Cuộc Hôn Nhân Lý Tưởng giữa nền Chính Trị Cộng Hòa và nền Kinh Tế Tư Bản Hoa Kỳ (Một góc nhìn)

Cac Bai Khac

No sub-categories

Cuộc Hôn Nhân Lý Tưởng giữa nền Chính Trị Cộng Hòa và nền Kinh Tế Tư Bản Hoa Kỳ (Một góc nhìn)

LỜI MỞ ĐẦU

Vì không phải là một sử gia và kinh tế gia chuyên nghiệp, người viết chỉ muốn đưa ra một góc nhìn khách quan về sự tương quan mật thiết ngẫu nhiên hay có chủ đích giữa nền Chính trị Cộng hòa và nền kinh tế Tư bản Hoa Kỳ hiện nay, người viết xin quí vị người đọc thông cảm, nếu cần xin điều chỉnh và bổ túc. Người viết xin thành tâm lãnh hội và cám ơn.

Qua những học hỏi và nghiên cứu sách vở ở Đại học Hoa Kỳ cùng những trải nghiệm thực tế trong 6 năm như một du sinh học bổng về kinh tế học và 40 năm sinh sống tại Hoa Kỳ, người viết chỉ có chủ đích trình bày một cách hết sức trung thực sự tương quan mật thiết lý tưởng, hay như một cuộc hôn nhân lý tưởng, hạnh phúc và bền bỉ giữa nền chính trị Cộng hòa và nền kinh tế Tư bản Hoa Kỳ từ ngày lập quốc 1776 cho tới nay 2020 trải dài 244 năm.

Cuộc hôn nhân này là ngẫu nhiên hay có chủ đích bởi các nhà lập quốc Hoa Kỳ ngay từ ngày lập quốc 1776 và đã mang lại những gì cho người dân Koa Kỳ trên bình diện vật chất cũng như tinh thần sau đây.

A.Những Ân sủng từ Tạo hóa.

1/ Mọi người sinh ra đều bình đẳng. Dù mang những màu da khác nhau, trắng, đen, vàng, nâu và đỏ, từ lúc lọt lòng mẹ, mọi cá nhân đều yếu đuối, bất lực và phải nhờ vào dòng sữa mẹ rồi thực phẩm để tồn tại và khôn lớn.

Mọi người sinh ra trừ những trường hợp bệnh tật bẩm sinh, đều giống nhau với một bộ nảo, một trái tim, một lá gan, 2 lá phổi, hai mắt hai tay và hai chân ..v..v…

Không cá nhân nào biết trong tương lai mình sẽ là gì. Tạo hóa không chọn lựa và chỉ định cá nhân này sẽ là tổng thống hay thường dân, người tự do hay nô lệ, người nổi danh hay hèn mọn và người này sẽ là bác sĩ, người kia là kỹ sư, người này giàu kếch sù, người kia đói khát rách rưới . Cũng không một sắc dân nào là con trời hay siêu việt và thông minh hơn sắc dân khác.

2/ Tạo hóa cho mỗi cá nhân món quà Tự do.

Khi tạo ra con người, Tạo hóa ban tặng cho mỗi cá nhân quyền Tự do tuyệt đối, tự quyết định cuộc sống và mưu cầu hạnh phúc cá nhân mà không cá nhân nào hay một mô thức tổ chức xã hội (Model of social Organization) nào có quyền tước đoạt quyền tự do thiên định này. Mỗi cá nhân có quyền tự do bất khả xâm phạm trong mọi lãnh vực như quyền sống, tư tưởng, tín ngưởng, lập hội, di chuyển, lao động, kinh doanh và mưu cầu hạnh phúc cá nhân ..v…v..

3/ Quyền tư hữu do sức lao động thể lực hay trí lực.

Theo giáo lý Thiên Chúa giáo, ông tổ của nhân loại là Adam và Evà (Adam and Eva) được Thiên Chúa (Tạo hóa) cho sống tự do trong Thiên đàng có đầy đủ trái cây hoa trái và lương thực không phải lao động để sinh sống. Chỉ có một cây quả gọi là “Cây trái cấm” không được hái ăn. Bà Evà bị con rắn (ma quỷ) cám dổ nói nếu Adam ăn quả này sẽ có quyền năng như Thiên Chúa. Bà Evà nghe theo lời cám dỗ hái một quả đưa cho chồng ăn. Đang ăn giữa chừng Thiên Chúa bắt gặp nên cả hai ông bà bị đuổi ra khỏi địa đàng và Chúa phán từ nay ông bà phải tự lao động để sinh tồn. Tội bất tuân lời Chúa được gọi là tội Tổ Tông mà Chúa Giêsu, ngôi hai Thiên Chúa giáng trần làm người chịu chết trên thập giá để chuộc tội cho loài người, con cái của Adam và Evà.

Theo truyền thuyết dân gian một cục u nhô ra ở giữa cuống họng người đàn ông đó là trái cấm chưa nuốt xuống hết. Như vậy lao động là một giáo lệnh của Thiên Chúa.

Trong cuộc sống thực tế, tư hữu là kết quả của sức lao động cá nhân mà không một ai hay một tổ chức xã hội nào có quyền tước đoạt. Đó là một sự công bằng tuyệt đối. Một cá nhân bỏ sức lao động, mồ hôi và có khi cả nước mắt khai quang và trồng trọt hoa trái một mảnh đất thiên nhiên trên một hoang đảo, thì họ là chủ nhân và hưởng toàn thể kết quả trên mảnh đất đó. Đó là quyền tư hữu không một ai hay một tổ chức nào nhân danh tập thể mà được quyền chiếm đoạt. Cá nhân hiện diện trước tổ chức xã hội ra đời. Tổ chức xã hội chỉ là phương tiện chứ không phải là chủ và đứng trên con người.

B.Christopher Columbus và vùng Đất Mới Mỹ Châu.

Christopher Columbus, tiếng Ý là Cristoforo Colombo và tiếng Tây Ba Nha là Crístobal Colón, 1451 – 1506. Ông Columbus sinh tại thành phố Genois, Tây Ba Nha (Spain) là một nhà hàng hải (Navigator) và người khám phá (discoverer) ra thế giới mới Mỹ Châu.

Ông được sự bảo trợ từ Vua Cardinan V và nữ hoàng Isabella của Tây Ba Nha cho dự án đi thuyền buồm theo hướng Tây nhằm sang Á đông (Orient). Ông rời thành phố Palos tháng 3, 1492 với ba thuyền buồm Pinta, Nina và Santa Maria và tới Bahamas tháng 10, 1492, sau đó tới Cuba và Haiti trước khi trở về Tây Ba Nha tháng 10, 1493.

Cuộc du hành thuyền buồm thứ 2 đưa ông tới Lesser Lentilles, Puerto Rico và Jamaica thuộc vịnh Caribé. Cuộc du hành thứ ba 1498 – 1500 đưa ông tới Trinidad và bờ biển Venezuela. Cuộc du hành thứ 4, 1502 – 1504 đưa ông tới vùng duyên hải Trung Mỹ gồm Panama và Mexico.

Như vậy Columbus đã khám phá ra các quốc gia nằm trong vịnh Caribé chứ không khám phá ra Bắc Mỹ gồm Hoa Kỳ và Gia Nả Đại.

Tóm lại, ông Columbus là ân nhân vĩ đại của các quốc gia Châu Mỹ (American Continent) gồm Bắc Mỹ có Hoa Kỳ và Gia Nả Đại, Trung Mỹ có Panama và Mexico, và Nam Mỹ có 17 quốc gia như Venezuela, Columbia, Brazil, Peru, Chilé ..v..v..và một vài đảo quốc nhỏ trong vịnh Caribé như Cuba và Dominican Republic ..v..v.. Thật rất tiếc, một số người trong nhóm cấp tiến thiên tả “Black lives matter” và Antifa gần đây đã vô ơn đập phá bức tượng vinh danh và tưởng nhớ công ơn Ông.

C.Giáo quyền (thần quyền) và Thế quyền.

Trên thế giới hiện nay chỉ có ba tôn giáo tin vào một đấng Tạo hóa (The Creator) hay một Thiên Chúa (The God), đó là Thiên Chúa giáo (Christian), Hồi giáo (Islam) và Do Thái giáo (Judaism). Phật giáo (Budhism) không phải là một tôn giáo mà chỉ là một triết lý sống (A philosophy of life) hay một lối sống (A way of life) vì không tin vào một đấng Tạo hóa hay một Thiên Chúa nào cả. Đức phật (Budha) cũng chỉ là một con người đã tu đắc đạo thành Phật, đưa ra một con đường sống cứu khổ cho nhân loại.

Trong bài này người viết chỉ đề cập tới Thiên Chúa giáo (Christianity) vì liên hệ tới sự thành lập nền chính trị Cộng hòa (Republic) và nền kinh tế Tư bản Hoa Kỳ (Capitalism).

1/Thiên Chúa giáo (Christianity).

Thiên Chúa giáo xuất hiện khoảng 30 năm trước Công nguyên (30 A.D) khi các tông đồ của Chúa Giêsu nhận quyền năng từ Thiên Chúa, Ngôi Ba, tức Chúa Thánh Thần (The Holly Spirit) đi rao giảng sự phục sinh (Resurrection) và những lời rao giảng của Chúa Giêsu Kyto (Jesus Christ). Chúa Jesus cho rằng nước Do Thái là vương quốc (The Kingdom of God) của Thiên Chúa và là trọng tâm của những bài rao giảng rằng Thiên Chúa hiện hữu ở bất cứ nơi nào con người có tình yêu thương (Love) mà Thiên Chúa đang tìm kiếm liên hệ tình thương yêu với họ. Sự liên hệ tìm kiếm yêu thương này là cái giá Ngài phải trả bằng cái chết trên thập tự bởi những người phủ nhận lời rao giảng tình yêu thương này.

Sự tương quan tình yêu thương giữa Thiên Chúa và con người được truyền đạt qua thời gian và không gian và các môn đệ (tông đồ) cảm nhận được tình yêu thương này giữa họ với Ngài và dẫu bị gián đoạn bởi cái chết của Ngài trên thập giá, nhưng được hồi phục bởi sự sống lại (Resurrection) của Ngài.

Một trong những môn đệ có ảnh hưởng nhất là Phaolồ (Paul), là sáng lập viên của Thần học Thiên Chúa giáo (Christian Theology) và những cuộc du hành thuyết giáo của ông xác quyết Thiên Chúa giáo không phải là một giáo phái chi nhánh của người Do Thái.

2/ Giáo hội Công giáo La mã (The Roman Catholic Church).

Giáo hội Công giáo La mã phát triển mạnh về giáo quyền và chính trị (thế quyền) trong thời đế chế La mã (Roman Empire) thế kỷ IV sau công nguyên và thống trị Tây Âu trong suốt thời kỳ Trung cổ (Middle Ages). Tông đồ được Chúa Giêsu tin cậy và thương yêu nhất là Peter (tiếng Pháp là Pierre, có nghỉa là viên đá) và như trong Tân Ước ghi chép lại Chúa Giêsu đã xác quyết xây dựng Hội thánh Ngài trên viên đá này, ám chỉ Peter (Pierre) là người được chỉ định sáng lập Giáo hội Công giáo La mã tiên khởi.

Hai tông đồ thân tín nhất của Chúa Giêsu là Phêrô (Peter – Pierre) và Phaolồ (Paul) đi rao giảng lời Chúa khắp vùng Âu Châu một thời gian rất lâu và cuối cùng hai vị này bị sát hại bởi nhóm người ngoại giáo chống đối.

