Bắt lộ diện để hiện nguyên hình!
Bán Nguyệt San Tự Do Ngôn luận Số 201 (15-08-2014)
VRNs (17.08.2014) – Một trong những bài hát đáng khinh tởm nhất dưới chế độ CSVN là bài “Đảng đã cho ta mùa Xuân” của Phạm Tuyên, con trai ông Phạm Quỳnh, người đã bị Hồ Chí Minh giết chết cách tàn độc.
Xin ghi lại toàn văn để đồng bào thấy tất cả tính mỉa mai cùng tột của cái ca khúc xứng đáng đi vào lịch sử như một đối ảnh khốn khiếp của các thiên hùng ca Bình Ngô Đại Cáo, Hịch Tướng Sĩ…:
“Đảng đã cho ta một mùa Xuân đầy ước vọng. Một mùa xuân tươi tràn ánh sáng khắp nơi nơi. Đảng đã mang về tuổi Xuân cho nước non. Vang tiếng hát ca chứa chan niềm yêu đời. Bao năm khổ đau đất nước ta không mùa Xuân. Cuộc đời tăm tối chốn lao tù bao hờn căm. Vầng dương hé sáng khi khắp nơi ta có Đảng. Bóng tối lui dần tiếng chim vui hót vang. Và rồi từ đây ánh dương soi đời mới. Tiến theo cờ Đảng là thấy tương lai sáng tươi. Đảng đã cho ta cả mùa Xuân cả cuộc đời. Đảng truyền cho ta một niềm tin ở tương lai. Đảng đã đem lại tuổi Xuân cho nước non. Thế giới quanh ta ngân vang ngàn tiếng cười. Xua đi màn đêm chiến tranh gieo bao khổ đau. Cuộc đời từ nay sẽ sáng tươi như mùa Xuân. Vượt mọi gian khó ta tiến lên đi theo Đảng. Bóng tối lui dần tiếng chim vui hót vang. Bạn ơi mùa Xuân khắp nơi tươi đẹp quá. Khi lý tưởng Đảng rực sáng trong tim chúng ta”.
Không khó để thấy rằng hơn nửa thế kỷ qua, từ khi Hồ Chí Minh du nhập vào VN cái chủ thuyết, cái chế độ và cái chính đảng hết sức phi nhân bản và phản dân tộc nhưng lại trá hình dưới vỏ bọc “đấu tranh cho tự do độc lập”, “thủ tiêu cảnh áp bức bóc lột” và “xây dựng thế giới đại đồng” hòng mê hoặc quần chúng, thì thực tế hoàn toàn trái ngược với những gì diễn tả trong bài hát khốn nạn trên đây. Khắp nơi, người ta chỉ thấy một mùa xuân sau song sắt (của nhà tù lớn mang tên Cộng hòa XHCNVN). Mọi chốn, người ta chỉ thấy tuổi xuân con người bị đày đọa (do tâm trí bị đầu độc, do thể xác suy dinh dưỡng, do tương lai ra mịt mờ…), chỉ thấy tuổi xuân đất nước bị bầm dập (do văn hóa suy đồi, do đạo đức băng hoại, do môi trường nhiễm độc, do kinh tế tụt hậu, do chính trị hà khắc, do ngoại giao yếu hèn…). Khắp nơi, người ta chỉ thấy bóng tối của những cuộc chiến kinh hoàng do chính đảng CS gây ra chứ không ai khác. Mọi chốn, người ta chỉ thấy bóng tối của một tương lai vô định vì cái “lý tưởng” xã hội chủ nghĩa không tưởng lường gạt, vì cái nguy cơ rơi lại vào tròng nô lệ kẻ thù truyền kiếp bắc phương. Ta hãy nghe chính những người Cộng sản đã tạm mở mắt đang tố cáo thực trạng bi đát này:
“Từ nhiều năm nay, đảng CSVN dẫn dắt dân tộc đi theo đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mô hình Xô-viết, được coi là dựa trên chủ nghĩa Mác-Lênin. Công cuộc đổi mới gần ba nươi năm qua nhằm sửa chữa sai lầm về đường lối kinh tế nhưng chưa triệt để, trong khi vẫn giữ nguyên thể chế độc đảng toàn trị kìm hãm tự do, dân chủ và chia rẽ dân tộc. Đường lối sai cùng với bộ máy cầm quyền quan liêu, tha hóa tạo điều kiện cho sự lộng hành của các nhóm lợi ích bất chính gắn với tệ tham nhũng, đưa đất nước lâm vào khủng hoảng toàn diện, ngày càng tụt hậu so với nhiều nước xung quanh. Trong khi đó, giới lãnh đạo Trung Quốc (TQ) từ lâu đã theo đuổi mưu đồ đặt nước ta vào vị thế lệ thuộc, phục vụ lợi ích của TQ. Sau Hội nghị Thành Đô năm 1990 đến nay, VN đã có nhiều nhân nhượng trong quan hệ với TQ, phải trả giá đắt và càng nhân nhượng, TQ càng lấn tới. Gần đây, trong bối cảnh quốc tế phức tạp, TQ có nhiều hành vi leo thang mới trong mưu đồ xâm lược và bá chiếm Biển Đông, coi VN là mắt xích yếu nhất cần khuất phục trước tiên. Thực tế bóc trần cái gọi là “cùng chung ý thức hệ xã hội chủ nghĩa” chỉ là sự ngộ nhận và “4 tốt, 16 chữ” chỉ là để che đậy dã tâm bành trướng. Cho đến nay, thế lực bành trướng TQ đã đi được những bước quan trọng trong mưu đồ biến VN thành “chư hầu kiểu mới” của họ” (Trích Thư ngỏ ngày 28-07-2014 của 61 đảng viên gởi Ban Chấp hành TW và toàn thể đảng CSVN).
Quả là CSVN đã hiện nguyên hình như một chế độ bất công, bất nhân, bất lực và như một chính đảng áp bức, độc tài, hèn nhát, bạc nhược (hiện nguyên hình chứ không phải thoái hóa bản chất, vì bản chất của nó vốn đã xấu tự thân và ngay từ đầu, chỉ khéo che đậy và ngụy biện mà thôi).
Tuy nhiên, gần đây, nhiều dấu hiệu mới cho thấy việc hiện nguyên hình này của CSVN chưa phải là trọn vẹn và cả toàn dân cần phải buộc cho nó lộ diện hoàn toàn hầu dễ bề đối phó, không thì chết cả đám, tiêu vong cả dân tộc. Đó là trong cuộc họp thượng đỉnh tại Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên bên Tàu vào tháng 9-1990, giữa lãnh đạo hai đảng lẫn hai nhà nước (phía TQ là Giang Trạch Dân, TBT đảng và Lý Bằng, Thủ tướng Quốc vụ viện; phía VN là Nguyễn Văn Linh, TBT đảng, Đỗ Mười, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và Phạm Văn Đồng, Cố vấn), hai bên đã ký kết một văn bản mang tên “Kỷ yếu Hội nghị” để chính thức bình thường hóa quan hệ 2 nước (vốn đã trở thành thù địch sau các cuộc chiến biên giới năm 1979 rồi 1984) và cùng nhau thực hiện những thỏa thuận đạt được giữa lãnh đạo 2 nhà nước và 2 đảng. Cuộc gặp thượng đỉnh này cũng như nội dung các thỏa thuận lần ấy từ đó đến nay vẫn luôn nằm trong bí mật, chưa được chính thức công bố cho nhân dân VN lẫn TQ và cộng đồng quốc tế được biết! Gần đây, có nhiều đồn đoán trong nhân dân -phát xuất từ những tiết lộ của Tân Hoa xã, Hoàn Cầu Thời báo, Wikileaks- rằng tại Hội nghị Thành Đô ấy, đám chóp bu Ba Đình đã ngang nhiên đem giang sơn đất Việt mà bán cho Tàu qua cam kết: “VN bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc Kinh, như TQ đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây…” Đây là một tin sét đánh chấn động cả ngàn năm lịch sử Dân tộc và làm cho lòng dân Việt hôm nay hết sức hoang mang, sôi sục cũng như phẫn nộ.
Để biết thực hư vấn đề đó ra sao, chúng ta hãy nhìn lại bối cảnh của Hội nghị Thành Đô bấy giờ. Lúc ấy, hàng loạt các đảng CS và hệ thống XHCN -như quân bài domino- nối tiếp nhau tan rã và sụp đổ ở Đông Âu, vì mang mầm tự hủy trong bản chất của chúng. Mầm mống tự hủy này chính là chủ trương cai trị bằng bạo lực và dối trá, hai điều mà bản tính con người dị ứng một cách triệt để. Đầu tiên là Ba Lan (6-1989), tiếp theo là Hungari (10-1989), Đông Đức (11-1989), đoạn tới Tiệp Khắc (12-1989), Rumani (12-1989), rồi Bulgari (1-1990). Muộn hơn là Albani (3-1991), rồi Nam Tư (6-1991) và cuối cùng là Liên bang Xô viết (19-8-1991). Đặc biệt, những sự kiện dồn dập xảy ra tại sáu nước Đông Âu trong vòng không đầy một năm đã gây bồn chồn lo lắng, âu sầu sợ hãi cho TBT Nguyễn Văn Linh (kẻ từng rất tâm đầu ý hợp với lãnh tụ bị hành quyết của Rumani là Ceaucescu trong chuyện cứu vãn Xã hội chủ nghĩa) cũng như bộ sậu chóp bu Hà Nội.
Nắm bắt được tâm trạng hoảng hốt đó của lãnh đạo đảng và nhà nước VN, đồng thời biết chắc đám này sẵn sàng nhân nhượng tất cả để khôi phục quan hệ đảng và nhà nước với TQ nhằm có đồng minh và chỗ dựa trong việc bảo vệ đảng và chế độ, Trung Nam Hải quyết định hành động! Bắc Kinh thấy đây là cơ hội ngàn năm một thuở để đưa lãnh đạo đảng và nhà nước VN nằm trọn trong quỹ đạo phụ thuộc toàn diện vào mình, để từ đó tiến tới việc thôn tính mảnh đất phía nam mà cả ngàn năm, tổ tiên Hán tộc đã bao phen thất bại trong việc xâm lược. Và cơ quan Tàu cộng được giao thực hiện quỷ kế này chính là Hoa Nam Tình Báo, kẻ mà theo dư luận, đã tạo ra một Hồ Chí Minh giả để cai trị đất Việt. Hoa Nam Tình Báo đã chọn được ba con cờ đắc dụng: một Nguyễn Văn Linh ngây thơ khờ khạo, một Đỗ Mười ngu dốt háo danh và một Phạm Văn Đồng tay đã nhúng chàm việc dâng hai quần đảo tiền đồn của đất nước. Dĩ nhiên với đầu óc cuồng tín vào tình hữu nghị cộng đảng, với tâm địa khốn khiếp vô tổ quốc và vô đồng bào, với tham vọng điên khùng muốn thống trị mãi trên đất Việt (như chúng học từ chủ nghĩa CS do HCM giảng dạy), ba tên bán nước ấy đã sẵn sàng xóa đi ngàn năm kiêu hùng của Dân tộc, chà đạp xương máu của bao anh hùng liệt nữ, nhắm mắt trước cảnh đọa đày của các tộc Mông, Mãn, Hồi, Tạng. Việc chúng cùng đám đàn em giấu giếm nội dung những thỏa thuận sinh tử đối với đất nước ấy suốt 24 năm trời là bằng chứng chúng sợ nhân dân tuyên án là lũ phản quốc, một lũ phản quốc chưa từng có trong lịch sử dân tộc.
Nhưng dù chúng không công bố mật ước Thành Đô, nhân dân cũng thấy được những hậu quả và hệ luận từ đó. Chẳng hạn cuộc chiến tranh xâm lược của Tàu ở 6 tỉnh biên giới phía Bắc VN (1979) không còn được nhắc đến, thậm chí những hoạt động tưởng niệm và vinh danh các liệt sĩ hy sinh trong cuộc chiến này đều bị cấm cản! Biến cố xâm lược ấy cũng như việc Tàu dùng vũ lực đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa (1974) và đảo Gạc Ma ở Trường Sa (1988) không được tổng kết và đưa vào lịch sử và giáo khoa để giáo dục lòng yêu nước cho giới trẻ. Chẳng hạn những cuộc biểu tình yêu nước chống Tàu xâm phạm biển đảo, sát hại ngư dân ta đều bị đàn áp tàn bạo. Chẳng hạn việc cho phép Tàu thuê hàng trăm ngàn héc ta rừng đầu nguồn, rừng quốc phòng ở các tỉnh biên giới chiến lược phía Bắc với thời hạn lâu dài 50-70 năm. Chẳng hạn việc để cho Tàu đưa hàng ngàn công nhân đến Tây Nguyên, một yếu huyệt rất quan trọng về an ninh quốc phòng để thực hiện dự án bauxite đầy nghi ngờ và đáng tranh cãi. Chẳng hạn việc các công ty Tàu trúng đến 80-90% các gói thầu trọn gói EPC (thiết kế-mua sắm-xây dựng) trong các dự án về kinh tế-xã hội, đặc biệt là các dự án nhiệt điện, với hàng chục ngàn lao động phổ thông Tàu (có phép và không phép) thực hiện các dự án đó? Chẳng hạn việc thương nhân và doanh nghiệp Tàu tung hoành trên khắp lãnh thổ nước ta, lừa đảo nông dân, áp bức công nhân, lũng đoạn và phá hoại nền kinh tế đất nước một cách hết sức dễ dàng. Gần đây nhất là vụ Tàu ngang nhiên hạ đặt giàn khoan trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của VN mà Hà Nội vẫn không dám nhân cơ hội đó kiện TQ ra trước tòa án quốc tế như Philippin đã làm.
Do đó, đồn đoán của công luận về “đại họa mất nước năm 2020” do tay Tàu cộng và Việt cộng là phần nào có cơ sở. Nó buộc mọi con Hồng cháu Lạc phải đứng lên biểu tình rầm rộ, trước hết là đòi hỏi Ba Đình phải bạch hóa mọi chuyện ở Thành Đô, bắt chúng lộ diện đầy đủ để hiện trọn vẹn nguyên hình, tiếp đó là khóa tay bè lũ bán nước trước khi lũ cướp nước ập đến. Bằng không thì tiêu vong cả Dân tộc. Cứ ngó thảm cảnh dân Tây Tạng và Tân Cương hiện thời thì biết.
Ban Biên Tập Tự do ngôn luận