D-Day
“Chúng ta đang ở trong đêm trước của ngày mà mọi người sẽ nói tới rất lâu sau khi chúng ta không còn nữa.”
Trong cuốn phim “The Longest Day”, viên hạm trưởng của một khu trục hạm Hoa Kỳ (do Rod Steiger thủ diễn) đang trên đường đưa bộ binh sang Pháp qua eo biển Anh quốc đã nói với viên đại úy bộ binh như thế. Ông ta chỉ vào màn ảnh radar với hàng ngàn chấm sáng trên màn ảnh radar tại phòng chỉ huy trên tàu. Mỗi chấm là một con tàu trong đoàn tàu vượt eo biển Manche sang đất Pháp.
Viên hạm trưởng trong cuốn phim được dựng theo quyển sách cùng tên của nhà văn Cornelius Ryan không có tên, và câu nói có thể là do ông Cornelius đặt vào miệng nhân vật. Rất có thể ông ta còn sống đến vài chục năm nữa. Nhưng hàng ngàn người đang hiện diện trên các con tàu đó đã không nhìn thấy mặt trời lặn trong ngày hôm sau đó: “Ngày Dài nhất.”
Nhưng đúng như thế, hàng năm, đặc biệt là những năm tròn 5, 10, 15, …, thế giới lại nhắc đến ngày đó, ngày khởi đầu của giai đoạn kết thúc cuộc Thế chiến thứ hai.
Tại Normandy đang diễn ra những hoạt động kỷ niệm 75 năm ngày 6 tháng 6 năm 1944, với sự có mặt của hàng chục nguyên thủ quốc gia, vài trăm cựu chiến binh còn sống sót và hàng ngàn người trẻ, già ở tại địa phương và từ nhiều nước. Họ đến để vinh danh những người đã hy sinh, để nhớ, và để học về trong những một diễn biến quan trọng nhất của cuộc chiến tranh đã làm thay đổi thế giới trong thế kỷ 20.
Thế Chiến thứ II khai diễn năm 1939. Đến năm 1942, Đức Quốc xã gần như đã nắm chắc chiến thắng trong tay. Cờ chữ Vạn – swastsika, bay khắp Âu châu. Áo và Tiệp Khắc đã bị chiếm trước khi chiến tranh bắt đầu. Ba Lan đã được chia đôi giữa Đức và Nga từ năm 1939. Chưa đầy một năm, các quốc gia Tây Âu bắt đầu rơi rụng như những quả táo thối. Đan Mạch thất trận chỉ trong một ngày. Na Uy, lâu hơn: sáu tuần. Sau đó, vào tháng 5 và tháng 6, chỉ trong hai mươi bảy ngày, đoàn quân blitzkrieg của Hitler đã chiếm xong Hòa Lan, Bỉ, Luxembourg và Pháp, đẩy cả trăm ngàn binh sĩ Anh ra biển ở Dunkirk. Sau khi Pháp rơi vào tay Quốc xã, Âu châu chỉ còn có nước Anh, đơn độc. Nhưng trong khi các tướng lãnh Đức muốn xâm chiếm nước Anh, Hitler chờ đợi, nghĩ rằng người Anh sẽ đầu hàng. Để rồi đến tháng 12, với viện trợ của Hoa Kỳ, Anh bắt đầu hồi sức, chậm nhưng chắc.
Ý tưởng về một cuộc đổ bộ lên bờ biển Pháp không mới. Ngay sau khi những người lính Anh trở về từ Dunkirk, tháng 6 năm 1940, Churchill đã cam kết: “Chúng ta sẽ trở lại.”
Bức tường Đại Tây Dương
Mùa Thu năm 1941, Hitler ra lệnh cho các tướng lãnh của mình phải biến châu Âu thành một “lô cốt bất khả xâm phạm.”
Bờ biển nước Pháp, nằm trong vành đai bao quanh lô cốt đó.
Phe Đồng minh đã thử sức một lần, với cuộc đột kích lớn vào Dieppe tháng 8 năm 1942 và đã biết được người Đức đã củng cố bờ biển nước Pháp chắc chắn đến mức nào.