Tín lý của Giáo hội Công giáo dựa trên nền tảng đức tin tuyệt đối Thiên Chúa ba Ngôi, Ngôi Cha, Ngôi Con (Jesus Christ) và Ngôi Ba Thánh thần (The Holy Spirit) và có 7 phép bí tích như Rửa tội (Baptism), Thêm sức (Reconformation), Rước Mình Máu Thánh Chúa (Communion) ..v..v..

Giáo hội Công giáo La mã tin vào sự “không thể sai lầm” (Infallibility) của vị Giáo hoàng, đại diện Hội thánh, có hỏa ngục, đức Mẹ vô nhiểm nguyên tội và đồng trinh ..v..v… Các hàng giáo phẩm trong hội thánh phải sống độc thân.

Giáo hội Công giáo La mã phát triển mạnh bắt đầu từ giữa thế kỷ XV với vài trăm triệu tín hữu rải rác trên khắp năm châu với hàng trăm quốc gia. Ở Tây Ba Nha, 85% dân số là Công giáo La mã. Ở các quốc gia khác có khoảng 30% dân số như Ireland, Luxembourg, Belgium, Germany, Austria, France, Poland, Italy v..v… theo Công giáo La mã.

Giáo hội Công giáo La mã cũng đã trải qua những trang sử đen tối qua việc can thiệp, cấu kết và lủng loạn thế quyền và đã tham dự vào nhiều cuộc thánh chiến với Hồi giáo, gây ra biết bao chết chóc đau thương.

3/ Giáo hội Chính thống giáo phương Đông (The Eastern Orthodox Church).

Giáo hội Chính thống Phương đông cũng là một phần của Thiên Chúa giáo và tách khỏi Giáo hội Công giáo La mã năm 1054 vì không chấp nhận quyền lực của vị Giáo Hoàng La mã. Chính thống giáo cũng tin vào Chúa Giêsu, Chúa Ngôi hai xuống thế cứu chuộc nhân loại và những lời rao giảng của Ngài về tình thương yêu của Thiên Chúa đối với con người. Chính thống giáo có rất nhiều nghi thức thờ phượng Thiên Chúa như Công giáo La mã.

Tôma (Thomas) một môn đồ của Chúa Giêsu đi rao giảng lời Chúa ở Phương Đông và lập ra Giáo hội Chính thống phương Đông. Chính thống giáo phát triển mạnh tại các quốc gia phương Đông, nhất là Trung Đông như Ai Cập, Thổ Nhỉ Kỳ, và cả ở Nga nữa. Đại đa số người Nga theo chính thống giáo. Các giáo phái Chính thống giáo đều độc lập tại các quốc gia khác nhau..

Đứng đầu hàng giáo phẩm là các vị Giáo chủ có quyền lập gia đình, mang mũ nĩ và trang phục phần lớn màu đen sặc sở không khác gì các vị Giáo hoàng Công giáo La mã thường mặc trang phục màu trắng.

4/ Giáo hội Tin Lành (Protestant Churches)

Vào khỏang giữa thế kỷ XVI dưới ánh sáng tư tưởng cải cách của nhà thần học người Pháp John Calvin (Jean Cauvin, 1509-1564) và nhất là trước đó, nhà thần học người Đức Martin Luther 1483-1546. Martin Luther là một linh mục công giáo tu dòng thánh Augustin 1507. Martin Luther công kích quyền lực giáo hoàng La mã vì vậy ông bị rút phép thông công (loại trừ (excommunion) ra khỏi Giáo hội Công giáo La mã. Protestants có nghĩa là những người chống đối (To protest) và từ tư tưởng của Ông, Giáo hội Lutheran Church ra đời.

Ngoài ra cũng khoảng giữa thế kỷ XVI, một phong trào phản kháng rầm rộ đối với giáo hội Công giáo La mã dưới ánh sáng của các tư tưởng cấp tiến như Khai sáng (Enlightment), Cảỉ cách (Reformation), Duy lý luận (Rationalism), chủ nghĩa Tự do (Liberalism) và Cách mạng (Revolution) bị đả phá. Ảnh hưởng bởi các chủ trương trên, các giáo phái Tin lành tách khỏi Giáo hội Công giáo La mã như Anglica Church ở Anh quốc, Baptist, Congregationlist, Evangelical, Lutheran, Methodist, Reformed và Presbyterian.

D.Cuộc di dân từ Âu Châu.

1/ Bối cảnh tổng quát.

Vì những can thiệp và thao túng của giáo quyền Công giáo La mã vào thế quyền do các vua chúa cai trị tại khắp các quốc gia Âu Châu gây ra những hành động kỳ thị và áp chế tôn giáo (Religious persecutions), bất công, tham nhủng và lạm quyền, người dân theo đạo Tin lành thuộc mọi hệ phái ngày càng trở nên bất mãn và phản kháng.

Phần đông dân chúng theo Tin lành cảm thấy bị ức hiếp và bị đối xử bất công. Họ thuộc thành phần trung lưu năng động, chiụ khó và cầu tiến, muốn có một cuộc sống vật chất thăng tiến và một môi trường sống tự do, thoải mái hơn, nên không ngần ngại từ bỏ quê hương đi tìm một vùng đất mới hứa hẹn hơn.

Chiếc tàu di dân đầu tiên “Mayflower” 1620 chở di dân từ Anh quốc theo đường biển Thái bình dương mà Christopher Columbus đã chỉ dẩn chỡ nhiều ngàn người di dân cập bến Nửu Ước phía đông Hoa Kỳ vào giữa thế kỷ XVI và sau đó nhiều cuộc di dân từ Âu Châu tiếp tục tìm tới thế giới mới.

Tại các quốc gia có đội thương thuyền hùng mạnh của chính quyền hay tư nhân như Anh quốc, Pháp quốc, Tây Ba Nha và Bồ Đào Nha, các quốc gia này bắt đầu tham dự và tổ chức các cuộc di dân một phần vì muốn giảm bớt áp lực dân số, phần khác tìm kiếm nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào và nuôi ý định chính sách thuộc địa sau này tại vùng đất mới.

Phần đông các di dân Anh quốc sang định cư tại các vùng đất miền Bắc như New York, Pensylvania, Maryland, Virginia, New Jersey, New Hampshire .v..v..

Di dân Pháp sang định cư tại phía Nam vùng Lousiana và vùng Montreal-Quebec thuộc Gia Nả Đại. Di dân Tây Ba Nha định cư ở Trung Mỹ gồm Panama và Mexico và hầu hết các quốc gia Nam Mỹ ngoại trừ Brazil do người Bồ Đào Nha định cư nên là quốc gia duy nhất ở Nam Mỹ dùng tiếng Bồ Đào Nha. Di dân Tây Ba Nha cũng có mặt tại Florida. Tại vùng đất mới này, người dân vẫn giữ liên lạc chặt chẻ chính trị và kinh tế với mẫu quốc. Do đó chính quyền mẫu quốc ngày càng ảnh hưởng và thâm nhập sâu vào sinh hoạt chính trị địa phương để rồi sau cùng biến vùng đất mới thành những thuộc địa trong nhiều thập niên.

2/ Thành lập Hiệp Chủng quốc Hoa Kỳ (The United States of America – USA)

a.Bối cảnh.

Nền Cộng hòa Liên Bang năm 1776 có diện tích khoảng 3,618.770 dậm vuông với dân số khoảng 2.5 triệu người với các sắc dân da trắng, da đen Phi châu, bộ lạc da đỏ Mullato, người Trung hoa, người Đông Nam Á và người Phi Luật Tân. Ngôn ngữ là Anh ngữ và một số ngôn ngữ thuộc nhóm thiểu số và di dân.

Về tôn giáo 51% dân số là Tin lành của 30 giáo phái chính, 22% là Công giáo La mã, 3% là Do thái, 2% là Chính thống giáo.

Các thuộc địa phát triển mạnh và ngày càng trở nên phồn thịnh. Nền kinh tế căn bản tựa vào nông nghiệp, đặc biệt là các tiểu bang miền Nam nơi mà các đồn điền thuốc lá và bông goòng sử dụng dân nô lệ từ Phi Châu, và các thổ dân da đỏ bị đuổi về vùng phía Tây.

Sự phát triển và phồn vinh tại các thuộc địa ngày càng quyến rủ người dân từ Âu Châu sang định cư tại các thuộc địa, một phần vì muốn tìm một cuộc sống mới sung túc và tự do hơn, một phần vì chạy trốn những bức chế tôn giáo đối với người theo đạo Tin lành tại mẫu quốc vào thập niên 1770.

Các thuộc địa (13 tiểu bang nguyên thủy) ngày càng gia tăng quyền tự quyết của họ và sau những cuộc chiến tranh hằng chục năm chống lại các mẫu quốc thực dân và với cuộc chiến tranh Cách mạng thành công. 13 tiểu bang nguyên thủy chấp thuận bản Tuyên Ngôn Độc Lập (Declaration of Independence) ngày 4 tháng 7, 1776.

Các tiểu bang nguyên thủy này họp lại dưới danh xưng Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ theo những điều khoản Liên Bang 1781 và đến năm 1789 được thay thế bằng bản Hiến pháp (Constitution) cho chính quyền trung ương nhiều quyền hành hơn. George Washington là nhà lảnh đạo của các thuộc địa trong cuộc chiến tranh dành độc lập và trở thành vị tổng thống đầu tiên của Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ (USA) 1789 – 1797 theo Hiến pháp.

b.Mở rộng lãnh thổ – Tài nguyên thiên nhiên và Phát triển Kinh tế.

•Mở rộng lãnh thổ

Sự phát triển và phồn thịnh nơi vùng đất mới thời kỳ mới di dân và trong thời gian trở thành thuộc địa trải dài trên một thế kỷ 1620 – 1776 tức từ năm chiếc tàu di dân đầu tiên từ Âu Châu cập bến New York cho tới ngày lập quốc đã quyến rủ không biết bao nhiêu di dân từ khắp Âu Châu sang lập nghiệp ở vùng đất mới. Bốn dòng di dân chính đến từ bốn quốc gia là Anh quốc, Pháp quốc, Tây Ba Nha và Bồ Đào Nha vì những quốc gia này hồi đó có đội thương thuyền hùng mạnh.

Miền Đông Hoa Kỳ ngày trở thành đông dân, đất đai bắt đầu khan hiếm về cư ngụ và phát triển kinh doanh. Người di dân thuộc giáo phái Thiên Chúa giáo Tin lành từ Âu Châu rất năng động và cầu tiến, chiụ khó lao động, có tinh thần tự lập, thích khám phá và liều lỉnh để làm giàu. Họ quan niệm sự giàu có là biểu hiệu thành đạt trong xã hội nên họ rất hảnh diện và tự hào.

Một phong trào di dân ồ ạt tìm đất mới về phía Tây sau dãy núi Appalachian chạy dài 1500 dặm từ St.Laurence, Gia Nả Đại phía Bắc xuống tận bang Alabama phía Nam. Đàng sau dãy núi này là một đồng bằng rộng lớn gồm rất nhiều tiểu bang như Iowa, Missouri, Nebraska, Kansas, Colorado, Oklahoma v..v…

Cửa ngỏ sang vùng đất mới phía Tây là tiểu bang Missouri, và hiện nay tại thành phố St Louis, bang Missouri có xây một vòng cung rất cao trên bờ sông Mississipi tượng trưng cho cửa ngỏ sang vùng phía Tây.

