ĐCS Việt-Nô tứ bề thọ địch
20/06/2017
Bài toán chiếm trọn lãnh thổ VN mà không tốn một viên đạn nào đối với TQ thực sự đang là một viễn cảnh rất gần, nhưng dường như phần lớn người dân Việt đều không biết và biết nhưng không cần hoặc không dám quan tâm. Và có lẽ điều đáng sợ nhất là nhiều cán bộ Việt Nam cố tình lặng im tiếp tay cho TQ như một sự đồng tình miễn sao đem đến nguồn lợi cho cá nhân nhiều hơn là vì lợi ích lâu dài của đất nước.
Quốc nội bất mãn, hải ngoại khinh ghét, các quốc gia tiên tiến không còn thích thú, ngoại bang luôn lăm le chực hờ thôn tính… ĐCS Việt – Nô đang trong tình trạng tứ bề thọ địch và cô đơn hơn bao giờ hết.
***
Hơn bao giờ hết, ĐCS Việt-Nô mà đứng đầu là tên đảng trưởng Nguyễn Phú Trọng cùng Bộ chính trị trung ương đảng đã bị đặt vào tình thế rất là nguy ngập và cô đơn. Nguy ngập như thế nào và cô đơn như thế nào, người viết xin nêu một số vấn đề mà hầu hết (chứ phải 100%) người Việt Nam ở quốc nội lẫn hải ngoại đều nhận rõ ra được.
1- Đất nước lâm nguy theo tinh thần “Mật Nghị Thành Đô 1990” mà cựu Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Cựu Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười cùng cựu Thủ tướng Phạm Văn Đồng cố vấn Ban chấp hành trung ương đảng đại diện cho phía Việt Nam đã ký kết. Phía Trung Quốc có Giang Trạch Dân, cựu Tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc cùng với Lý Bằng, Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc.
– Trích từ Wikileaks:
“Vì sự tồn tại của sự nghiệp xây dựng Chủ Nghĩa Cộng Sản, đảng Cộng Sản và nhà nước Việt Nam đề nghị phía Trung Quốc giải quyết các mối bất đồng giữa hai nước. Phía Việt Nam sẽ cố hết sức mình để vun đắp tình hữu nghị lâu đời vốn có giữa hai đảng và nhân dân hai nước do Chủ tịch Mao Trạch Đông và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dày công xây đắp trong quá khứ. Và Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền Trung Ương tại Bắc Kinh, như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tân Cương, Tây Tạng, Quảng Tây”.
“Phía Trung Quốc đồng ý và chấp nhận đề nghị nói trên, và cho Việt Nam thời gian 30 năm (1990-2020) để đảng CSVN “giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc”. (1)
Đây là vấn đề được xem là cực kỳ nguy hiểm và rất quan trọng mà ĐCS Việt-Nô đã đã từng làm, bởi mất nước là mất tất cả, nó có thể nguy hiểm hơn cả việc cướp miền Nam năm 1975 vì đây được xem là những hành động phản quốc và bán nước, bán đứng cả dân tộc của ĐCS Việt – Nô, nếu nó không quan trọng thì BBC và vô số trang mạng, bài viết đã không đặt mối quan tâm lên hàng đầu trong nỗ lực báo động cho toàn dân Việt quốc nội lẫn hải ngoại cùng các quốc gia khắp thế giới. (2) Trong đó kể cả nhiều bài viết từ Dân Làm Báo với vô số ý kiến từ bạn đọc và còm sĩ, độc giả có thể tìm kiếm và đọc lại bất cứ lúc nào trên Google cho nên người viết không nói thêm ở đây.
2- Biển Đông và các đảo đã hoặc đang mất chủ quyền: Với sự tuyên bố ngang ngược của đảng và nhà nước Trung cộng về chủ quyền Biển Đông mà 90% diện tích South China Sea là lãnh hải của họ, đơn phương ra lệnh cấm đánh bắt cũng như đã và đang xây dựng nhiều căn cứ quân sự kiên cố và một số sân bay hiện đại.
