Đỗ Mười, kẻ hủy hoại miền Nam

Cac Bai Khac

No sub-categories

Đỗ Mười, kẻ hủy hoại miền Nam

Châu Minh Dũng

2-9-2018
Rạng sáng ngày 2/10/2018, các báo “lề đảng” đồng loạt đưa tin: Cựu Tổng Bí thư Đỗ Mười qua đời. Theo một bài viết trước đó trên RFA, Đỗ Mười đã bị bệnh phổi và thận giày vò trong sáu tháng. Không chỉ mang bệnh, ở tuổi 101, Đỗ Mười đã kịp chứng kiến một loạt sự kiện bất lợi cho chế độ của ông ta trong hai thập niên gần đây. Đó là đoạn kết dành cho kẻ đã gây tội với hàng chục vạn gia đình miền Nam, rồi góp phần đẩy đất nước vào vòng trói buộc của Trung Quốc.
Hiếm có lãnh đạo cộng sản nào gây được quá nhiều tội ác như Đỗ Mười, dung lượng một bài viết không thể thống kê hết. Tuy nhiên, hai tội lớn nhất vẫn là: Chiến dịch “đánh tư sản” đã hủy hoại kinh tế miền Nam, đẩy hàng triệu người vào vùng “kinh tế mới” và Hội nghị Thành Đô, sự kiện đã khởi động quá trình đưa Việt Nam vào vòng lệ thuộc Trung Quốc từ năm 1990 đến nay.
Chiến dịch X-1, X-2, X-3 và một miền Nam tang thương
Sau ngày miền Nam bị cưỡng chiếm hồi Tháng Tư Đen với máu và nước mắt, Đỗ Mười và các lãnh đạo cộng sản phát động các chiến dịch trừng phạt và cướp bóc, với mục tiêu là những đồng bào mà họ vừa tuyên bố “giải phóng”. Đầu tiên là chiến dịch X-1, nhắm vào các sĩ quan quân đội, cảnh sát và tình báo của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, khởi sự từ năm 1975, đến tận năm 1990 vẫn có người phải “học tập cải tạo”, mà thực chất là bị giam cầm và tra tấn.
Dù trước đó Tổng thống Dương Văn Minh đã tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, những người cộng sản vẫn không buông tha cho đồng bào của họ ở bờ nam sông Bến Hải, đẩy hàng chục vạn gia đình vào cảnh chia lìa. Những người vợ và con cái trong gia đình bị đưa đi vùng kinh tế mới, thật ra là đày ải ở rừng thiêng, nước độc, còn những người đàn ông thì bị tống vào trại tù. Nơi đó, có những trò tra tấn và sỉ nhục rất phi nhân tính đã diễn ra. Có người sống sót trở về nhưng thân tàn ma dại, có người không bao giờ được dịp trở về gặp lại vợ con họ nữa.
Các chiến dịch X-2 và X-3 được phát động song song từ năm 1978, nhằm cướp bóc một cách có hệ thống trên hầu hết các tỉnh thành phía Nam. Đối tượng của chiến dịch X-2 là tất cả những thành phần kinh tế tư nhân, từng được thừa nhận trong chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. Những người dân chỉ quen lo làm kinh tế, thậm chí từng nuôi giấu và hỗ trợ lính Bắc Việt, bỗng dưng mang tội “phá hoại nền kinh tế mới”. Sản nghiệp của họ bị hủy hoại chỉ trong một đêm.
Nhà báo Huy Đức đã ghi lại lời nhận định của Thành ủy Sài Gòn về kết quả chiến dịch X-2: “Bọn tư sản mại bản bị cô lập rất cao, chúng đã mất hết chỗ dựa về mặt quân sự và chính trị. Lực lượng kinh tế của chúng đã bị sứt mẻ và đang bị tan vỡ dưới sự tiến công của ta”. Rõ ràng lúc ấy chiến tranh đã kết thúc, Đỗ Mười và các “đồng chí” của ông ta vẫn xem đồng bào là kẻ địch. Họ vẫn tự hào khi tiếp tục làm đất nước nghèo đi, khiến bao nhiêu người tan cửa nát nhà.
Riêng chiến dịch X-3 tập trung vào khu vực Sài Gòn và tạo ra vết sẹo đến giờ vẫn chưa lành trên thành phố từng là “hòn ngọc Viễn Đông”. Chiều 21/3/1978, Đỗ Mười đọc Quyết định của Thủ tướng và Chỉ thị 100 – CP để triển khai kế hoạch “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh”. Lúc ấy, Đỗ Mười đã nói: “Đánh rắn phải đánh dập đầu, ta đã đánh dập đầu rồi, nhưng con rắn tư bản đánh dập đầu nó chưa chết, cái đuôi nó còn nguy hiểm hơn cái đầu. Không giần cho nát cái đuôi của nó, thì nó vẫn tác oai tác quái phá chúng ta”.