Cuộc sống di dân ở vùng đất mới phía Tây rất náo nhiệt và xô bồ, bắn giết và trộm cướp xẩy ra như cơm bửa. Đó là một cuộc sống hoang dã trong một giải đất rộng mênh mông. Đó là hình ảnh chúng ta nhìn thấy trong các cuốn phim “Cowboys” với đàn bò từng mấy ngàn con đi xuyên bang do tài tử John Wayne đóng vai chính. Những cuộc phục kích bắn giết giữa người lập nghiệp da trắng (White settlers) và người thổ dân da đỏ. Cuộc đi tìm vàng (Gold Rush) 1849 ở California cũng lôi kéo hàng triệu người từ miền Đông sang Tây.

Tại các vùng đất mới, người định cư dần dần tổ chức cơ sở hành chánh, trật tự .v..v.. trở thành tiểu bang rồi xin gia nhập liên bang. Các tiểu bang ngoài đất liền có Alaska mua từ Nga Sô năm 1867 và Hawaii sát nhập vào Hoa Kỳ năm 1895, và là tiểu bang cuối cùng gia nhập Liên Bang. Ngày nay Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ có 50 tiểu bang, và nhiều vùng đất và đảo nhỏ nằm dưới quyền bảo hộ của Hoa Kỳ. Về diện tích đất đai, Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, nếu người viết không lầm đứng thứ 5 sau Trung Cộng, Nga, Ấn Độ và Úc Châu.

•Tài nguyên thiên nhiên

Mẹ thiên nhiên ưu đải ban cho Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ một nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng hơn bất cứ quốc gia nào trên thế giới. Hoa Kỳ có tất cả các loại quặng mỏ lớn nhỏ như sắt, thép, đồng, chì, than đá, dầu hỏa, khí đốt, uranium, đất hiếm, vàng, bạc v..v.. Hoa Kỳ có rừng vàng như ở bang Oregon với Washington và biển bạc bao bọc tứ phía. Phía Bắc có Ngũ hồ rộng mênh mông. Phía Nam có vịnh Caribé. Phía Đông có Đại Tây Dương và phía Tây có Thái Bình Dương. Hoa Kỳ đứng hàng thứ 4 trên thế giới về xuất cảng hải sản hàng năm.

•Phát triển kinh tế.

Về công kỷ nghệ, Hoa Kỳ giữ vai trò số một trên thế giới hiện nay, đặc biệt các ngành kỷ nghệ có kỷ thuật cao (high-tech industries) Tài hóa kinh tế đủ loại lan tràn trên thị trường tự do, không bao giờ khan hiếm lâu. Hoa Kỳ cũng đứng đầu thế giới về Nông nghiệp, sản xuất tất cả các loại nông phẩm như gạo, đậu nành, ngô khoai, lúa mì, các loại rau xanh và hoa trái. Hiện nay Hoa Kỳ chỉ có 10% dân số sống về nghề nông không những cung ứng thực phẩm cho toàn nước Mỹ mà còn xuất cảng và viện trợ cho các quốc gia nghèo trên khắp thế giới. Thực phẩm dư thừa hàng năm tại Hoa Kỳ có thể nuôi sống một quốc gia nhỏ ở Phi Châu cả năm.

Về dịch vụ tư cũng như công, Hoa Kỳ cũng đứng hàng đầu thế giới như nhà thương, đường sá, cầu cống, thương cảng, sân bay, ngân hàng, bảo hiểm, chuyên chỡ đường hàng không và đường thủy, điện nước và khí đốt. Vì vậy mà Hoa Kỳ là cuờng quốc số một về kinh tế trong cả thế kỷ qua. Mẹ thiên nhiên còn ban tặng cho Hoa Kỳ một khí hậu lý tưởng cho nông nghiệp, nằm trong vùng khí hậu ôn đới, mưa nắng điều hòa, không mấy khắc khe.

Hẵn nhiên Hoa Kỳ cũng có những thiên tai như động đất, cháy rừng, và lụt lội nhưng không quá khắc nghiệt.

c.George Washington, 1732 – 1799.

George Washington, vị tổng thống đầu tiên của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ 1789 – 1797, được gọi là “Cha già Dân tộc” (Father of His Country)

Tổng thống Washington có kinh nghiệm quân sự trong cuộc chiến chống Pháp và người da đỏ, 1754 – 1763, ông cũng là một chủ nông bang Virginia và nhà lảnh đạo chống lại chính sách thuộc địa Anh quốc. Trong cuộc chiến tranh cách mạng, ông được bầu là Tổng chỉ huy (Commander-In-Chief), đạo quân liên bang năm 1776.

Sau chiến thắng tại Yorktown, 1781, ông chủ tọa Đại hội Hiến pháp Liên bang (Federal Constitutional Convention) và giữ vai trò chính yếu trong việc chấp thuận Hiến pháp Hoa Kỳ. Ông Washington được toàn thể bầu chọn là tổng thống và thiết lập một chính quyền liên bang không đảng phái (Non-partisan) được dân chúng nội địa và quốc tế kính trọng.

Chính sách liên bang và sự trung lập của ông trong cuộc cách mạng Pháp năm 1789 đã gây ra sự chống đối của nhóm Jeffersonians (Thomas Jefferson, 1801-1809) tổng thống thứ ba, đảng tịch Democratic-Republican dẫn đến việc thành lập đảng Cộng hòa, sau này đổi thành đảng Dân chủ.

d.Đảng Dân chủ (The Democratic Party).

Đảng Dân chủ trước đây là đảng Cộng hòa, là một trong hai chính đảng của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Nguồn gốc cổ truyền (traditional origins) của đảng Dân chủ liên quan tới chính sách chống đối của ông Thomas Jefferson nói ở trên tác giả bản Hiến pháp Hoa Kỳ.

Jefferson chống đối chính quyền liên bang của tổng thống Washington, ủng hộ quyền lực tiểu bang và các quyền lợi của giới công nhân và tiểu nông. Đảng giữ tên Dân chủ cho tới ngày nay. Jefferson thiết lập và tổ chức đảng trong nhiệm kỳ tổng thống Andrew Jackson, 1829 – 1837 đảng tịch Dân chủ, tổng thống thứ bảy của Hoa Kỳ.

Năm 1854, đảng Dân chủ phân tán vì vấn đề nô lệ và liên kết với miền Nam chủ trương sở hữu nô lệ cho tới khi bị đánh bại bởi tổng thống Abraham Linlcon 1861 – 65, tổng thống Cộng hòa đầu tiên và là thứ 16 Hoa Kỳ.

e.Đảng Cộng hòa (The Republican Party).

Đảng Cộng hòa là đảng Dân chủ trước đây, là một trong hai chính đảng của Liên hiệp Chủng quốc Hoa Kỳ. Đảng Cộng hòa được thành lập 1854 bởi những nhóm chống nạn nô lệ nhờ chiêu dụ được nhiều thành phần thuộc nhóm “Whigs, Free soilers, và No-nothings” chống đối nạn nô lệ.

Đảng Cộng hòa nhanh chóng tạo được quyền lực ở miền Bắc Hoa Kỳ và tổ chức đại hội đầu tiên 1856. Abraham Linlcon trở thành tổng thống Cộng hòa đầu tiên 1861, và chấm dứt chế độ sở hữu nô lệ.

E.Cuộc Hôn nhân (Liên kết) lý tưởng giữa nền Chính trị Cộng hòa và nền kinh tế Tư bản Hoa Kỳ.

1/ Bối cảnh.

Vào thế kỷ XVIII Âu châu nói chung và Anh quốc nói riêng có nền công kỷ nghệ và thương mại phát triển mạnh dựa trên chủ thuyết mại bản (mercantilism) và bảo hộ (protectionism).

Sau này cuộc cách mạng kỷ nghệ (Industrial Revolution) 1848 tại Anh quốc càng làm quốc gia này phát triển kỷ nghệ mạnh hơn với nhiều sáng chế kỷ thuật như máy chạy bằng hơi nước .v..v..

Trong thế kỷ này, có rất nhiều luồng tư tưởng kinh tế đề cập tới mọi hoạt động kinh tế trong xã hội. Có nhiều kinh tế gia (Economists), triết gia kinh tế (Economic Philosophers) và tư tưởng gia kinh tế (Economic Thinkers) xuất hiện, phần lớn từ Âu châu, đặc biệt từ Anh và Đức quốc vì hai quốc gia này thời đó có nền kinh tế khá phát triển.

James Mill, George Marshall, và David Ricardo với bài khảo luận về “Nguyên lý Tiền tệ và Thuế má” (Theory of Money and Taxation), David Ricardo cũng là người sáng lập ra trường phái kinh tế cổ điển (The classical School of Economics). Còn phải kễ tới Thomas Robert Mathus 1766 -1834 người Anh với bài khảo luận nổi tiếng về Dân số (Essay on the Principle of Population). Theo Malthus thực phẩm tăng theo cấp số Cộng, dân số tăng theo cấp số Nhân do đó nhân loại sẽ gặp nạn nhân mãn (Over- population).

Adam Smith (1723 – 1790) cũng trong thế kỷ này là một kinh tế gia nổi tiếng người Tô Cách Lan. Ông đúc kết và hệ thống hóa các tư tưởng kinh tế đơn lẻ đương thời trong tác phẩm nổi tiếng “Sự giàu có của các quốc gia” (Wealth of Nations) xuất bản năm 1776 và từ cuốn sách này chủ thuyết Tư bản ra đời (The Capitalist Economy).

2/ Nền kinh tế Tư bản và nền Chính trị Cộng hòa Hoa Kỳ.

Chủ thuyết Tư bản và nền kinh tế Tư bản Hoa Kỳ tựa trên ba nền tảng: Bình đẳng, Tự do và Tư hữu, là ba món quà (hồng ân hay ơn huệ) mà Tạo hóa (Thượng đế) ban cho con người như trong Thánh kinh Thiên Chúa giáo. Con người sinh ra đều bình đẳng, có tự do và phải lao động tạo ra tư hữu.

Các nhà lập quốc Hiệp Chủng quốc Hoa Kỳ phần lớn là các tín hữu Thiên Chúa giáo Tin lành đã được nuôi dưỡng, đào tạo và thấm nhuần tín lý Thiên Chúa giáo Tin lành, nên không lạ gì các Ngài đã nhắc đến Thiên Chúa (Under God) 4 lần trong bản Hiến pháp Hoa Kỳ. Các Ngài cũng đặt tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa đối với quốc gia Hoa Kỳ (Xin đọc Live free or Dead – Sean Hannity). Trong tiền giấy đô la Mỹ cũng in chữ “Chúng tôi tin vào Thiên Chúa” (In God we trust).

 

 

Như vậy chúng ta có thể kết luận với bản Hiến pháp tuyệt vời ghi rõ các quyền thiên định bất khả xâm phạm “Bình đẳng, Tự do và Tư hữu” cũng là những nền tảng mà nền kinh tế tư bản chủ trương, và ông Adam Smith là người đại diện. Các nhà lập quốc Hoa Kỳ đã có chủ đích thiết lập sự liên kết (hôn nhân) không phải ngẩu nhiên, giữa nền chính trị Cộng hòa và nền kinh tế Tư bản Hoa kỳ.