Hãy tìm đọc các bằng chứng và xem hình ảnh của việc chiếm cứ và xây dựng ngay cả trên các báo chí VN. Thí dụ “Thực trạng 7 bãi đá Trung Quốc cải tạo ở Trường Sa qua ảnh vệ tinh” Thực trạng 7 bãi đá Trung Quốc cải tạo ở Trường Sa qua ảnh vệ tinh – VnExpress
Chuyện xâm lấn chủ quyền lâu năm này từ Trung cộng mà ĐCS Việt-Nô chỉ quan với ngại chứ chẳng dám có bất cứ thái độ cụ thể nào, ngay cả đưa vụ việc ra Tòa Án Quốc Tế. Chẳng những thế, bên cạnh việc im lặng, ĐCS và nhà cầm quyền Việt-Nô còn ký thêm nhiều Hiệp ước, Hiệp định song phương trên tinh thần bạc nhược để VN bị thiệt thòi rất nhiều. Thí dụ: Việt Nam đã mất hàng ngàn km vuông về đất liền và hàng chục ngàn km vuông về vịnh biển. Vấn đề lãnh thổ biên giới Việt Nam – Trung Quốc – Wikipedia tiếng Việt
Hoặc “Trung Quốc đơn phương cấm đánh bắt cá trên Biển Đông” Trung Quốc đơn phương cấm đánh bắt cá trên Biển Đông – VnExpress
3- ĐCSTQ đang chỉ đạo ĐCS Việt – Nô và Tàu cộng đang tràn lan khắp nơi: Hoàng Trung Hải, Đinh Thế Huynh, Tô Huy Rứa, Nguyễn Phú Trọng cùng nhiều tên tiềm ẩn khác mà Hồ Quang – Hồ Chí Minh là tên Tàu gốc Hẹ, đồ đệ của Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai là tên gián điệp đầu đàn gốc Tàu. “Con chim trước khi chết kêu tiếng đau thương, con người trước khi vĩnh viễn lìa cõi đời thường nói ra sự thật“. Chúng ta hãy nghe Vương Tinh Minh, y tá trưởng Bệnh viện Bắc Kinh, thành viên Tổ bác sĩ Trung Quốc sang Việt Nam chữa bệnh cho Hồ Chí Minh, tháng 8-1969. “Chiều hôm đó sức khỏe của Bác đã có chuyển biến tốt lên một chút, Bác nói muốn nghe một câu hát Trung Quốc. Các đồng chí đề nghị tôi hát. Tôi nói thật là hát cũng không tốt lắm, nhưng để vui lòng Bác, vì tình hữu nghị Trung-Việt, tôi đã hát một bài hát mà nhiều người thuộc và hát được, bài hát có nội dung chính là ra khơi xa phải vững tay chèo. Bác nghe xong rất vui, Bác nở nụ cười hiền từ. Bác nắm nhẹ tay tôi, tặng tôi một bông hoa biểu thị cảm ơn. Đó là lần thứ ba tôi thấy Bác cười. Và đó cũng là nụ cười cuối cùng của Người.” Trước Khi chết Hồ Tập Chương đòi nghe bài hát Tàu. Đây là một điểm trong nhiều điểm rất quan trọng và đáng chú ý bởi nếu Hồ Chí Minh thật sự là một người Việt thì y đã không có nhu cầu trong khoảnh khắc vô cùng quan trọng trong đời này vì ông bà, tổ tiên, dân tộc, đất nước hoặc chí ít là một đấng thiêng liêng nào đó mà suốt chiều dài cuộc sống người ta đã đặt niềm tin vào, tỷ như nhắc đến Chúa, Phật hoặc Allah để có lời van vái, cầu nguyện cuối cùng”.
Như nhiều người đã biết, hiện nay số lượng người Trung Hoa lục địa đang ở VN khá nhiều, con số ước đoán có thể trên nửa triệu. Họ đến VN qua các ngã du lịch, nhập lậu, dưới dạng đặc công trá hình là công nhân, côn an, quân đội, hay dạng kinh doanh và doanh nhân.
Các phố Tàu được mọc lên nhiều nơi như ở Bình Dương, Đà Nẵng, như Đông Đô đại phố, Formosa Vũng Áng, Bô-Xít Tây Nguyên, nhà máy giấy Lee & Man ở Hậu Giang (4), nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 4 với nhiều nguy cơ tai nạn phóng xạ, thép Cà Ná với nguy cơ Formosa 2.
Việc số thanh niên nam dưới dạng nhà nước Trung cộng ưu tiên di dân qua VN để lấy vợ mà con số có thể lên đến 5-10 triệu để hậu thuẫn cho kế hoạch Hán hóa một cách hợp pháp là chuyện không phải không thể xảy ra.
4- Kinh tế lụn bại và nợ công chồng chất: Từ một phần đất đã từng được ví như “Hòn Ngọc Viễn Đông” phát triển nhất nhì Đông Nam Á châu mà nay có nguy cơ phải chạy theo ngửi đít cả Lào và Campuchia. Từ nền kinh tế đã phát triển trước năm 1975 mà ngay cả Thủ tướng Lý Quang Diệu của Singapore cách đây 6 thập kỷ đã từng ước Singapore sẽ được như Sài Gòn, Lý Quang Diệu từng ước Singapore sẽ được như Sài Gòn – Dân Làm Báo
Một nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, nghĩa là vẫn lấy quốc doanh làn kinh tế chủ đạo thì ngay cả Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cũng đã công nhận “Nợ công nếu tính đủ theo Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã vượt trần chứ không chỉ sát trần. Người đứng đầu Chính phủ cũng cảnh báo đây là vấn đề cần suy nghĩ và nếu không chấm dứt thì sự sụp đổ nền tài khóa quốc gia là không thể tránh khỏi.”
Vận hành kinh tế trên nền tảng “mượn nợ để trả nợ” là một nền kinh tế bế tắc, sẽ dẫn đến khánh tận. Bên cạnh sự lụn bại này mà nguyên nhân chính là do vận hành kém, thiếu kiến thức và kinh nghiệm, cũng như sự thi đua nhau đục khoét ngân quỹ quốc gia của đám tham quan từ trung ương xuống tới tận địa phương.
5- Môi sinh đang bị tàn phá và chất độc tràn ngập: Khắp đất nước trải dài từ Bắc xuống Nam, nơi đâu môi trường thiên nhiên cũng bị tàn phá thê thảm. rừng núi, sông rạch và thậm chí ngay cả biển bị ô nhiễm cực nặng. Thí dụ: Thảm họa Formosa, nhiệt điện Tuy Phong, Lee & An…(7)
Bài toán chiếm trọn lãnh thổ VN mà không tốn một viên đạn nào đối với TQ thực sự đang là một viễn cảnh rất gần, nhưng dường như phần lớn người dân Việt đều không biết và biết nhưng không cần hoặc không dám quan tâm. Và có lẽ điều đáng sợ nhất là nhiều cán bộ Việt Nam cố tình lặng im tiếp tay cho TQ như một sự đồng tình miễn sao đem đến nguồn lợi cho cá nhân nhiều hơn là vì lợi ích lâu dài của đất nước. (7)
Ở Việt Nam hiện nay, không ai mà không biết đến vấn đề chất hóa học độc hại đã tràn ngập thị trường, những chất độc này phần lớn được tuồng sang từ Trung cộng dưới sự làm ngơ hoặc tiếp tay của Hải quan, côn an biên phòng và nay cả quân đội. Người dân Việt phải hàng ngày, hàng giờ hít thở, ăn uống lượng hóa chất độc hại này, từ đó mầm mống bệnh tật sẽ bùng phát mạnh trong hiện tại và tương lai.
6- Người yêu nước đang bị bắt bớ và bị theo dõi: Vấn đề những người đấu tranh, những cuộc xuống đường biểu tình phản đối những ngu sách từ đảng, nhà cầm quyền đã ngăn cấm, trấn áp, đánh đập và ngay cả bị vào tù trong những “phiên tòa Kăng-gu-ru” luôn mệnh danh là công khai nhưng người muốn tham dự thì lại bị cấm và bị cáo cùng Luật sư biện hộ luôn bị bịt miệng.
7- Thái độ lãnh đạm thờ ơ của số đông người Việt: Trước sự lộng hành của tà quyền cộng sản, chúng luôn củng cố quyền lực và cai trị bằng nòng súng nên người dân, số thì thờ ơ lãnh đạm mặc cho bạo quyền muốn làm gì thì làm, số thì bị bao trùm bởi sự sợ hãi, cho nên dẫu sống trong một chế độ, một xã hội đầy nghịch lý nhưng hầu hết ý chí đấu tranh của người dân đã bị thui chột. Đây là những nguyên nhân trầm trọng khiến đất nước không có Dân Chủ, người dân không có Nhân Quyền và phải đối mặt với nguy cơ nô lệ ngoại bang.
8- Sự thất bại của đảng cùng nhà nước VN về nhiều mặt: Như hầu hết người Việt ở quốc nội lẫn cả hải ngoại cũng đều biết rằng sau 42 năm dưới cái gọi là “thống nhất đất nước” để rồi tất cả qui về một mối, “một mối hận thù, một mối đau thương”. ĐCS đã làm cho đất nước tan tành, đạo lý suy đồi cùng cực, dân tình khốn đốn, nạn cướp đất, cướp nhà, nạn hạch hẹ nhũng nhiễu của giai cấp cai trị đã biến dân chúng thành khối dân oan khắp 3 miền Nam Trung Bắc. Kinh tế lụn bại, nợ nần chồng chất, cuộc sống đầy lo âu cho một tương lai mù mịt, không có gì gọi là hứa hẹn, trong khi cán bộ thì tham nhũng, mạnh ai nấy vơ vét cho riêng mình.
Một đất nước mà xuyên suốt 42 năm luôn mệnh danh là hòa bình mà lớp người vẫn lần lượt muốn sớm được thoát khỏi cái “Thiên đường XHCN” để được đến nhưng nơi mà nền kinh tế đang giẫy chết, đến xứ tư bản để được “bóc lột”. Một quê hương mà đa số mọi người chỉ muốn đi chứ không muốn ở thì nói chi đến phát triển và xây dựng.
9- Sự ngoảnh mặt của thế giới: Sau những biến cố xảy ra triền miên, chiến tranh phía Bắc, chiến tranh phía Tây, dân ồ ạt vượt biên, vượt biển, dân đi lao nô cùng khắp. Quan chức thì chỉ biết vơ vét cho đầy túi tham, mà túi tham thì không đáy, bỏ mặc dân tình đói nghèo, lang thang, không có sự trợ giúp của các chương trình an sinh xã hội. Cướp giựt, móc túi, tai nạn giao thông, lừa đảo, gian dối, ăn cắp ngay khi cả ra nước ngoài. Người VNCS dần dà đã bị các dân tộc khác “phát hiện” và khinh khi, từ đó họ không còn muốn quan tâm.
10- Dân chúng bất mãn tột cùng: Một đất nước mà nhà cầm quyền xem dân chúng là những kẻ “phản động”, là “Thế lực thù địch”, có những “Diễn biến hòa bình”, đảng và nhà nước luôn đề phòng vì bản thân chúng “luôn làm dữ nên lo xa”. Một cơ chế hung tàn, thối nát mà người dân luôn đợi chờ khi có cơ hội sẽ trả đũa… Một chế độ mà hầu hết dân chúng đều bất mãn thì sự cáo chung của nó là sự tất nhiên.
Điểm qua những vấn đề cốt lõi nêu trên, người viết không dựa trên nhận định bi quan hay bêu rêu, mà tất cả đều dựa trên sự thật, không dàn dựng, không đặt điều mà chỉ trưng dẫn những bằng chứng cụ thể đã và đang xảy ra.
Quốc nội bất mãn, hải ngoại khinh ghét, các quốc gia tiên tiến không còn thích thú, ngoại bang luôn lăm le chực hờ thôn tính… ĐCS Việt – Nô đang trong tình trạng tứ bề thọ địch và cô đơn hơn bao giờ hết.
______________________________________
Ghi chú: