá trị với Trung Quốc về mặt địa chính trị dù có thể có lợi ích kinh tế.
Nhật Bản
Từ khi Miến Điện tiến hành cải cách chính trị và mở cửa với thế giới, cả Nhật Bản và Trung Quốc đều cạnh tranh lẫn nhau đầu tư vào nước này. Bên cạnh việc xóa nợ cho Miến Điện, Nhật Bản đã đầu tư sân bay quốc tế, nhà máy điện và cải tạo hệ thống đường sắt hiện hữu ở nước này. Cuộc đảo chính và đàn áp đẫm máu người biểu tình sau đảo chính ở Miến Điện chắc chắn sẽ đẩy Nhật Bản ra khỏi nước này. Nhật Bản có thể phải chấp nhận tổn thất từ những đầu tư trước đây.
Biển Đông
Hiện Trung Quốc có hai mục tiêu lớn là Đài Loan và một số đảo lớn trên Biển Đông. Trong hai mục tiêu này, Đài Loan là chỗ khó giải quyết nhất. Các đảo lớn trên Biển Đông có thể là một lựa chọn thích hợp cho Trung Quốc trong tương lai gần.
Việc kiểm soát Biển Đông vẫn tiếp tục quan trọng đối với Trung Quốc. Subi Reef và Fiery Cross Reef trên Biển Đông là những căn cứ quân sự Trung Quốc gần Malacca nhất. Chúng cần thiết cho Trung Quốc khi xảy ra xung đột ở Malacca.
Chúng tôi hiện không đủ thông tin để có thể suy nghĩ sâu và rộng hơn về “chỗ cứng” thực sự mà Trung Quốc mong muốn. Vấn đề này cần phải được tiếp tục theo dõi và phân tích kỹ lưỡng hơn trong tương lai khi xuất hiện những chuyển động mới.
Nguyễn Lương Hải Khôi (*)
(*) Về tác giả: Nguyễn Lương Hải Khôi là thư ký tòa soạn của tạp chí Nghiên cứu Việt Mỹ (US Vietnam Review) thuộc Đại học Oregon. Các bài viết báo chí của ông tập trung vào các chủ đề: Xung đột trên Biển Đông, kinh tế chính trị Việt Nam đương đại và lịch sử tinh thần cộng hòa ở Việt Nam. Một số bài viết và bài dịch tiếng Việt của ông được đăng tải ở đây https://usvietnam.uoregon.edu/author/khoin/,
một số bài tiếng Anh được đăng ở đây: https://usvietnam.uoregon.edu/en/author/khoin/ .
https://www.voatiengviet.com/a/dong-nam-a-trung-quoc-mien-dien/5814950.html