Cũng xin nói thêm, với ba nền tảng nói trên, Adam Smith, đại diện cho chủ thuyết kinh tế Tư bản, chủ trương chính sách “Bất can thiệp” (non – interference) hay “không nhúng tay vào” (Hand-off) của chính quyền vào nền kinh tế. Nền kinh tế Tư bản phải bảo đảm tự do cạnh tranh, xí nghiệp tư nhân, không có xí nghiệp quốc doanh. Mọi hoạt động kinh tế do cơ chế thị trường (Market Mechalism) với luật cung cầu hướng dẫn và điều chỉnh. Ông cho rằng chính sách bất can thiệp của chính quyền vào nền kinh tế là phương thức tốt và hữu hiệu nhất để tạo ra sự giàu có và hạnh phúc tối đa.

Ông cũng chủ trương để cho cá nhân tự do làm giàu, và như vậy quốc gia cũng trở nên giàu có. Theo các tín hữu Thiên Chúa giáo Tin lành làm giàu không phải là một tội lỗi hay cái gì xấu mà đó là kết quả thành công trong xã hội. Giáo hội Công giáo La mã không khuyến khích làm giàu vì cho rằng sự giàu có dễ đưa đến cuộc sống sa đọa và tội lỗi. Sự khác biệt giữa hai quan điểm trên cho thấy, trong thực tế, các quốc gia theo tín lý Thiên Chúa giáo Tin lành thường giàu có và thịnh vượng hơn các quốc gia theo tín lý Công giáo La mã. Nhìn vào Hoa Kỳ và các quốc gia Nam Mỹ thì thấy rõ.

F.Thành quả của Cuộc Hôn nhân.

Hiệp Chủng quốc Hoa Kỳ là một quốc gia rất non trẻ, chỉ mới có 244 năm tuổi, so với các quốc gia khác trên mặt địa cầu, tiếp tục đứng vững và phát triển. Đặc biệt trong thế kỷ qua đã phát triển và phồn thịnh phi thường để trở thành cường quốc số một, tương đối ổn định về chính trị, phát triển vượt bực về kinh tế và quân sự trên thế giới.

1/ Trên bình diện Chính trị và Xã hội.

Ngoại trừ cuộc nội chiến Nam-Bắc về chế độ nô lệ, phân biệt chủng tộc và những cuộc nổi loạn đơn lẻ địa phương vì nhiều động cơ khác nhau, chính quyền hai đảng Cộng hòa và Dân chủ lần lượt thay đổi, nhưng luôn luôn cộng tác và sát cánh nhau tìm giải pháp giải quyết, tuy rằng những phương thức giải quyết có thể khác nhau, nhưng tựu trung đều vượt qua và mang lại ổn định và an toàn. Về nhân quyền, người viết xin khỏi bàn tới, vì quý vị đang trải nghiệm hiện nay.

2/ Trên Bình diện kinh tế.

Người viết cũng xin khỏi dài dòng. Đại đa số quý vị đang được hưởng những tiện ích vật chất và tinh thần thoải mái. Tài hóa kinh tế và dịch vụ với phẩm chất cao lan tràn trên thị trường tự do. Lương thực đủ loại không bao giờ thiếu.

Rất nhiều người, đủ mọi thành phần xã hội thực hiện được “Giấc mơ Mỹ” (American Dream). Trên thế giới có giấc mơ nào đâu!

Đâu có quốc gia nào trên thế giới mà một gia đình có hai hay ba chiếc xe hơi chạy trên mạng lưới xa lộ sạch sẽ và rộng thênh thang trên khắp nước Mỹ, còn biết bao nhiêu điều tốt đẹp khác người viết không thể kể tới mà quý vị cũng đang chứng kiến và trài nghiệm.

Một điểm rất quan trọng nữa không thể không nêu ra là các công ty cá nhân, liên hiệp hay cổ phần trong nền kinh tế tư bản Hoa Kỳ đã được dân chủ hóa, nghĩa là tài sản của các công ty này, do hàng ngàn cá nhân làm chủ qua việc mua các cổ phần (stocks) trong mỗi công ty. Không một công ty nào lớn hay nhỏ, khi muốn phát triển mà không phải bán cổ phần để gây vốn thêm. Phần lớn các cá nhân chủ công ty chỉ sở hữu khoảng 50% tổng số tài sản, còn lại 50% thuộc quyền sở hữu của các cổ đông cá nhân (stockholders). Đây là một điểm son của nền kinh tế tư bản Hoa Kỳ mà Karl Marx không tiên đoán trước được.

Ngoài ra, trong các nền kinh tế tư bản tự do ngày nay, các nghiệp đoàn lao động mọi ngành được tự do thành lập và bảo đảm theo luật pháp. Các công nhân nghiệp đoàn được bảo vệ về lương bổng, bảo hiểm và môi trường làm việc qua các khế ước mà các nghiệp đoàn lao động thương thảo và ký kết với các sở hữu chủ công ty.

Đây là một nhược điểm trong lý luận của Karl Marx về nền kinh tế tư bản. Karl Marx đã quên rằng nền kinh tế và chính trị của một quốc gia, theo thời gian phải luôn luôn biến chuyển theo trào lưu tư tưởng của con người để thích ứng và tồn tại. Khi có ức hiếp và bất công quá đáng trong xã hội, tất nhiên sẽ có sự phản kháng của một cá nhân hay một nhóm người xuất hiện để đòi hỏi sự sửa sai. Đó là trường hợp các nghiệp đoàn công nhân xuất hiện. Các nghiệp đoàn công nhân ngày nay rất mạnh về chính trị cũng như kinh tế. Hãy nhìn vào nước Pháp hiện nay, Tổng liên đoàn lao công Pháp có thể làm tê liệt nền kinh tế Pháp bằng một cuộc tổng đình công và đôi khi có thể lật đổ một nội các.

3/ Trên Bình diện Quân sự.

Người viết không dám “múa rìu qua mắt thợ”. Quý vị chắc biết nhiều hơn người viết về lảnh vực này. Hoa Kỳ là cường quốc quân sự số một trên thế giới hiện nay với hải, lục không quân và không gian với nhiều võ khí tối tân.

4/ Trên Bình diện Ngoại giao.

Hoa Kỳ luôn luôn được các quốc gia khắp trên địa cầu kính nể. Các quốc gia nghèo khắp năm châu được Hoa Kỳ giúp đỡ khi gạp hoạn nạn. Rất nhiều các chương trình phúc lợi y tế .v..v…được các tổ chức thiện nguyện và từ thiện giúp đỡ. Các quốc gia đồng minh được Hoa Kỳ viên trợ và bảo vệ tối đa. Công dân Hoa Kỳ đi đến đâu cũng được chào đón và kính nể. Không một ai trên thế giới mà không mơ ước được trở thành công dân Hoa Kỳ và được sinh sống tại đây.

G.Chủ mưu phá hoại cuộc Hôn nhân.

1/ Ý thức hệ Cộng sản

Karl Marx (1813–1883) người Đức, Engels (1820-1895) đồng tác giả bản “Tuyên ngôn Cộng sản” (The Communist Manifesto-1884). Marx viết riêng cuốn sách nổi tiếng “Tư bản luận” (Das Capital-1867) đả kích kịch liệt học thuyết kinh tế tư bản vì những bất công xã hội do nền kinh tế tư bản tạo ra.

Có hai điểm của Marx mà người viết muốn đề cập tới ở đây.

a.Giá trị thặng dư (Surplus Value).

Ở Anh quốc vào năm 1848 cuộc Cách mạng kỷ nghệ bùng nổ (Industrial Revolution). Các xí nghiệp kỷ nghệ mọc lên như nấm nhờ các phát triển kỷ thuật sản xuất như máy hơi nước và các phát minh khác thuộc mọi ngành.

Các doanh nhân, lúc đó phần lớn là kinh doanh dưới hình thức cá nhân (sole proprietor), gia đình hay hùn hiệp (partnership). Nhằm gia tăng doanh lợi tối đa, đương nhiên có một số doanh nhân thiếu lương tâm, bất kể đạo lý, và nhân tính đã bóc lột công nhân tàn nhẩn bằng cách trả mức lương rẻ mạt, môi trường làm việc tồi tệ thiếu vệ sinh. Công nhân không có bảo hiểm thất nghiệp cũng như bảo hiểm nghề nghiệp khi có tai nạn xảy ra trong lúc làm việc .v..v…

Công nhân không được phép lập nghiệp đoàn hay đình công. Nói tóm lại công nhân hồi đó gặp đủ mọi ức hiếp và khó khăn mà lại không được chính quyền bảo vệ. Chính quyền thường đứng về phía doanh nhân.

Xã hội luôn luôn biến đổi (to evolve) không đứng yên tại chỗ. Khi bị ức hiếp cùng cực, tức có phản kháng do những nhóm người nào đó ý thức được quyền lợi và trách vụ. Họ sẽ đứng lên tranh đấu. Theo người viết Karl Marx không nhận thức được điều này. Và điều này đang xảy ra. Đó là các nghiệp đoàn lao động hiện nay, lực lượng đối kháng rất mạnh về kinh tế và chính trị trong các quốc gia kỷ nghệ như Nghiệp đoàn Lao động và kỷ nghệ Hoa Kỳ (American Federation of Labor – Congress of Industrial Organizations AFL-CIO) hay Tổng Liên đoàn Lao công của Pháp.

Ngày nay giá trị thặng dư do sự bóc lột nhân công không còn nữa vì công nhân được các nghiệp đoàn bảo vệ qua các khế ước lương bổng.

b.Làm theo Khả năng, hưởng theo Nhu cầu.

Đây là lời hứa viển vông và ảo tưởng mà Marx hứa trong một thế giới cộng đồng (The World Community) hay một thiên đàng ảo tưởng (Utopia) trong đó mọi người là anh em yêu thương nhau, bình đẳng không có giai cấp và cũng sẽ không có chính quyền cai trị trong tương lai. Karl Marx đề cập tới chủ nghĩa Cộng sản trong tác phẩm Tư bản luận của ông.

 

 

Thật là phi lý và bất công một bác sĩ và một công nhân làm việc mà lại được hưởng phúc lợi như nhau, tùy theo nhu cầu của mỗi người mà nhu cầu là vô hạn, không bao giờ thỏa mản nỗi, hơn nữa làm sao có đủ tài nguyên thiên nhiên để sản xuất các tài hóa kinh tế và dịch vụ tiêu thụ để thỏa mãn mọi người.

Thật là một cái bánh vẻ hấp dẩn mà các bạo chúa như Lênin, Stalin, Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh, cùng với viêc lợi dụng lòng yêu nước mốn thoát khỏi chế độ thuộc địa của người dân đã đẻ ra chủ nghĩa và nhà nước Cộng sản để cai trị và nô lệ hóa toàn dân. Đây là những bạo chúa tàn ác ngụp lặn trong quyền lực thống trị.

2/ Xã hội Chủ nghĩa (Socialism).

Ý thức hệ và chính quyền cộng sản từ cái nôi của nó Nga Sô Viết rồi các quốc gia Bắc Âu, Trung quốc và Việt Nam kéo dài cả gần thế kỷ qua đã phá sản và sụp đỗ hoàn toàn nên phải lột xác khoác lấy cái áo mới “Xã hội Chủ nghĩa” để sống còn, vì đã không mang lại cơm no áo ấm và hạnh phúc cho nhân dân.

