Đông Nam Á: Lên án vòng vo vụ tấn công báo Charlie Hebdo
Các nhà báo Charlie Hebdo giới thiệu báo ra ngày 14/01, số đầu tiên sau vụ khủng bố tấn công tòa soạn. – REUTERS
Theo RFI – 13-01-2015 17:25
Sau tấn công giết hại các nhà báo của tuần báo châm biếm Pháp Charlie Hebdo, ngày 07/01/2015, chính quyền nhiều nước Đông Nam Á đã lên án hành động này. Thế nhưng, Đông Nam Á là nơi mà quyền tự do báo chí và ngôn luận bị kiểm duyệt mạnh mẽ nhất. RFI xin giới thiệu bài viết của chuyên gia Zach Abuza, trên báo mạng Philippines Rappler, ngày 13/01/2015.
Các chính phủ ở Đông Nam Á đã nhanh chóng lên án vụ tấn công vào trụ sở tòa soạn tuần báo châm biếm Pháp Charlie Hebdo và vụ giết hại 12 người. Họ lên án điều mà họ miêu tả như là một «hành động khủng bố» và chia buồn với các nạn nhân. Thế nhưng, không một vị lãnh đạo hoặc chính phủ nào nói đến cuộc tấn công thực sự, đó là cuộc tấn công vào tự do báo chí, bất kể bạn cho rằng Charlie Hebdo có nội dung hay hoặc dở. Điều này không gây ngạc nhiên tại một vùng mà trong nhiều năm qua, ở trong tình trạng u ám về chỉ số tự do báo chí, hạn chế tự do ngôn luận và tự do internet. Không một chính phủ nào ở Đông Nam Á được giới quan sát quốc tế đánh giá là tôn trọng tự do báo chí. Phóng viên Không Biên giới xếp các nước Đông Nam Á nằm trong nhóm đứng thứ ba, tính từ dưới lên trên, trong bảng xếp hạng của tổ chức này, bao gồm những nước hạn chế nhất quyền tự do báo chí. Theo Ủy ban Bảo vệ các Nhà báo, trong năm 2014, 28 nhà báo đã bị bắt giữ, chiếm hơn 10% trong tổng số các vụ bắt giữ nhà báo trên thế giới (220 vụ), cao hơn năm 2013 với 19 vụ. Tương tự, báo cáo thường niên về Tự do Internet của tổ chức Freedom House đánh giá chỉ Philippines là có tự do internet. Cam Bốt, Indonesia, Malaysia, Miến Điện và Singapore được đánh giá là có «tự do bán phần» trong khi Thái Lan và Việt Nam được đánh giá là «không có tự do». Chỉ có Malaysia được nâng hạng trong năm 2014; tất cả các nước khác đều bị tụt hạng.
Họ đã phản đối quá nhiều
Trong một bức thư gửi Thủ tướng Pháp, tướng Prayut Chan Ocha, người lãnh đạo cuộc đảo chính đã gửi lời chia buồn tới các nạn nhân và đã «lên án hành động khủng bố này». Cho dù có nhắc tới tuần báo Charlie Hebdo, ông không hề nói gì đến việc tấn công vào quyền tự do báo chí. Cùng ngày, chính phủ Thái Lan đưa ra một dự luật cho phép gia tăng khả năng kiểm duyệt và dò xét tất cả các trao đổi thông tin, mạng xã hội. Năm 2014, chính quyền quân sự đã bắt giữ 2 nhà báo, trong đó có một người phụ trách biên tập chỉ vì đã đăng một bài bị coi là vi phạm luật Khi Quân hà khắc và cổ hủ (điều 112 Bộ Luật Hình sự). Cuối tháng 12 vừa qua, Thủ tướng và Bộ trưởng Quốc phòng đã bày tỏ sự ủng hộ với đề xuất đóng cửa các cơ quan truyền thông phê phán chính phủ và ông Prayut đã cáo buộc nhiều cơ quan truyền thông phá hoại chương trình «hòa giải», khi cho đăng các bài chỉ trích mạnh mẽ. Chính quyền quân sự đã họp kín với lãnh đạo các cơ quan truyền thông để cảnh cáo họ. Kể từ cuộc đảo chính hồi tháng 05/2014, chính quyền Thái Lan đã xét xử 20 người bị cáo buộc vi phạm điều 112 Bộ Luật Hình sự, nhiều hơn cả số vụ trong suốt 5 năm qua. Điều 