Những lời lẽ bệnh hoạn và phi nhân tính như vậy lại có thể được thốt ra từ miệng một lãnh đạo cấp cao của chế độ. Càng kinh khủng hơn là đã có những người miền Nam cả tin, thực hiện đúng theo những lời sắt máu này. Sáng 23/3/1978, tất cả các cửa hàng kinh doanh ở Sài Gòn phải đóng cửa theo lệnh Thành ủy, rồi bị niêm phong và tịch thu tài sản. Báo Tiền Phong số 40, 1978 kể chuyện, một cô tên là Lý Mỹ đã giúp các cán bộ trấn lột sạch sẻ tài sản của gia đình cô.
Bên canh việc cướp bóc, khoảng 60 vạn dân sau khi bị tịch thu tài sản, còn bị đày đến các “vùng kinh tế mới”, nói thẳng ra là những khu đất khỉ ho cò gáy, thiếu thốn đến cả những công trình dân sinh cơ bản. Bản thân chương trình “kinh tế mới” cũng chẳng đem lại lợi ích gì, vì đến năm 1990 thì lãnh đạo cộng sản Việt Nam vẫn phải bám chân Trung Quốc nhằm tránh nguy cơ sụp đổ kinh tế. Các chiến dịch X-1, X-2, X-3 đã khiến hàng triệu người miền Nam mất sạch tài sản và bị ly tán. Đỗ Mười đã chứng minh rằng một tay hoạn lợn làm lãnh đạo thì vẫn tư duy như hoạn lợn, chỉ có thể phá chứ không thể xây.
Những người dân bị tịch thu nhà cửa, tài sản rồi bị đày lên “vùng kinh tế mới”. Nguồn ảnh: Dòng Sông Cũ
Về bản chất, chiến dịch X-2, X-3 không khác gì “Đêm Thủy tinh” (Kristallnacht) do phát xít Đức phát động vào ngày 9 và 10/11/1938. Lúc ấy, các lãnh đạo Đức Quốc xã huy động lực lượng SA tấn công nhà cửa, các công trình tôn giáo và khoảng 7000 cơ sở kinh doanh của người Do Thái. Khoảng ba vạn người Do Thái bị bắt giữ, bị cướp sạch tài sản và trở thành tù nhân trong các trại tập trung của phát xít Đức.
Ở đây, ta thấy những người cộng sản tàn ác không thua phát xít và gian xảo hơn cả phát xít. Họ không công khai hành động cướp bóc mà gọi đấy là “cải tạo công thương nghiệp”, gọi những nhà tù của họ là “vùng kinh tế mới”, rồi khéo léo tiến hành trong một thời gian dài. Nhờ sự gian xảo, lãnh đạo cộng sản vẫn kéo dài được hơi tàn của chế độ đến ngày nay, trong khi nước Đức Quốc xã chỉ tồn tại được hơn bảy năm sau “Đêm Thủy tinh”.
Hội nghị Thành Đô và sự phản bội dân tộc
Gần 15 năm sau khi các chiến dịch X-1, X-2, X-3 được phát động, kinh tế Việt Nam ngày càng trì trệ. Đỗ Mười và những đồng chí của ông ta đã tiếp nhận một “hòn ngọc Viễn Đông” với những tiềm lực kinh tế từng giúp Việt Nam Cộng Hòa thịnh vượng, rồi họ tàn phá và hủy hoại nó một cách có hệ thống. Số tiền khổng lồ mà các cán bộ cộng sản cướp được từ dân miền Nam trong các đợt “đánh tư sản” cũng không giúp chế độ thoát khỏi cơn khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội vào đầu năm 1990, giữa làn sóng thoái trào của khối cộng sản quốc tế.
Có lẽ vì đã gây ra quá nhiều oan nghiệt, Đỗ Mười và những đồng sự không dám để chế độ cộng sản Việt Nam kết thúc như vậy. Lối thoát duy nhất của họ là sự viện trợ kinh tế từ Bắc Kinh. Hội nghị Thành Đô được tổ chức đầu tháng 9/1990 tại tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc đã mở ra giai đoạn Bắc thuộc mới trong lịch sử dân tộc. Từ đó đến nay, từng phần lãnh thổ, lãnh hải Việt Nam dần dần rời vào tay Trung Quốc, thông qua các hành động xâm chiếm công khai ở thác Bản Giốc, Ải Nam Quan hay Biển Đông, hoặc quá trình xây dựng ngấm ngầm những khu vực gần như “nội bất xuất, ngoại bất nhập”, như nhà máy thép Formosa (vỏ Đài Loan, ruột Trung Quốc) ở cảng Vũng Áng.
Có thông tin cho rằng các lãnh đạo cộng sản đã chấp nhận để nước Việt Nam từ từ trở thành một khu tự trị thuộc Trung Quốc trong vòng 30 năm (1990-2020). Đến giờ đó vẫn là thông tin chưa được kiểm chứng do Hoàn Cầu thời báo và Tân Hoa Xã lan truyền. Một số sĩ quan quân đội, công an và cựu đảng viên ở miền Bắc như thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, đại tá Nguyễn Đăng Quang đã yêu cầu lãnh đạo chế độ bạch hóa nội dung Hội nghị Thành Đô. Điều lạ thường là các lãnh đạo không thừa nhận, cũng không phủ nhận hay đính chính thông tin trên.
Dù mật ước Thành Đô về chuyện sáp nhập Việt Nam vào Trung Quốc có thật sự tồn tại hay không, Hội nghị Thành Đô vẫn là thất bại nặng nề trong lịch sử ngoại giao Việt Nam. Phía Việt Nam đã để Trung Quốc “gác lại quá khứ” (nghĩa là rũ bỏ luôn trách nhiệm bồi thường chiến tranh), thậm chí đã nhân nhượng đến mức loại Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch khỏi đoàn dự hội nghị, theo đúng yêu sách từ phía Trung Quốc. Đỗ Mười, Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng có trách nhiệm không thể chối cãi trong chuyện để Việt Nam gần như thuần phục trước Trung Quốc, từ vấn đề chủ quyền đến quan hệ kinh tế, xã hội.
Lãnh đạo của người Việt hay tay sai của Trung Quốc?
Trên danh nghĩa, Đỗ Mười là một cựu lãnh đạo cấp cao của nhà nước Việt Nam hiện tại, nhưng điều lạ là hầu hết các “thành tựu” trong sự nghiệp của ông ta lại phục vụ cho Trung Quốc nhiều hơn là Việt Nam. Các chiến dịch X-1, X-2, X-3 đã làm Sài Gòn và các tỉnh miền Nam nghèo đi một cách có hệ thống, góp phần dẫn đến tình trạng bất ổn chính trị, suy yếu kinh tế và xã hội bất an vào đầu năm 1990. Đỗ Mười và các đồng chí của ông ta đã làm nghèo đất nước và khi đất nước sa sút thì càng dễ rơi vào vòng thao túng của Trung Quốc.
Sau khi phá hoại các tiềm lực kinh tế tư nhân của đất nước, Đỗ Mười lại có mặt trong đoàn dự Hội nghị Thành Đô, rồi góp phần biến sự kiện này thành một vết ô nhục trong lịch sử Việt Nam. Cuộc đời Đỗ Mười là bằng chứng cho thấy công cuộc “giải phóng” của các lãnh đạo và quân đội cộng sản Bắc Việt đã giúp các lãnh đạo Trung Quốc từng bước hiện thực hóa dã tâm trói buộc và thôn tính Việt Nam, điều mà hàng chục đời vua Trung Quốc đã không làm được.
Có thông tin chưa được kiểm chứng cho biết thực tế Đỗ Mười chết gần như cùng lúc với Trần Đại Quang. Thông tin này đã râm ran trong dư luận “lề dân” mấy ngày nay, nhưng người đầu tiên nói với chúng tôi lại không phải ở phía đấu tranh dân chủ, mà là một đảng viên sống gần trung tâm Sài Gòn. Nếu đó là sự thật thì các đồng chí của Đỗ Mười đã lùi ngày chết của ông ta vì sợ trùng tang Chủ tịch nước, theo cái cách họ buộc ông Hồ phải chết “đúng quy trình”, kẻo trùng ngày Quốc khánh.
Đỗ Mười đã chết nhưng tội của ông ta chưa kết thúc. Nền kinh tế Sài Gòn sau những năm tháng bị hủy hoại, giờ vẫn chưa thể khôi phục danh hiệu “hòn ngọc Viễn Đông”. Các chiến dịch “học tập cải tạo” và “đánh tư sản” đã khiến hàng triệu người Việt phải tị nạn, có người bỏ xác ngoài khơi, nhiều người giờ vẫn chưa thể quay về quê hương. Nhiều gia đình tướng tá, quan chức cộng sản giờ vẫn sống yên ổn trong những khu đất, khu nhà họ cướp được từ người miền Nam.

Đỗ Mười, kẻ hủy hoại miền Nam