Đêm 18 tháng 8 năm 1942, hơn 6.050 bộ binh, 5000 binh sĩ Canada, 1.000 lính Anh và 50 Biệt động Hoa Kỳ từ bờ biển phía Nam của Anh quốc băng qua biển Manche. Họ được hỗ trợ bởi Trung đoàn Calgary của Lữ đoàn Thiết giáp Canada số 1 và một lực lượng mạnh của Hải quân và Không quân Hoàng gia.
Mục tiêu bao gồm chiếm và giữ một cảng lớn trong một thời gian ngắn, cả hai để chứng minh rằng điều đó là có thể và để thu thập thông tin tình báo. Sau khi rút lui, quân Đồng minh cũng muốn phá hủy tuyến phòng thủ ven biển, cấu trúc cảng và tất cả các tòa nhà chiến lược. Cuộc đột kích có thêm các mục tiêu làm tăng tinh thần của quân đội và thể hiện cam kết vững chắc của Vương quốc Anh trong việc mở một mặt trận phía tây ở châu Âu.
Hầu như tất cả các mục tiêu đó đều không đạt được. Hỏa lực yểm trợ của quân đồng minh đã không đủ và lực lượng đột kích phần lớn bị mắc kẹt trên bãi biển bởi các chướng ngại vật và hỏa lực của Đức. Chưa đầy 10 giờ sau cuộc đổ bộ đầu tiên, binh sĩ Đồng minh cuối cùng đã bị giết, được di tản hoặc bị bỏ lại phía sau để trở thành tù binh của Đức. Thất bại đẫm máu này đã cho thế giới thấy rằng một cuộc tiến quân vào Âu châu qua bờ biển Pháp không dễ. Tuy nhiên, cuộc đột kích cũng đã thu thập được một số thành công về mặt tình báo.
Trong số 6.086 người đổ bộ lên Dieppe, 3.623 (gần 60%) người đã hoặc là bị giết (900 người), bị thương hoặc bị bắt. Không quân Hoàng gia Anh mất 106 máy bay (ít nhất là 32 do hỏa lực phòng không hoặc tai nạn). Hải quân Hoàng gia mất 33 tàu đổ bộ và một khu trục hạm.
Thất bại tại Dieppe ảnh hưởng đến việc chuẩn bị cho cuộc đổ bộ Bắc Phi và cuộc đổ bộ Normandy sau đó.
Từ tháng 11 năm 1943, khi nắm được tin tức về các kế hoạch của Đồng minh cho một cuộc tấn công qua biển Manche, Adolf Hitler buộc Rommel phải hoàn thành gấp rút Bức tường Đại Tây Dương. Mặc dù không biết chính xác điểm sẽ là nơi quân Đồng minh chọn. Tuy không hẳn là một bức tường, đó là một một dãy thành lũy dài gần 5 ngàn cây số dọc theo bờ biển từ Pháp lên đến Na uy với các lô cốt bê tông dầy, công sự kiên cố, bãi mìn và các chướng ngại vật trên bãi biển và dưới nước.
Tháng 1 năm 1944, Đại tướng Dwight Eisenhower (Ike), được bổ nhiệm làm Tư lệnh Chiến dịch Overlord. Trong những tháng và tuần trước D-Day, quân Đồng minh đã thực hiện một chiến dịch lớn, tung ra những hoạt động và tin tức giả để khiến người Đức nghĩ rằng mục tiêu tấn công là Pas-de-Calais (điểm hẹp nhất giữa Anh và Pháp) thay vì Normandy. Ngoài ra, chiến dịch này cũng khiến người Đức tin rằng Na Uy và các địa điểm khác cũng có thể là mục tiêu xâm lược tiềm năng. Nhiều chiến thuật đã được sử dụng: quân trang, quân cụ giả; các gián điệp nhị trùng; và những thông tin liên lạc vô tuyến giả, thậm chí có cả một đội quân ma do tướng George Patton chỉ huy đóng quân trên đất Anh, đối diện với Pas-de-Calais.
Chiến dịch Overlord
Ngày D được Eisenhower chọn đầu tháng 6 để mở đầu chiến dịch, khi thủy triều cao vào lúc bình minh thuận lợi cho cuộc đổ bộ và đêm đầy trăng sao cho hoạt động thả quân dù. Ike đã định chọn ngày 5, nhưng thời tiết xấu đã khiến phải trì hoãn thêm 24 giờ.
Đến sáng ngày 5 tháng 6, sau khi được chuyên viên khí tượng cho hay thời tiết ngày hôm sau có thể sẽ khá hơn, Eisenhower bật đèn xanh cho Chiến dịch Overlord. Ông nói với các binh sĩ: “Các bạn đang sắp sửa bắt đầu cuộc Thập tự chinh vĩ đại, mà chúng ta đã nỗ lực trong nhiều tháng nay. Cả thế giới đang dõi mắt theo các bạn.”
Theo thứ tự thời gian, có ba giai đoạn của chiến dịch trong ngày khởi diễn đó: cuộc đổ bộ bằng đường không (tập trung ở Bãi Utah ở phía tây và Bãi Sword ở phía đông), các cuộc oanh kích bằng không quân và hải quân vào Bức tường Đại Tây Dương và cuộc đổ bộ đường biển trên năm bãi biển Utah, Omaha, Gold, Juno và Sword và tại Pointe du Hoc.
Vào đầu giờ ngày 6 tháng 6, những đội quân trên không đầu tiên đã đặt chân lên vùng đất Normandy: người Anh ở phía đông và người Mỹ ở phía tây.
Diễn tiến từng giờ của Ngày Dài nhất được nhà sử học, tác giả và cố vấn truyền hình nổi tiếng Gavin Mortimer kể lại dưới đây trên tạp chí mạng History Magazine của BBC.
00:00 Ngày D bắt đầu
Ngay sau nửa đêm ngày 6 tháng 6 năm 1944, kế hoạch xâm lược châu Âu bị Đức chiếm đóng – Chiến dịch Overlord – đã diễn ra. Điểm đến cho cuộc xâm lược trên biển lớn nhất trong lịch sử là Normandy ở miền bắc nước Pháp và nếu thành công, ‘D-Day’ (ngày đầu của chiến dịch) sẽ là khởi điểm của sự kết thúc của chế độ Đức Quốc xã.
00:15 Các người mở đường Hoa Kỳ đi đầu
Sau khi bay qua biển Manche, 120 binh sĩ của toán pathfinder (những chuyên viên đánh dẩu và dọn bãi) Hoa Kỳ đã nhảy vào Normandy. Dùng các tấm huỳnh quang và bộ phận phản tín hiệu radar, họ thắp sáng những DZ (Drop Zone, bãi thả) trên một khu vực rộng 50 dặm vuông của bán đảo Cotentin, nơi cuộc tấn công từ trên không của Sư đoàn dù 82 và Sư đoàn Dù 101 sẽ diễn ra.
Cách đó 50 dặm về phía đông, 60 Pathfinder Anh của Đại đội Dù Biệt lập 22 độc lập đang lơ lửng sắp tiếp đất, sẵn sàng để thực hiện một nhiệm vụ tương tự trên rìa phía đông của vùng xâm nhập. Họ có 30 phút để sử dụng đèn và máy phản hồi tín hiệu radar được gọi là Eureka, thiết lập ba DZ trước khi 4.255 binh sĩ của Sư đoàn Dù thứ 6 bắt đầu nhảy xuống Ranville, Merville, Trouffeville và Troarn.
00:31 Quân Anh chiếm giữ một số cầu
00:16, sáu tàu lượn Horsa đưa 180 binh sĩ bộ binh của Trung đoàn Khinh binh Oxfordshire and Buckinghamshire sà xuống gần hai cây cầu nhỏ bắc qua sông Orne (Cầu Ranville) và Kinh Caen (Cầu Bénouville) ở Normandy. Mục tiêu của họ là chiếm và giữ các cây cầu này cho đến khi quân tiếp viện đến. Trung úy Brotheridge chỉ huy Trung đội 25 trở thành người lính Đồng minh đầu tiên bỏ mình trong ngày D. Đến 0:31, họ chiếm xong các cây cầu.
01:15 Lực lượng trên không đến
Cuộc tấn công từ trên không chính của Mỹ bắt đầu với 6.600 binh sĩ Sư đoàn Dù 101 và 6.400 của Sư đoàn Dù 82 nhảy từ 882 máy bay xuống sáu bãi được các pathfinder đánh dấu
Mục tiêu của họ là chiếm giữ và bảo vệ các vị trí chiến lược quan trọng chống mọi cuộc phản công của Đức, giúp thiết giáp và bộ binh của quân Đồng minh chiếm được các vị trí trên năm bãi đổ bộ để tiến sâu vào đất liền.
Lính dù Mỹ đã được giao nhiệm vụ chiếm giữ Ste. Mère-Église và bảo vệ Bãi Utah. Họ chiếm xong Sainte-Mère-Église vào lúc 4 giờ sáng.
04:45 Tràn ngập pháo đài Merville
Lúc 00 giờ 50 phút, Tiểu đoàn 9 Nhảy Dù của Anh – một phần của cuộc tấn công của Sư đoàn 6 Dù, chạm đất, nhưng chỉ có 150 trong số 750 binh sĩ của tiểu đoàn đã đến được điểm hẹn đúng giờ. Nhiệm vụ của họ là phá hủy pháo đài Merville, một vị trí kiên cố của Đức với bốn khẩu đại bác 150mm có thể gây thương vong khủng khiếp trên Bãi Sword. Pháo đài này có 130 binh sĩ Đức, được bao quanh bởi hàng rào dây thép gai dày 15ft và một bãi mìn. Hai lính Anh đã phải bò gỡ mìn bằng tay để cho đồng đội tiến theo. Các lính Dù Anh phá được hai lỗ trong hàng rào kẽm gai để tấn công vào pháo đài. Họ chiếm được pháo đài sau một trận chiến ngắn ngủi nhưng dữ dội. Khi nhiệm vụ hoàn thành, lực lượng tấn công 150 người chỉ còn khoảng 65 đến 70 người đứng vững. Những người còn lại đã bị giết hoặc bị thương.
Khi trời hửng sáng, vùng biển từ cửa sông Seine đến bán đảo Cherbourg dầy đặc những con tàu. Hàng ngàn tàu chở người, phương tiện và trang bị, tiến về bờ biển. Trên trời, các máy bay của quân Đồng minh bắn phá các lô cốt dọc theo bờ biển Manche, các khẩu đại pháo trên các chiến hạm hải quân cũng lên tiếng phụ họa.
06:30 Người Mỹ tấn công
Hai bãi Utah và Omaha là trách nhiệm của lực lượng Mỹ. Lúc 6:30 sáng, quân đội Mỹ bắt đầu đến được bờ trên Bãi Utah, nằm xa nhất về phía tây trong số 5 bãi mục tiêu, và Bãi Omaha, cách đó vài dặm về phía đông. Những đợt sóng cao đến 2 mét và gió cấp 4 đã là các trợ thủ thiên nhiên cho quân phòng ngự Đức. Những người lính Đức được bảo vệ trong tám lô cốt kiên cố với súng 75mm hoặc lớn hơn và 35 công sự phòng thủ.
Do gặp luồng nước chảy xiết, 23.000 người thuộc Sư đoàn 4 Bộ binh Hoa Kỳ đổ bộ trật mục tiêu của họ gần 2.000 mét về phía nam. Họ đã nhanh chóng thiết lập một vị trí đầu cầu trên bãi Utah, nhưng tại Omaha, 34.000 người thuộc Sư đoàn 1 và 29 gặp hỏa lực tàn khốc khi họ tiếp bãi biển trong những sà lan nhỏ
07:25 Quân Anh lên đến bãi
Giờ H, giờ ấn định của đợt tấn công đầu tiên tấn công bãi biển đã diễn ra theo đúng kế hoạch trên các bãi Sword và Gold. Bãi Gold nằm giữa năm bãi đổ bộ và 25.000 binh sĩ của Sư đoàn 50 Anh được giao nhiệm vụ thiết lập một đầu cầu ở đó trước khi tiến sâu vào đất liền để chiếm thị trấn Bayeux và liên kết với quân Mỹ tại Omaha.
Các cuộc oanh kích của hải quân và không quân đã giúp Sư đoàn 50 lên được bờ với số thương vong tương đối ít, nhưng trên Bãi Sword – nơi nằm xa về phía đông nhất trong số năm bãi – Sư đoàn 3 của Anh đụng hỏa lực nặng nề trong khi thủy triều dâng cao làm hẹp đường tiến trên bãi biển và gây tắc nghẽn. Họ đã gặp phải súng máy và đạn pháo.
Cuộc kháng cự quyết liệt của Đức đã ngăn Sư đoàn 3 không đạt được mục tiêu ngày hôm đó của họ là đánh chiếm thành phố Caen.
07:45 Quân Canada lên Bãi Juno
Sư đoàn 3 Bộ binh Canada bắt đầu đổ bộ vào bãi biển Juno nhưng họ chậm tiến độ 10 phút vì gió mạnh đã thổi bay hạm đội 365 tàu của họ. Mục tiêu của người Canada là thiết lập một đầu cầu và liên kết với quân Anh trên Bãi Gold ở phía tây và bãi Sword ở phía đông. Nhưng sự chậm trễ đã khiến họ phải đổ bộ khi thủy triều cao hơn, thu hẹp chiều rộng của bãi biển.
Tàu đổ bộ bị đẩy vào các chướng ngại vật và mìn, và bảy trong số 29 xe tăng lội nước của họ bị chìm. Ba mươi phần trăm số tàu đổ bộ bị phá hủy và đến cuối ngày, 1.200 trong số 21.400 binh sĩ Canada đổ bộ lên Bãi Juno đã bị thương vong.
09:00 Adolf Hitler nhận được vài tin xấu đầu tiên
Trong nhiều giờ, Thống chế Gerd von Rundstedt, chỉ huy tối cao của Đức ở phía tây, đã xin phép Berlin chuyển hai Sư đoàn thiết giáp Panzer dự bị – Sư đoàn SS thứ 12 và Lehr – đến Normandy. Nhưng Đại tá Alfred Jodl, giám đốc hành quân, đã quả quyết rằng chỉ có Adolf Hitler mới quyết định được. Quốc trưởng đã đi ngủ lúc 04:00 giờ với lệnh không được đánh thức trước 09:00. Khi thức dậy tại nơi nghỉ ngơi trên núi ở Bavaria của mình, nhà lãnh đạo Đức Quốc xã được Jodl báo cáo tóm tắt về tình hình ở Normandy. Phản ứng ban đầu của ông ta là phấn khích, Hitler cho rằng các cuộc tấn công là hoạt động nghi binh trước cuộc đổ bộ thực sự ở Pas-de-Calais.
Nhưng tâm trạng của Hitler thay đổi khi ông ta biết thêm về cuộc đổ bộ của quân Đồng minh, ông ta hỏi Jodl: “Thế nào, đó có phải là cuộc xâm lăng không?”
Trong khi đó, Thống chế Erwin Rommel, chỉ huy của Tập đoàn quân B, đang nghỉ phép để về Đức thăm vợ và mãi đến 10:15 mới có người thông báo cho ông về cuộc đổ bộ.
10:00 đến 12:00 Phá vỡ bế tắc trên Bãi Omaha
Quân Đồng minh có những bước tiến vững chắc ở tất cả các bãi, ngoại trừ Omaha, nơi hàng trăm binh sĩ nằm chết và những người bị thương đang gặp nguy cơ chết đuối do thủy triều tới. Hai khu trục hạm đã tiếp cận phạm vi 1.100 mét của bờ biển và hạ gục hai khẩu 75mm của Pointe de la Percée, thủ phạm gây ra cuộc tàn sát.
Đại đội G, Trung đoàn Bộ binh 16 đã thành công trong việc tạo ra những khoảng trống trong hàng rào kẽm gai của Đức bằng bộc phá Bangalore. Sau khi một ổ súng máy của lính Đức bị diệt bằng lựu đạn, các binh sĩ Hoa Kỳ bắt đầu tiến ra khỏi bãi biển Omaha và hướng về làng Colleville-sur-Mer.
15:00 Cảng di động tiếp cận Normandy
Trên đường băng qua biển Manche là 400 bộ phận đầu tiên của hai bến cảng di động khổng lồ có mã danh là Mulberry. Một cảng trong số đó sẽ được lắp ráp ngoài khơi Bãi Omaha trước Colleville-sur-Mer và cảng thứ hai ở Bãi Gold trước thị trấn Arromanches. Được xây dựng bằng bê tông và thép, các cảng di động này sẽ giúp quân Đồng minh tiếp tế cho lực lượng xâm lược cho đến khi chiếm được một cảng trên bờ biển phía bắc nước Pháp.
15:30 Lính Đức bỏ vị trí
Heinrich Severloh và Trung úy Bernhard Frerking – hai người bảo vệ cuối cùng của lô cốt Wn62, từ đó quân Đức đã gây thương vong đáng kể cho kẻ thù – đã bỏ vị trí của họ ở Omaha khi người Mỹ đến gần. Severloh, người đã bắn khoảng 12.500 viên đạn với khẩu súng trường Karabiner 98k và khẩu súng máy MG 42, kể lại: “Tôi đã chạy từ miệng hố bom này đến miệng hố bom kia phía sau khu lô cốt của chúng tôi. Tôi đã đợi nhưng ông ta (Frerking) không đến.” Frerking bị bắn chết khi tìm đường trốn chạy, Severloh bị bắt tối hôm đó, sau đó anh bị gửi đến một trại tù binh ở Hoa Kỳ.
16:20 Chiến xa Đồng minh dập tắt cuộc phản công của Đức
Đội quân 16.242 người dày dạn của Sư đoàn Panzer số 21 chuẩn bị đánh phủ đầu lực lượng Anh đang thận trọng tiến vào nội địa. Tướng Erich Marcks tuyên bố, “Nếu chúng ta không thể ném người Anh xuống biển, chúng ta sẽ thua cuộc chiến.” Các chiếc Panzer tấn công từ hai cánh nhưng trong khi cánh bên tay phải leo lên dốc Biéville, cách bờ biển 3 dặm, họ đã lãnh đạn của các chiến xa Sherman ‘Firefly’ trang bị loại đại bác 17 pounder mới. Sáu chiếc Panzer bị hạ gục chỉ trong 15 phút. Cánh bên trái mất 10 trong số 35 xe tăng tại Periers trước khi rút về Lebissey. Vào buổi tối, những người lính Đức rút lui vượt qua các đội xe tăng trên đường đến Caen. Một số kiệt sức, những người khác say rượu. Một sĩ quan Panzer than “Chúng ta đã thua cuộc chiến này rồi.”
21:00 Tàu lượn bay vào để củng cố các thắng lợi của Đồng minh
Khi Ngày D sắp kết thúc, hai cuộc hành quân bằng tàu lượn được tiến hành để tăng viện và tiếp tế cho các đội quân dủ đã nhảy xuống Normandy 20 giờ trước đó. 176 tàu lượn của Chiến dịch Elmira hạ cánh ở đầu phía tây của bãi đáp trong sự vui mừng của lình Sư đoàn Dù 82 của Mỹ, trong khi về phía đông Chiến dịch Mallard đang được tiến hành. Trên hai bãi đáp phía đông bắc Caen, 249 tàu lượn đáp xuống để tăng viện cho Sư đoàn 6 Dù của Anh.
23:59 Ngày dài nhất kết thúc
Khi nửa đêm đến gần, 156.000 binh sĩ Đồng minh đã ở trên bờ, trên nước Pháp. Thương vong được ước tính là 10.000 người thiệt mạng, bị thương và mất tích trong chiến đấu, trong đó 6,603 người Mỹ, 2.700 người Anh và 946 người Canada. Ước tính thiệt hại của Đức trong khoảng từ 4.000 đến 9.000. Không một lực lượng tấn công nảo đã hoàn thành tất cả các mục tiêu trong ngày đầu tiên của họ, nhưng một đầu cầu đã được thành lập và các lực lượng Đức đã bị đẩy lùi. Quân Đồng minh đã giành được một trụ bám quan trọng ở tây bắc của Âu châu.
Khởi đầu của sự kết thúc
Cuộc xâm chiếm Normandy bắt đầu xoay chuyển tình hình cuộc chiến. Ngoài tác động của một đòn tâm lý đáng kể, nó cũng ngăn Hitler chuyển quân từ Pháp sang xây dựng Mặt trận phía đông chống lại bước tiến của Hồng quân Liên Xô.
Mùa xuân năm sau, vào ngày 8 tháng 5 năm 1945, quân Đồng minh chính thức chấp nhận việc đầu hàng vô điều kiện của Đức Quốc xã. Hitler đã tự sát một tuần trước đó, ngày 30 tháng Tư.
Đỗ Quân
(sưu tầm và tổng hợp)