112 cũng như Luật về tội phạm tin học, đã được sử dụng để bịt miệng tất cả những tiếng nói đối lập với chính quyền quân sự. Bất kể ai, kể cả thường dân, bị cáo buộc phạm tội Khi Quân, đều bị đưa ra tòa án binh xét xử, nơi mà bị cáo không có quyền kháng án. Truyền thông Thái Lan ở trong tình trạng vừa bị kiểm duyệt vừa tự kiểm duyệt mạnh mẽ. Bộ Thông tin và Truyền thông Thái Lan đã đóng cửa 1200 website bị coi là vi phạm luật Khi Quân, đi kèm với việc bắt giữ những nhà hoạt động phản đối cuộc đảo chính vì họ đã đăng tải các thông điệp trên mạng xã hội. Bộ này còn có khả năng trong vòng 30 giây đóng cửa bất kỳ website nào bị cáo buộc vi phạm. Giờ đây, chính phủ còn giao trách nhiệm cho các nhà cung ứng dịch vụ internet theo dõi các website và trao cho họ quyền đóng cửa bất kỳ website nào bị cáo buộc vi phạm điều 112 mà không cần lệnh của tòa án. Trong một thông điệp đăng trên Twitter, Thủ tướng Malaysia Najib Razak đã lên án vụ tấn công. «Chúng ta phải đấu tranh một cách đúng mực chống lại tư tưởng cực đoan». Theo thông cáo của chính phủ Malaysia, «không có gì biện minh cho việc cướp đi sinh mạng của những người vô tội». Thế nhưng, cũng không hề có câu nào nói đến việc bảo vệ quyền tự do ngôn luận. Điều này cũng không ngạc nhiên. Phóng viên Không Biên giới xếp Malaysia đứng thứ 147 trong tổng số 180 nước về quyền tự do báo chí. Mặc dù vào tháng 11/2014, Thủ tướng Najib hứa bãi bỏ Luật chống nổi loạn có từ thời thực dân, nhưng ông không chỉ vẫn giữ nguyên nghị định mà còn dựa vào văn bản này để gia tăng các vụ truy tố mang mục đích chính trị. Hơn 10 trường hợp bị cáo buộc nổi loạn đã được đệ trình lên tòa, đa số nhắm vào các chính trị gia đối lập và các nhà hoạt động trẻ, cũng như nhắm vào một giáo sư luật vì đã đưa ra ý kiến với tư cách là một chuyên gia. Thứ hạng về tự do báo chí của Malaysia tiếp tục xuống thấp, trong lúc có khoảng 1500 giáo lệnh hạn chế mạnh mẽ tự do ngôn luận. Phó Thủ tướng Singapore Teo Chee Hean đã lên án vụ tấn công, nói rằng «thật là buồn khi nhìn thấy tư tưởng cực đoan dẫn đến bạo lực và đổ máu». Thế nhưng, Singapore cũng có một vài đạo luật hạn chế tự do báo chí nhất trong khu vực. Nước này bị Phóng viên Không Biên giới xếp hạng thứ 150 trong tổng số 180 quốc gia và thường xuyên sử dụng các luật chống vu cáo, bôi nhọ, để bịt miệng truyền thông và đối lập chính trị ; chính phủ chưa bao giờ thua kiện trong các vụ xét xử về tội vu cáo, kể cả khi kiện các hãng thông tấn lớn của phương Tây. Vài ngày sau khi lên án khủng bố, một tòa án của Singapore đã ra lệnh cho một blogger phải chi 28 000 đô la Singapore án phí trong vụ Thủ tướng kiện vu cáo. Không có gì ngạc nhiên là blogger này thua kiện. Tương tự, Ngoại trưởng Indonesia Retno Marsudi cũng lên án vụ tấn công và chia buồn. Tuy là một trong những nước có tự do báo chí nhất trong khu vực (xếp hạng thứ 132 trên 180), Indonesia vẫn chưa thoát ra khỏi tình trạng tồi tệ của những năm 2009-2011 và số vụ tấn công các nhà báo vẫn còn rất cao và ít bị truy tố. Những cáo buộc từ bỏ tôn giáo nhắm vào lãnh đạo báo Jakarta Post gần đây, cho dù sau đó bị bãi bỏ, cho thấy những điều đạt được tại Indonesia còn rất mong manh. Trên internet cũng vậy, Indonesia vẫn chỉ được xếp hạng «tự do bán phần» và đứng hàng thứ ba về mức độ thâm nhập internet thấp trong khu vực. Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam đã lên án vụ tấn công là «dã man và không thể chấp nhận được», còn Chủ tịch Trương Tấn Sang, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thì gửi điện chia buồn tới các đồng nhiệm Pháp. Thế nhưng, Việt Nam lại là nước hạn chế quyền tự do báo chí nhất trong vùng, đứng thứ 174 trên 180 nước, theo phân loại của Phóng viên Không Biên giới. Hiện nay, tại Việt Nam, có 19 nhà báo và blogger bị giam giữ, trở thành nhà tù đứng hàng thứ 5 trên thế giới đối với các nhà báo. Nội trong một tháng, từ tháng 11 đến tháng 12 năm 2014, Việt Nam đã bắt giữ 3 blogger, cáo buộc họ theo những điều khoản mơ hồ về an ninh quốc gia trong Bộ Luật Hình sự và tội «lạm dụng các quyền tự do dân chủ». Thật khôi hài, vào giữa năm 2014, chính quyền Việt Nam đã đóng cửa trang web Haivl.com, một tạp chí châm biếm trên mạng rất nổi tiếng. Việc tấn công các blogger và các hạn chế chung những tiếng nói của giới trí thức sẽ còn gia tăng trong năm nay, trước khi có Đại hội đảng Cộng sản lần thứ 12, sẽ được tổ chức vào đầu năm 2016. Và trong lúc Philippines rất có tự do báo chí, thì việc không trừng phạt các vụ tấn công nhắm vào nhà báo lại làm cho nước này trở thành một trong những quốc gia có số nhà báo bị giết hại nhiều nhất trên thế giới, bị giới quan sát hạ thứ bậc hàng năm trong bảng xếp hạng về tự do báo chí. Phóng viên Không Biên giới xếp Philippines ở thứ 149 trên 180. Cùng ngày xẩy ra vụ tấn công tòa soạn tuần báo Charlie Hebdo, có một nhà báo Philippines bị bắn chết và đây là vụ thứ 172, kể từ năm 1986. Vụ tấn công tòa soạn Charlie Hebdo chỉ là vụ có số nhà báo bị giết hại đứng hàng thứ hai trên thế giới, xếp sau vụ thảm sát ở Maguindanao, hồi tháng 11/2009, với 58 người bị giết chết trong đó có 32 nhà báo. Các nhân chứng bị sát hại và tại Philippines, không một ai bị kết án vì đã giết một nhà báo. Sự im lặng liên tục của chính phủ về việc không trừng phạt những kẻ phạm tội nói lên nhiều điều. Đã đến lúc lãnh đạo các nước cần phải lên tiếng mạnh hơn việc lên án hành động khủng bố. Charlie Hebdo bị tấn công do sứ mệnh châm biếm của họ và buộc chúng ta phải đặt câu hỏi với các chính phủ, về các chính sách, tôn giáo và ý thức hệ. Các nhà báo đã bị giết vì đã làm công việc của mình. Việc tấn công vào tự do ngôn luận là không thể chấp nhận được và không thể biện minh, không thể nhân danh tôn giáo, tư tưởng hoặc ý thức hệ chính trị. Không có gì có thể đứng trên các quyền chỉ trích, chất vấn, cho dù có thể bị coi là là bất kính hoặc sở thích tồi tệ. Tại Đông Nam Á, các nhà báo đang bị tấn công trong lúc họ không làm gì ngoài việc cung cấp thông tin, tạo các cuộc tranh luận về các chính sách công và buộc các chính phủ phải có trách nhiệm hơn. Đây chính là điều mà các chính phủ ở Đông Nam Á cần lên án. Chúng ta không thể cho phép các chính phủ lên án bạo lực để biện minh cho việc kiểm soát chặt chẽ hơn internet và truyền thông, đồng thời kìm hãm tự do ngôn luận và tự do internet.