Một nhóm chính trị gia tham quyền núp dưới bóng một đảng phái chính trị độc tài tham quyền để tồn tại buộc phải nới lỏng 13ong cùm xiềng xích trói cổ nhân dân bằng cách nới lỏng sự kiểm soát cuộc sống của nhân dân trên bình diện chính trị và kinh tế. Sự nới lỏng chính trị như cho thiết lập các nghiệp đoàn quốc doanh, đảng phái tay sai, giáo hội quốc doanh v…v… Sự nới lỏng kinh tế như kinh doanh tư nhân với cơ chế thị trường theo luật cung cầu, nhưng quốc doanh vẫn giữ vai trò chủ đạo núp dưới cái áo “Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” ở Việt Nam hay “Kinh tế Tư bản nhà nước” như ở Trung quốc.

H.Đảng phái, Cá nhân, Giới truyền thông thổ tả và nhóm tài phiệt Mafia và thuyết Âm mưu trong chính trường Hoa Kỳ.

1/ Đảng Dân chủ (The Democratic Party).

Trước hết chúng ta phải tìm hiểu ý thức hệ Dân chủ (Democracy) là gì? Dân chủ được hiểu phổ quát là Người Dân là Chủ, tự quyết định sinh mạng và cuộc sống của mình, vì không thể sống đơn lẻ, độc lập và tự lập nên phải tham gia vảo một tổ chức xã hội dân sự đẻ tồn tại trong đó mỗi thành viên có quyền lợi và trách nhiệm.

Qua kinh nghiệm thực tế, phương thức tổ chức một xã hội dân sự tốt đẹp và hữu hiệu nhất để bảo vệ các quyền thiên định “Bình đẳng, Tự do, Tự hữu” là người dân được trực tiếp và tự do chọn và bầu người đại diện xứng đáng cho mình để điều hành tổ chức xã hội dân sự theo quy luật “Đa số thắng Thiểu số và Thiểu số phục tùng Đa số”, là quy luật hợp lý và công bằng nhất.

Đảng dân chủ với danh xưng trên phải tuyệt đối tuân theo. Quy luật này đã được áp dụng và tuân thủ trong suốt lịch sử chính trị Hoa Kỳ cho tới gần đây, 2016.

Chỉ một số nhỏ các chính trị gia đảng viên đảng Dân chủ như thượng nghị sĩ, dân biểu liên bang và tiểu bang, thống đốc tiểu bang và thị trưởng thành phố cấp tiến thiên tả v..v.. vì quyền lợi cá 14 nhân, tiền và quyền lực, hay đảng phái, đang tâm muốn xóa bỏ nền chính trị Cộng hòa và nền kinh tế Tư bản Hoa Kỳ trong đó họ đã có quá nhiều ưu đãi về quyền lợi, nhưng họ vẫn chưa thỏa mãn. Họ muốn còn có nhiều tiền và quyền lưc hơn nữa trong mô thức xã hội chủ nghĩa. Bọn này muốn kiểm soát và nô lệ hóa nhân dân hơn nữa.

2/ Các cá nhân mưu toan phá hoại trong đảng Dân chủ.

Thật đáng buồn, sau chính quyền Cộng hòa do Tổng thống Ronald Reagan lãnh đạo xuất sắc, chính quyền Cộng hòa Bush cha và Bush con bất tài và nhu nhược hoặc quá bận bịu với hai cuộc chiến tranh ở Trung Đông, Iraq và Afganistan nhằm chiếm đoạt các mỏ dầu hỏa to lớn thủ lợi cho đế chế gia đình dầu hỏa, nên để Hoa Kỳ ngày càng yếu kém về kinh tế và quân sự so với Trung quốc đang trổi dậy vượt bực.

Xui hơn nữa, chính quyền Dân chủ Bill Clinton và Barack Obama trong suốt 16 năm cầm quyền, vì quyền lợi cá nhân hay đảng phái, đã ăn nằm với Trung quốc âm mưu phá nền chính trị Cộng hòa và nền kinh tế Tư bản Hoa Kỳ để trở thành mô thức chính trị và kinh tế xã hội chủ nghĩa dưới trướng xã hội chủ nghĩa Trung quốc do dòng Đại Hán chủ đạo với mưu đồ bá chủ thế giới.

a/Bill Clinton (2 nhiệm kỳ, 1993-2001)

Bill Clinton đắc cử tổng thống hai nhiệm kỳ 1993, 2001 là do nhóm tài phiệt triệu và tỹ phú Dân chủ và nhất là Trung quốc bảo trợ và yểm trợ tài chánh với cả chục triệu đô la mỗi kỳ (đọc Year of the Rat và Red Dragon Rising- Edward Timperlake và William Triplett II).

Bill Clinton là một kẻ đắm đuối trong sắc dục, tham nhủng tiền bạc nên không ngần ngại bán rẻ linh hồn cho Trung quốc và quên lảng trách nhìệm nguyên thủ lảnh đạo một đại cường quốc.

Tôi lỗi của cặp vợ chồng Clinton-Hillary không bút mực nào tả hết, từ việc tiết lộ bí mật quốc phòng, quân sự, kỷ thuật không gian, kinh tế, tài chánh, cơ cấu chính quyền liên và tiểu bang, các bí mật kỷ thuật cao trong các xí nghiệp sản xuất chiến lược.

Ông thả lỏng không kiểm soát các chương trình trao đổi các khoa học gia, giáo sư đại học, các nghiên cứu sinh trong các trung tâm nghiên cứu thuộc mọi lãnh vực trong đó các điệp viên tình báo Trung quốc ngang nhiên hoặc âm thầm bí mật ăn cắp sở hữu trí tuệ. Các chương trình trao đổi và nghiên cứu đều do Trung quốc tài trợ.

Sau khi đọc cuốn sách “The Clintons’ war on women” (Roger Stone và Robert Morrow) người viết một phần nào thông cảm và thương hại Ông vì Ông là nạn nhân của một bà vợ Hillary thông minh, mưu lược và gian ác, ngụp lặn trong tiền bạc và quyền lực, đã kiểm soát và áp đảo ông ngay cả chửi thề, nguyền rủa ông trong cuộc sống vợ chồng, không phải một lần mà cả trăm lần (Xin đọc cuốn sách nêu trên). Người viết không thể tưởng tượng nổi, thật tội nghiệp cho ông!

Ngoài xã hội, Bill Clinton là một tổng thống uy quyền của một đại cường quốc, nhưng trong gia đình, ông thực sự sống trong cô đơn, buồn tủi và nhục nhã bởi một người đàn bà đáng ghê tởm. Có không biết bao vụ bạo hành trong gia đình mà người gây ra chính là Hillary, Clinton chỉ là nạn nhân.

Không biết có bao nhiêu đàn bà, con gái son trẻ đi qua đời Bill Clinton, từ khi ông là Tổng Chưởng lý rồi Thống đốc tiểu bang Arkansas, một chính trị gia sáng giá đang lên để cuối cùng trở thành tổng thống thứ 42 của Hoa Kỳ. Bill Clinton, được Ông trời sinh ra là một chàng trai thông minh, hào hoa, ngoại hình rất đẹp trai, lại ăn nói quyến rủ đối với phái nữ.

Nghệ thuật quyến rủ đàn bà và con gái của ông là đưa những người này lên tận mây xanh. Trước mặt ông, bà nào, cô nào đều là duyên dáng, nhan sắc vẹn toàn và là số một. Chuyện ông bay bướm nhăng nhít cũng là lẽ thường. Điều đáng trách là ông đã quên trách nhiệm lảnh đạo cả môt đại cường quốc lại tiếp tay cho một địch thủ đáng gờm đang lăm le đoạt ngôi vị cường quốc số một của quốc gia và dân tộc mình.

b/Barack Obama (2 nhiệm kỳ 2009-2017)

•Tiểu sử – gia cảnh.

Barack Obama là ai? Theo lương tâm người viết quả thực không thích và có phần khinh miệt Barack Obama không phải ông là người da đen, nhưng vì những âm mưu chính trị đen tối của ông muốn phá nát nền chính trị Cộng hòa và nền kinh tế Tư bản Hoa Kỳ, mặc dầu ông chỉ là con tốt đen múa máy quay cuồng của một thế lực tài phiệt đứng đàng sau điều khiển. Người viết không biết gọi ông là gì cho tương xứng.

Barack Obama sinh ra từ một gia đình nghèo theo Hồi giáo ở Kenya, có quốc tịch Kenya được xác định bởi giấy khai sinh do người anh cùng cha khác mẹ hiện đang nắm giữ trong tay. Hai anh em này ít liên lạc với nhau và không bao giờ Barack chấp nhận chụp chung với người anh dù được yêu cầu, có lẽ vì sợ lộ danh tánh. Người anh đã có lần trưng bằng chứng giấy khai sanh có in dấu bàn chân của Obama cho công chúng xem.

Cha ghẻ của Obama là một nhân viên của một công ty tư vấn kinh doanh quốc tế lớn và uy tín do Henry Kissinger làm chủ. Obama đã được cha ghẻ giới thiệu với Kissinger ông này được nhận bảo trợ và đào tạo Obama trở thành điệp viên tình báo cho mưu đồ đi đêm với Trung quốc.

Trước khi tham gia chính trường, Barack Obama chỉ là chàng sinh viên vô danh tiểu tốt, đang theo học Columbia khá nổi tiếng ở thành phố New York, bang New York, sau đó vào đại học Harvard, bang Massachusett học tiến sĩ luật, nhưng không thi bằng luật sư. Cho tới bây giờ không ai biết ông thời trung học và đại học. Chỉ gần đây có một cựu sinh viên đồng lớp ở đại học Columbia nhớ tới tên ông. Thi vào được đại học Harvard, không biết vì ông là một sinh viên thông minh, xuất sắc thi đậu hay thuộc diện sắc dân thiểu số được ưu tiên vì mỗi năm đại học này thường dành một số chỗ cho sinh viên thuộc diện này.

Với chút tài ăn nói, năng động và cầu tiến Obama từng là chủ bút tờ báo của trường. Các sinh viên đồng lớp tại Harvard không ai biết tới ông cho tới khi ông là thượng nghị sĩ của bang Illinois rồi tổng thống 44 của Hoa Kỳ.

Không ai hay một tờ báo cho biết Obama lập gia đình ở đâu, khi nào. Ai là phụ rể và hai người con gái sinh ra bao giờ và ở đâu.

Có điều làm cho người viết thắc mắc hoài, thật hư ra sao không biết là có rất nhiều bức hình trên Youtube cho thấy Obama và Hillary ôm nhau rất thân mật như một cặp tình nhân đang yêu nhau rất say đắm. Đây là những bức hình được chụp công khai công chúng đều biết. Bà Michelle chắc chắn phải biết, nhưng không có chút phản ứng ghen tuông nào, tỉnh bơ như không có gì xảy ra. Bill Clinton thì chắc chắn không quan tâm gì vì có biết bao cô con gái trẻ đẹp sẳn sàng đến với ông. Người viết cứ thắc mắc không lẻ Michelle chuyển giống và Obama với Michelle là cặp đồng tình luyến ái. Hai cô con gái chỉ là con nuôi. Quý vị người đọc có ý kiến gì không, xin cho biết.

Thưa quý vị người đọc, còn 2 tháng nữa ngưới viết bước sang tuổi 86, Barack Obama chỉ đáng tuổi con cháu chứ không ngang hay trên tuổi người viết, vì vậy những dòng dưới đây nói lên ấn tượng của người viết về ông ấy mà không nghĩ mình là vô văn hóa. Barack Obama đã để lại cho người viết những dấu ấn!

1. Barack Obama khoác cái áo Dân chủ giả tạo. Là đảng viên, một tổng thống lãnh đạo đảng Dân chủ lại phá vở và chà đạp quy ước Dân chủ “Đa số thắng thiểu số và Thiểu số phục tùng Đa số” Thật đúng như danh ngôn Pháp nói “Chiếc áo không làm nên thầy tu” (L’habit ne fait pas le moine). Obama thiếu một tinh thần mã thượng, hành xử như một tên hạ cấp, điếm vặt trong một cuộc chơi, khi thua phải chấp nhận, không được phá đám, chọc gậy bánh xe.

2.Xuất thân từ một gia đình nghèo, tầm thường, một quốc gia nghèo mạt Kenya, Phi châu, Obama đã khai man sinh ở Hawaii, công dân Hoa Kỳ để ra ứng cử chức vụ tổng thống.

Với sự mặc cảm da đen đầy mình và tính cao ngạo, tại tòa Bạch ốc, trong phòng làm việc nhiều lần Obama gác hai chân lên trên bàn trong khi tiếp xúc với thuộc cấp. Những người da trắng tiếp xúc với ông chắc phải là những người có chức quyền, ít ra cũng có cố vấn, tổng bộ trưởng hay tệ nhất cũng là giám đốc các sở trong tòa Bạch ốc.

3.Trong 8 năm cầm quyền, chính quyền của ông như một nồi cám heo. Trong các bộ, như bộ Ngoại giao, bộ Thương mại, bộ Nội vụ, bộ Tư pháp và các cơ quan như CIA, FBI, Bưu điện và Thuế vụ, ông thả lỏng để các đảng viên Dân chủ có chức quyền tha hồ cấu kết, bao che để tham nhủng. Thật đúng là “Thượng bất chính hạ tắc loạn”. Mỗi bộ ngành là một chính phủ ngầm (Deep State) trong đó những người có quyền lực tha hồ thao túng, xâu xé nhau để kiếm chác (xin đọc The Deep State – Jason Chaffetz).

4.Barack Obama là một tổng thống sử dụng công quỹ, chi tiêu phung phí nhất trong các đời tổng thống gần đây. Chi tiêu công, tiền thuế của dân, trong hai nhiệm kỳ gấp đôi chi tiêu công trong 2 nhiệm kỳ của Bush con. Nợ công bằng tổng số nợ công của 4 tổng thống tiền nhiệm.

5. Xuất thân từ một gia đình nghèo, hẵn nhiên tiền bạc là một miếng mồi hấp dẫn. Obama từng xuất ngoại vì công vụ hay nghỉ dưỡng trên 48 quốc gia bằng chiếc Air Force One với bầu đàn thuộc cấp và thành viên gia đình, tất cả 80 người, dỉ nhiên ở trong những khách sạn 5 sao trang trọng. Sau khi rời tòa Bạch ốc vợ chồng Obama đã thụ đắc một gia sản cả 100 triệu đô la so với trước khi đắc cử chỉ có chưa tới 2 triệu đô la.

6. Cặp bài trùng Barack – Hillary còn bán một phần Uranium cho địch thù Nga và Nga đã lại quả 145 triệu đô la vào quỹ Clinton Foundation trong khi Hoa Kỳ đang thiếu Uranium. Cặp bài trùng này còn ngấm ngầm đồng ý giao Đài Loan và toàn vùng Biển Đông cho Trung quốc và chắc chắn cũng nhận được một lại quả không nhỏ.

Trước khi rời toà Bạch ốc ông ký một sắc lệnh hành chánh thiết lập một quỹ riêng 2,1 tỷ đô la để trang trải chi phí hưu dưỡng và du lịch cho tới 2036. Bà mẹ vợ cũng được trợ cấp tiền hưu dưỡng 13 ngàn đô la một tháng. Người viết đã sáng suốt không bầu cho ông trong hai nhiệm kỳ.

•Sự nghiệp chính trị.

Sự nghiệp chính trị của Barack Obama thăng tiến rất nhanh, đốt giai đoạn. Ông chỉ có một ưu thế là da đen, sinh sống trong một thành phố Chicago ở bang Illinois và cư dân phần lớn là người da đen. Ông đã nhảy vọt từ thượng nghị sĩ tiểu bang lên thượng nghị sĩ liên bang rồi trúng cử tổng thống Hoa Kỳ.

Chắc chắn phải có một quyền lực chính trị và tài phiệt rất mạnh bảo trợ và yểm trợ tài chánh tranh chức thượng nghị sĩ liên bang Illinois, rồi được đề cử tranh cử tổng thống năm 1908 với hai nhiệm kỳ.

Theo thiển ý người viết, về mặt chính trị, cú đêm Henry Kissinger đã là người nhào nặn nên Obama chắc phải ủng hộ. Về mặt tài chánh, có nhiều nhà tài phiệt triệu và tỹ phú đảng Dân chủ tài trợ như George Soros, chủ nhân hảng Coca Cola, Bill Gates, Microsoft va Bloomberg, tỉ phú truyền thông. Đảng Dân chủ có nhiều triệu và tỉ phú hơn đảng Cộng hòa rất nhiều, chắc do làm ăn bất chính nên không hợp với Cộng Hòa.

Ngoài ra Obama còn được đánh bóng tối đa bởi nhóm truyền thông thiên tả. Một yếu tố khác cũng quan trọng không kém là dân chúng Mỹ trong quá khứ thường có thông lệ cứ mỗi 8 năm là muốn thay đổi tổng thống đảng cầm quyền, ngoại trừ những trường hợp đặc biệt.

Người viết chưa tìm thấy những chứng cớ nào Barack Obama có liên hệ làm ăn với Trung quốc sâu đậm đến mức nào và được tài trợ ra sao. Nhưng chắc chắn là Obama cũng đã tiếp tay cho Trung quốc bằng cách thả lỏng cho điệp viên Trung quốc thao túng nền chính trị và kinh tế Hoa kỳ mà không dám đối đầu và chận đứng, có lẽ vì bất tài hay e sợ Tập Cận Bình, tên cáo gìa dòng Hán tộc.

•Chủ mưu và Hành động phản Dân chủ.

Barack Obama là chủ mưu phản nguyên tắc Dân chủ “Đa số thắng Thiểu số và Thiểu số phục tùng Đa số” được Hiến pháp Hoa Kỳ xác quyết từ ngày lập quốc. Đảng của ông mang nhản hiệu “Dân chủ” mà lại chà đạp nguyên tắc cố hữu và truyền thống này của Cha Ông. Thật là khốn nạn và bỉ ổi!

Trong suốt lịch sử tổng thống Hoa Kỳ trải dài 244 năm mà lại có một tổng thống tiền nhiệm tìm mọi mưu mô xảo quyệt để lật đổ một tổng thống đương nhiệm được đại đa số cử tri bầu lên theo đúng Hiến pháp. Giả thử Tổng thống Bush con hành động như vậy, Ông nghĩ sao? Chỉ có loại tổng thống da đen đê tiện, tiểu nhân mới hành động như vậy.

Trong một cuộc chơi dân chủ, thua thì phải chấp nhận và có thiện chí cộng tác phục vụ quyền lợi đất nước và dân tộc, sao lại thọc gậy bánh xe phá thối. Thật là đê hèn đáng khinh!

Obama không trừ một thủ đoạn hèn hạ và hạ cấp nào như giả tạo chứng cớ nhằm truất phế Donald Trump, ngụy tạo vụ giết George Floyd bởi cảnh sát viên da trắng, xúi giục bọn “Black lives matter” và “Antifa” biểu tình đốt phá, trộm cướp và giết người, đập phá các tượng đài vĩ nhân, nhà thờ và tượng Chúa Mẹ ..v..v…

Bọn khốn nạn này gây ra biết bao thiệt hại vật chất và tinh thần cho giới tiểu thương và những người dân lành vô tội.

Thế mà Obama, cùng với ứng cử viên tổng thống Biden và bọn đảng Dân chủ câm miệng không hề lên tiếng phản kháng. Thật là một lũ tội đồ! Bọn này chắc cũng thông đồng với Trung quốc thả con cúm Corona-Virus Vũ Hán để phá Hoa Kỳ và Tổng thống Donald Trump trong cuộc bầu cử 2020 này. Tụi này là nhóm phản quốc, nên với bất cứ thủ đoạn dơ bẩn nào chúng cũng sử dụng nhằm hạ bệ Donald Trump hầu chạy tội.

c/ Giới truyền thông Dân chủ Thổ tả.

Đạo đức truyền thông là phải tôn thờ “Sự thật và chỉ có sự thật” ánh đèn soi sáng và dẫn dắt quần chúng trên con đường Chân Thiện Mỹ. Các cá nhân làm truyền thông gồm báo chí, truyền thanh và truyền hình có bằng cấp đại học hay tự phát phải tuyệt đối tôn trọng đạo đức nghề nghiệp (Profession Ethics). Phóng viên báo chí, truyền thanh, và truyền hình phải đến tận hiện trường quan sát và ghi chép một cách khách quan một sự việc hay biến cố nào xảy ra, không thêm không bớt.

Thật đáng thất vọng, giới truyền thông Dân chủ cuội, vì tiền bạc đã bị các nhóm lợi ích mua chuộc, đặc biệt là Trung quốc hiện nay muốn tổng thống Donald Trump thất cử năm 2020 này, vị tổng thống cứng rắn, mưu trí và bản lỉnh dám đương đầu trực diện với Tập Cận Bình, con cáo già xảo quyệt dòng Hán tộc.

Gần đây một vài tờ báo chân chính tố cáo các tờ báo như Washington Post, New York Times và các đài truyền hình CNN, CBS, NBC v..v… nhận tiền đăng quảng cáo và đăng tải một số bài ca ngợi Trung quốc với số tiền từng chục triệu đô la từ cơ quan truyền thông nhà nước Trung quốc hoạt động tại Hoa Kỳ. 19

Nói tóm lại, tiền bạc và quyền lực là những miếng mồi quá hấp dẩn đã làm mù mắt các ông chủ truyền thông, nên họ đã đánh mất đạo đức và lương tâm nghề nghiệp. Vì tiền bạc họ có thể đưa một cá nhân nào đó, dù tầm thường, lên tận mây xanh và cũng có thể gìm một người tài đức, một người anh hùng dân tộc xuống tận bùn đen.

d/ Nhóm Mafia Tài phiệt.

Trong xã hội Hoa Kỳ gần đây, chính trị trở thành một nghề để kiếm sống, làm giàu và tìm kiếm quyền lực và danh vọng. Các chính trị gia ngày nay Dân chủ cũng như Cộng hòa hầu hết xuất thân từ giới trung lưu. Trong lịch sử Hoa Kỳ trải dài 244 năm, theo người viết biết, chưa có một ông tỹ phú nào, tiền bạc dư thừa và danh vọng cũng không thiếu ra ứng cử tổng thống, ngoại trừ Tổng thống Donald Trump. Ông có thừa tiền bạc và danh vọng, vậy ông ra tranh cử với chủ đích gì ? Quý vị đã rỏ “Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại” (Make America Great Again – MAGA).

Có thực sự nước Mỹ đang xuống dốc và trên bờ vực thẳm mà ông phải ra tay cứu vớt không? Chắc quý vị đã có câu trả lời và người viết cũng đã đề cập tới trên đây.

Trong chính trường Mỹ, các chính trị gia và các ứng viên tổng thống và tổng thống đều nằm dưới sự bảo trợ, yểm trợ tài chánh và chỉ huy bởi một nhóm tài phiệt triệu và tỹ phú trong đảng Dân chủ cũng như Cộng hòa. Các ứng viên rồi trở thành tổng thống đều do bọn này chọn lựa và chỉ định, và hẵn nhiên tổng thống phải là người trong cuộc, nghĩa là một chính trị gia đảng viên Dân chủ hay Cộng hòa, tuyệt đối không phải là người ngoại cuộc (Outsider).

Tổng thống Donald Trump là một người ngoại cuộc. Ông là người bảo thủ (Conservative) luôn luôn bảo vệ những giá trị truyền thống chính trị xã hội và Thiên Chúa giáo mà các nhà lập quốc đã viết trong bản Hiến pháp. Ông thực sự không phải là đảng viên Cộng hòa nhưng vì có cùng một số quan điểm chính trị truyền thống như đảng Cộng hòa nên liên kết với đảng Cộng hòa ra tranh cử dưới danh nghĩa Cộng hòa.

Ông đã dùng tài trí và khả năng thuyết phục thương lượng trong thương trường để được đại đa số các chính trị gia đảng viên Cộng hòa chấp nhận ông là ứng viên tranh cử. Ông đã đánh bại 16 ứng viên (đọc The case for Trump – Victor Davis Hanson) Cộng hòa khác vì thực tình trong 16 ứng viên này, không ai sáng giá, đủ sức đương đầu với Hillary. Phần đông các chính trị gia Cộng hòa bất đắc dỉ chọn ông ra tranh cử, và sau 3 năm cầm quyền Donald Trump đã chứng tỏ là một nhà lãnh đạo chính trị xuất sắc với những thành công về kinh tế, quân sự và ngoại giao vượt bực, lúc đó ông mới được đảng Cộng hòa tích cực ủng hộ trừ Mitt Romney và John McCain.

Nhóm Mafia tài phiệt Dân chủ là ai? Tại sao họ quyết tâm, không từ một thủ đoạn dơ bẩn nào nhằm triệt hạ Tổng thống Donald Trump và phá hoại nền chính trị Cộng hòa và nền kinh tế Tư bản Hoa Kỳ và thay vào đó bằng chế độ Xã hội Chủ nghĩa.

Hoa kỳ hiện nay là một cường quốc về quân sự và kinh tế với nền chính trị Cộng hòa ổn định nhất thế giới. Dân chúng có cuộc sống vật chất và tinh thần hạnh phúc và thoải mái nhất hành tinh này và chính họ, những nhà tài phiệt triệu và tỹ phú từ cái nôi này mà hiện hữu, nhưng tại 20 sao bây giờ lại muốn trở lại chế độ Cộng sản đã bị thế giới vất vào sọt rác, rồi lột xác mặc lấy cái áo mới “Xã hội Chủ nghĩa” không mấy khác Cộng sản Chủ nghĩa.

Nhóm Mafia Tài phiệt Dân chủ xuất phát từ hai nhóm xã hội bí mật (Secret Society Group) “Bilderberg” ở Âu châu và nhóm “Đầu sọ và hai xương chéo” (Skull-Bone), phát xuất từ đại học Yale, Hoa Kỳ trong nhiều thập niên qua.

Nhóm tài phiệt Mafia này gồm những hội viên kỳ cựu như cú đêm Kissinger, Grorge Soros, Bill-Melinda Gates, David Rockefeller, Bloomberg, Tony Blair, Bill-Hillary Clinton, Donald Rumsfeld, Margaret Thatcher và sau này có thêm Barack Obama và còn nhiều người khác nữa. Henry Kissinger là đầu sỏ (Mastermind). Nhóm Mafia Dân chủ này cũng gồm rất nhiều các giáo sư khoa bảng, cấp tiến và thiên tả tại các trường đại học nổi tiếng Hoa Kỳ như Yale, Harvard, Berkeley, Princeton, MIT v..v…

Nhóm Mafia này làm giàu nhờ ăn nằm với Trung quốc trong mọi lãnh vực chính trị, truyền thông, kinh tế, tài chánh, kinh doanh v..v…Tiền bạc không phải là mục tiêu tối hậu của bọn này. Theo thiển ý người viết, quyền lực thống trị mới là mục tiêu duy nhất và tối hậu. Tiền bạc đưa tới quyền lực và quyền lực mang lại nhiều tiền hơn nữa.

Bọn Mafia này bị mê hoặc và ngụp lặn trong quyền lực vì trong con người họ có sẳn thú tính “Mạnh hiếp yếu” thống trị, lảnh đạo, bắt mọi người quy phục họ như những tên nô lệ.

Bọn này không những muốn thống lỉnh Hoa Kỳ mà toàn thế giới với ảo vọng biến thế giới thành một “Cộng đồng toàn cầu hóa” (The World Community) có một chính phủ do bọn họ lảnh đạo và thống lãnh.

Đây cũng chính là âm mưu và mục tiêu tối hậu mà dòng Hán tộc Trung quốc đang theo đuổi để giảm bớt áp lực dân số không có lối thoát. Như vậy bọn Mafia tài phiệt Dân chủ là một chủ thể độc lập hay vì ăn nằm với Trung quốc để làm giàu thêm có quyền lực hơn để rồi cuối cùng bị đồng hóa bởi Trung quốc, và cũng trở thành những tên nô lệ của tai họa Hán hóa toàn cầu.

Tổng thống Donald Trump là trở ngại chính, cản mủi kỳ đà âm mưu của họ do đó bọn này tìm mọi cách đánh bại ông trong cuộc bầu cử 2020 này. Người viết cầu mong quý vị đồng hương tị nạn Cộng sản thân mến hãy tỉnh thức và sáng suốt trong việc lựa chọn lãnh đạo, một người ngày đêm chăm lo cho quý vị hay một người đã từng chống đối sự hiện diện của quý vị tại đây.

LỜI CUỐI VỚI ĐỒNG HƯƠNG TỴ NẠN CỘNG SẢN VIỆT NAM

1.Ăn quả nhớ kẻ tròng cây

Danh ngôn của Cha Ông để lại “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” vẫn còn văng vẳng bên tai chúng ta. Một sống, mười chết trên biển cả hay rừng sâu, rời bỏ quê hương, chạy trốn lũ quỹ Cộng sản, tìm đến bến bờ tự do, đất nước Hoa kỳ, trở thành một công dân, chúng ta được hưởng những quyền lợi và phúc lợi của một cường quốc với nền kinh tế tư bản phú cường và nền chính trị Cộng hòa ổn định và an toàn số một trên thế giới. Chúng ta phải có nghĩa vụ bảo vệ, vun đắp và hoàn thiện quốc gia này dù quý vị chỉ nhận nơi này là miếng đất tạm dung hay quê hương thứ hai tạm thời.

 

 

Quý vị có toàn quyền trở về quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn, bất cứ lúc nào quý vị muốn. Nhưng bao lâu quý vị còn sinh sống tại quốc gia Hoa Kỳ, được hưởng các quyền lợi, ơn huệ, quý vị có trách nhiệm bảo vệ và vun đắp nó.

Có một lúc nào, quý vị vắt tay lên trán suy tư mình đã có một cuộc sống tương đối đầy đủ và thoải mái. Con cháu quý vị đã là bác sĩ, tiến sĩ, khoa học gia, giáo sư, kỷ sư các ngành và 5 vị tướng trong quân đội Hoa Kỳ. Cũng không thiếu gì các nhà triệu phú ngay cả tỹ phú trong thương trường. “Giấc mơ Mỹ” (American Dream), đã có biết bao nhiêu người trong quý vị đã đạt được!

Điểm quan trọng ở đây mà mà người viết muốn nhấn mạnh và lưu ý là ai hay đảng chính trị nào Cộng hòa hay Dân chủ trong 45 năm qua đã mang lại những phúc lợi và thành công của chính quý vị và con cháu. Người viết mong quý vị đồng hương thân mến hãy thận trọng và sáng suốt trong việc chọn lựa ai sẽ là vị tổng thống tương lai trong năm 2020 này.

Theo lương tâm, quý vị đã từng đi du lịch khắp thế giới, có thấy quốc gia nào giàu có đầy đủ tiện nghi, tài hóa lan tràn với giá rẻ và phẩm chất cao và các dịch vụ tiện lợi đủ loại như ngân hàng, du lịch .v..v..như Hoa Kỳ không? Sau nhiều tuần du lịch nước ngoài trở về, khi bước xuống máy bay tại phi trường Los Angeles hay John Wayne quý vị có cảm thấy dễ chịu khoan khoái và an toàn không. Quý vị hãy thật lòng với mình đi!

Đối với thanh thiếu niên Việt Nam, người viết chỉ nhắc nhở đừng ngây thơ, ảo tưởng tin vào chiếc bánh vẽ của các chính trị gia mị dân Dân chủ cũng như Cộng hòa đưa ra chiêu dụ. Trên đời này, không có gì là miễn phí, cái gì cũng có cái giá của nó, vì tài nguyên thiên nhiên của một quốc gia có giới hạn không như nước biển và không khí.

Đối với con người, đừng đánh giá một cá nhân qua những lời nói hoa mỹ, bóng bẩy và chải chuốt, ngoại hình đẹp trai hay xinh đẹp. Cũng đừng đánh giá ai có lời nói bộc trực, ngay thẳng, đôi khi vụng về khó lọt tai. Đánh giá việc làm của ai, phải cho họ một thời gian thử thách, đợi kết quả mới đưa ra kết luận, đừng lăng mạ, chửi bới và chê bai khi chưa biết kết quả ra sao.

Trong cuộc đời thực tế, có biết bao người ngoại hình đẹp trai, ăn nói hoa mỹ, bóng bẩy, lời nói ngọt như mật, nghe sướng tai, những lời tán tỉnh ngọt như mía lùi, nhưng cuối cùng là những gả sở khanh hay những cô gái điếm đàng, lưu manh.

“Đoàn kết tạo nên sức mạnh” đó là câu danh ngôn đúng mọi thời gian và không gian. Một số quý vị đồng hương đứng tuổi, không nói tới nhóm thanh thiếu niên non trẻ lớp hậu dụê thứ hai hay ba, còn bồng bột, thiếu kinh nghiệm sống, dễ tin và dễ bị lôi cuốn, đã sinh sống ở đây lâu rồi mà vẫn thiếu hiểu biết, cố chấp và thiên kiến. Thực sự chúng ta mới là những người kỳ thị địa phương Bắc, Trung, Nam và kỳ thị chủng tộc người Thượng người Kinh. Sang Hoa Kỳ, hãy vấn lương tâm, quý vị có chút kỳ thị người da đen, người Mễ Tây Cơ nói riêng và người nói tìếng Tây Ba Nha vùng Nam Mỹ nói chung không?

Quý vị có muốn con cái, trai hay gái của quý vị lập gia đình với người da đen hay người Mễ không hay khi sự thể ngoài ý muốn xảy ra, vợ chồng nhảy xổng lên kêu trời. Theo lương tâm, quý vị hãy trả lời đi! Như vậy tại sao một số quý vị theo đảng Dân chủ ủng hộ phong trào “Black lives matter”, mà thực ra đây chỉ là một sự giàn dựng lưu manh của đảng Dân chủ để kiếm phiếu.

Nói tới sự đoàn kết trong cộng đồng người Việt tỵ nạn Cộng sản thấy mà buồn. Ở miền Nam Cali cũng như nhiều nơi khác, cộng đồng cũng như các hội đoàn chính trị hay thân hữu thì chia ba năm xẻ bảy, chẳng ai chịu ai. Theo người viết, đó là hậu quả của nền giáo dục Pháp tổng quát, thiếu chuyên môn và tinh thần làm việc theo nhóm (team work). Cái gì cũng biết một tí, không có chiều sâu, nên khi ngồi vào bàn thảo luận chung, ai cũng là rốn vũ trụ, chỉ mình là đúng, thiên hạ sai hết, thiếu tinh thần phục thiện và hợp tác. Trong sinh hoạt hội đoàn, không ăn được thì đạp đổ, miệng thì la ó đòi hỏi dân chủ, nhưng lại không theo quy luật dân chủ “Đa số thắng thiểu số và thiểu số phục tùng đa số”, không thắng thì phá quấy, thọc gậy bánh xe.

Tệ hơn nữa, chuyện này lại xẩy ra trong hàng ngủ trí thức, nhất là nhóm trí thức cấp cao, bằng cấp khoa bảng.

Thưa quý vị cao niên, người viết cũng 85 tuổi rồi, mong quý vị hãy rút lui về thanh thả sống vui với tuổi già, đừng tham sân si nữa. Thực tình mà nói, số người trong quý vị có đủ khả năng Anh ngữ, hiểu biết rõ sinh hoạt chính trị của xứ này khá giới hạn. Đừng vổ ngực cho rằng mình có nhiều kinh nghiệm, những kinh nghiệm lỗi thời rồi, mà ra tranh dành chức nọ quyền kia. Hãy để chuyện này cho con cháu hậu duệ. Được giáo dục trong một nền giáo dục tân tiến, với óc thông minh, thích nghiên cứu tìm tòi sách vở và thực tế, chúng có khả năng hơn chúng ta nhiều về mọi lãnh vực hiện nay.

2.Sự thật và chỉ có sự thật

Đối với quý vị đồng hương làm truyền thông (báo chí, truyền thanh và truyền hình – Newspaper, Radio and television Reporters) người viết muốn có đôi lời. Tại Hoa Kỳ phần đông quý vị là những chủ cơ sở hay nhà truyền thông tự phát, không kinh qua một trường đại học báo chí hay các lớp huấn luyện và tu nghiệp. Người viết biết duy nhất chỉ có ông Đỗ Ngọc Yến cố chủ nhiệm báo Người Việt trong nhiều năm là có văn bằng cử nhân báo chí do cố giáo sư Nguyễn Ngọc Linh giảng dạy.

Ông Đỗ Ngọc Yến tốt nghiệp trường Chính trị Kinh doanh khóa 1 ban Báo chí, viện Đại học Đà Lạt, trong thời gian người viết là giáo sư thỉnh giảng môn kinh tế học từ 1966-1972. Ông Đỗ Ngọc Yến tốt nghiệp năm 1967, không biết ông được thụ huấn bao nhiêu lớp (courses) báo chí, nhưng chắc chắn phải có một lớp về đạo đức nghề nghiệp (Profession Ethics)

Cũng cần nói thêm, cố giáo sư Nguyễn Ngọc Linh là một trong hai người Việt Nam duy nhất có bằng cử nhân báo chí tại Hoa Kỳ. Người kia là Linh mục Nguyễn Thanh Hùng, tốt nghiệp cử nhân báo chí tại đại học Marquette, một đại học công giáo ở thành phố Milwaukee, bang Wisconsin trong thời gian người viết đang theo học tại đại học Wisconsin, Madison, thủ phủ bang Wisconsin.

Bằng cử nhân báo chí tại Hoa Kỳ rất khó lấy. Quý vị phải thật giỏi về Anh văn. Trong năm đầu phải học rất nhiều lớp Anh văn như văn phạm, nghệ thuật viết, chấm câu, các phương pháp lý luận tổng hợp và diển dịch .v..v.. Ngoài ra phải học các môn khác như chính trị, xã hội học, tâm lý học, khoa học, kinh tế học và khảo cổ học Tóm lại quý vị phải có kiến thức thật rộng. Tuy nhiên khi ra hành nghề, quý vị chọn một chuyên ngành truyền thông nào đó theo sở thích.

Đạo đúc nghề nghiệp cho ngành truyền thông là gì ? Đó là “sự thật và chỉ có sự thật”. Tuyệt đối không được bóp méo hay xuyên tạc sự thật. Như vậy, là chủ cơ sở hay nhà truyền thông tự phát hay có bài bản không quan trọng. Vấn đề là những nhà truyền thông này có tôn trọng tuyệt đối đạo đức nghề nghiệp không.

Trở lại chính trường với cuộc chiến một mất một còn giữa đảng Dân chủ với ứng viên tổng thống Joe Biden và đảng Cộng hòa với đương kim Tổng thống Donald Trump, quý vị truyền thông người Việt tỵ nạn Cộng sản phải có lập trường và thái độ chính trị nào?

Người viết thấy phần đông quý vị chỉ là những người dịch thuật tin tức từ các cơ quan truyền thông Hoa kỳ, như Washington Post, New York Times, CNN, ABC và CBS thuộc đảng Dân chủ tung các tin giả để đánh phá Donald Trump.

Là truyền thông chính trực và khách quan quý vị phải tới tận hiện trường xẩy ra sự kiện hay biến cố để quan sát và ghi chép chính xác để phổ biến cho đại chúng. Người viết biết chắc quý vị không có khả năng nhân sự và tài chánh để thiết lập một cơ sở truyền thông quy mô và tân tiến như Washington Post hay CNN.

Nhưng nếu dịch thuật tin tức không đúng sự thật, tin giả, tin bóp méo để phổ biến cho đại chúng là quý vị đã vi phạm đạo đức nghề nghiệp.

Một số quý vị truyền thông tỵ nạn cộng sản tích cực ủng hộ ứng viên tổng thống Joe Biden đã từng chống đối sự hiện diện của quý vị ở đất nước này tháng 4, 1975. Chính miệng Biden đã nói “Hoa kỳ không có trách nhiệm di tản một người chứ đừng nói 100.001 người Nam Việt Nam (The United States has no obligation to evacuate one – or 100.001 South Vietnamese)

Đảng Dân chủ và Joe Biden đang chủ trương biến đổi chế độ chính trị Cộng hòa và nền kinh tế tư bản Hoa Kỳ thành chế độ xã hội chủ nghĩa mà quý vị đã liều mạng một sống mười chết, để chạy trốn. Sao quý vị cuồng Joe Biden mau quên đến vậy! Sao không trở về thiên đàng xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà sống để ba hoa xổ tiếng Việt và nhậu “Cờ tây”. Thật là mâu thuẩn! Xin quý vị đồng hương hãy thức tỉnh lại và sáng suốt!

Người viết không rõ những cô cậu ca sĩ. hướng dẫn viên chương trình (Master of ceremony) từng chửi bới và mạ lỵ Tổng thống Donald Trump trước cuộc bầu cử 2016 đã sang định cư bên Gia Nả Đại chưa hay còn, vô liêm sỉ, nằm lỳ tại Mỹ. Nhóm người này không còn là nông nổi hay bồng bột, mà là thiếu kiến thức, không nói là ngu xuẩn. Bọn này đúng thuộc loại xướng ca vô loại. Bọn này không có bản lảnh (gutts) nói mà không làm cũng giống phần lớn các chính trị gia mị dân Cộng hòa cũng như Dân chủ, hứa thật nhiều mà thực hiện chẵng bao nhiêu khi ra tranh cử bất cứ chức vụ nào, tiểu bang cũng như liên bang.

Để kết luận, thưa quý vị đồng hương tỵ nạn cộng sản thân mến, người viết xin mạng phép nhắc lại hai điểm chính yếu sau đây:

1/ Dưới ánh sáng của bản Hiến pháp tuyệt vời, do các nhà lập quốc Hoa Kỳ viết ra, cuộc hôn nhân có chủ đích giữa nền chính trị Cộng hòa và nền kinh tế Tư bản Hoa Kỳ, đều xác quyết chúng ta là những con người bình đẳng, tự do và có quyền tư hữu, là những quyền thiên định không bị tước đoạt bởi bất cứ cá nhân hay đảng phái chính trị độc tài nào.

Chúng ta là những chủ thể tự do, không phải là nô lệ của bất cứ cá nhân, nhóm hay tổ chức chính trị nào. Chúng ta rất may mắn vì đang được hưởng tất cả những ưu đải, quyền lợi về vật chất cũng như tinh thần của một cường quốc số một trên thế giới. Quý vị đã đi du lịch khắp các quốc gia trên thế giới, quý vị có thấy nơi nào bằng Hoa Kỳ không về vật chất cũng như tinh thần.

Trên thế giới chỉ có “Giấc mơ Hoa Kỳ” đâu có giấc mơ nào khác. Nói một cách không quá đáng, quý vị đang sống trong một thiên đàng trên trần thế, nếu quý vị biết cầu tiến, có tinh thần tự lập và tự trọng.

Do đó người viết xin quý vị đồng hương hãy tỉnh thức đừng “đứng núi này trông núi nọ”. Quý vị đừng để đảng Dân chủ mị dân và truyền thông thiên tả Hoa Kỳ hiện nay biến quý vị thành những tên nô lệ của một thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa mà quý vị đã liều mạng chạy trốn 45 năm trước đây. Xã hội chủ nghĩa ở quốc gia nào cũng nhằm nô lệ hóa con người như Trung quốc, Việt Nam v..v…và trong tương lai, nếu không may Joe Biden đắc cử Tổng thống 2020 này, xã hội chủ nghĩa Hoa Kỳ cũng chẳng khác gì Trung quốc hiện nay và chúng ta cũng sẽ trở thành những tên nô lệ dòng Hán tộc man rợ.

2/ Người viết tha thiết kêu gọi giới truyền thông người Việt tỵ nạn Cộng sản, là chủ nhân hay cá nhân truyền thông tự phát hay được học và đào luyện bài bản, đừng vì tư lợi hay hư danh mà đánh mất lương tâm và đạo đức nghề nghiệp, luôn luôn tôn trọng “sự thật và chỉ có sự thật”.

Quý vị thực sự có vai trò rất quan trọng trong xã hội, quý vị là những ngọn đuốc soi đường chỉ lối cho quần chúng được sinh sống như một người tự do hay một tên nô lệ trong xã hội.

Phần lớn quý vị chỉ là chủ cơ sở hay nhà truyền thông dịch thuật các tin tức từ các cơ sở và đài truyền thông Hoa Kỳ như Washington Post, New York Times, Los Angeles Times, CNN, CBS, ABC v..v… Giới truyền thông Hoa Kỳ hiện nay rất cấp tiến và thiên tả, phần lớn bị Trung quốc mua chuộc, nên đánh mất hết đạo đức nghề nghiệp, và hiện nay trở thành công cụ đắc lực để đảng Dân chủ sử dụng nhằm đánh bại tổng thống Donald Trump trong cuộc bầu cử 2020 này.

Nếu quý vị thực sự có lương tâm nghề nghiệp thì chỉ dịch thuật và phổ biến cho đồng hương chúng tôi những sự thật xảy ra, đừng theo chân giới truyền thông thổ tả, tay sai của đảng Dân chủ hiện nay. Mong lắm thay!

Kính chào

Đỗ Ngọc Hiển

Giáo sư Kinh Tế trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam