Cộng sản Việt Nam bị hạn chế trong nước trong sự lựa chọn giữa Mỹ và Trung Quốc.
Quí Bạn thân mến,
Theo tác giả David Hutt nhận xét … Đảng Cộng sản [VN] nhận thấy quyền lực của mình trong nước bị đe dọa bởi những gì mà hai siêu cường đại diện. Nhận thức của những người cộng sản Việt Nam là các mối quan tâm trong nước quyết định một chính sách đối ngoại cân bằng. Nó không phải là tất cả về thương mại và Biển Đông…. thì nó là gì ?
– Mỹ và TQ đều có chỗ yếu để csVN bắt chẹt vì Mỹ cần giúp VN giữ biển Ðông ổn định cho hải lộ giao thương huyết mạch, vừa dùng VN để be bờ TQ mở đường nam tiến phục vụ cho kế hoạch vành đai một con đường, cho nên csVN vẫn không lo ngại khi ra tay đàn áp thô bạo những nhà Dân chủ, Tôn giáo và Môi trường …
– Mặt khác TQ thiếu tính pháp lý quốc tế để dùng sức mạnh đánh chiếm biển Ðông vừa chưa có cơ hội tốt dùng bạo lực tấn công VN như ÐTB dạy cho VN bài học 1978-79, cho nên lựa chọn hay nhứt cho TQ hiện nay là tấn công VN theo kiểu tằm ăn dâu cho đến khi có cơ hội chín mùi, nên không lấy làm lạ là csVN luôn thẳng tay dập tắt những động loạn gây nên căng thẳng với TQ.
– Tuy đang đu dây nhưng csVN rất nhạy cảm trước tiềm năng của một cú sốc hay biến động bất chợt làm chao đảo cán cân quan hệ Mỹ – Trung như biến động kinh tế, xáo trộn trật tự xã hội hoặc khủng hoảng môi trường …
Nhưng làn sóng ngầm mâu thuẫn nội bộ dễ bộc phát hơn đưa đến nguy cơ mất kiểm soát của chế độ là hệ thống cai trị của csVN hiện đang chuyển từ cơ cấu đảng trị sang thế cấu kết giữa các nhóm lợi ích, các phe phái trên chóp bu đang chi phối toàn bộ nền kinh tế và tại các địa phương .
Tiềm năng của các cú sốc nội bộ làm bứt dây động rừng đến tứ trụ hay cấp trung ương bắt nguồn từ mâu thuẫn quyền lợi kinh tế, tài chính dễ đưa đến các cú triệt hạ thẳng tay, gây hỗn loạn nội bộ hơn là từ khác biệt quan điểm chỉ bị hạ tầng công tác nhứt là khi ông NPT bất ngờ đột quỵ !
Ban Biên Tập
Cộng sản Việt Nam bị hạn chế trong nước trong sự lựa chọn giữa Mỹ và Trung Quốc.
Ngay cả trong một nhà nước độc đảng, cộng sản, người dân thường có thể sử dụng quyền lực.
Bài bình luận của David Hutt 2023.07.08 – Chia sẻ trên WhatsApp
Thủ tướng Trung Quốc Lý Cường (trái) và Thủ tướng Việt Nam Phạm Minh Chính duyệt đội danh dự trong lễ đón tại Đại lễ đường Nhân dân ở Bắc Kinh, ngày 26 tháng 6 năm 2023. Greg Baker / POOL / AFP
Không phải Đảng Cộng sản đã đưa người Việt Nam thoát nghèo; người dân tự làm. Cuộc cách mạng thị trường tự do của đất nước là kết quả của áp lực từ dưới lên của quần chúng, những người đã phá vỡ nền kinh tế chỉ huy đến mức chính quyền cộng sản phải chấp nhận một lĩnh vực kinh doanh tư nhân. Việc họ ăn cắp từ các công ty nhà nước và giao dịch trên thị trường chợ đen, và khả năng sở hữu ngày càng nhiều sản phẩm dư thừa sau khi nhà nước nắm giữ cổ phần, có nghĩa là chính phủ đơn giản là không thể xử lý nền kinh tế tập thể đã khiến Việt Nam trở thành một trong những nền kinh tế lớn nhất thế giới. nước nghèo nhất trong những năm 1980.
Nhà cầm quyền cộng sản nhường một tấc, người dân đòi thêm. “Ý tưởng cho rằng thành công kinh tế bắt nguồn từ sự thay đổi chiến lược trong tư duy của Đảng [năm 1986]… thực ra là một chuyện hoang đường,” nhà kinh tế học Adam Fforde viết. “Thay vào đó, thành công đến từ những vi phạm có hệ thống ý thức hệ của Đảng từ cuối những năm 1970, nếu không muốn nói là sớm hơn.”
Gói cải cách kinh tế của đảng năm 1986 (đổi mới, hay “đổi mới”) là kiến thức phổ biến. Ít hứa hẹn về đổi mới chính trị. Nguyễn Văn Linh, tổng bí thư sắp tới của đảng năm đó, đã nói với các nhà văn và nhà báo rằng họ nên ‘bám sát vào sự thật’. Một trong những người tin lời Linh là Bảo Ninh, một tiểu thuyết gia trẻ và cựu chiến binh từ miền Bắc. “Bao nhiêu máu, bao nhiêu sinh mạng hy sinh để làm gì?” ông đã viết trong cuốn sách năm 1990 của mình, Nỗi buồn chiến tranh. Nhà thơ, dịch giả Dương Tường gọi tác phẩm của Bảo là “cuốn sách chân thực đầu tiên về chiến tranh”.
Chân thực vì nó không ca ngợi chiến thắng chống Mỹ (“Trong chiến tranh, không có thắng thua. Chỉ có hủy diệt”), cũng không coi các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản là anh hùng duy nhất. Bảo lập luận rằng hầu hết người Việt Nam đang đấu tranh cho hòa bình quốc gia, cũng không phải cho chủ nghĩa Mác. Đương nhiên, cuốn sách đã bị cấm.
Thủ tướng Việt Nam Phạm Minh Chính (phải) vẫy chào Phó Tổng thống Hoa Kỳ Kamala Harris tại văn phòng Chính phủ ở Hà Nội vào ngày 25 tháng 8 năm 2021. Ảnh: Manan Vatsyayana / Pool / AFP
Vấn đề là ngay cả trong một nhà nước độc đảng, cộng sản, những người bình thường vẫn có thể phát huy quyền lực. Ngày nay, chính phủ vẫn đàn áp nghiêm trọng công dân của mình. Không có phương tiện truyền thông miễn phí. Không có cuộc bầu cử thực sự. Nhưng Đảng Cộng sản thực sự lo lắng về những suy nghĩ của người dân thường. Những áp lực trong nước đó rất khó đánh giá và thường xuyên trong các cuộc tranh luận về chính sách, chẳng hạn như về việc Việt Nam phòng ngừa giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, việc tập trung vào “ngoại tác” sẽ dễ dàng hơn nhiều.
Chẳng hạn, lập trường ở một thái cực của cuộc tranh luận về chính sách đối ngoại đó lập luận rằng chính phủ Việt Nam bị từ chối bất kỳ cơ quan nào vì các điều kiện vật chất: Trung Quốc là đối tác thương mại chính và là kẻ xâm lược chính của Việt Nam; Hoa Kỳ là đối tác xuất khẩu chính và là “người bảo đảm” an ninh của Việt Nam. Vì vậy, bằng cách liên kết chặt chẽ hơn với một trong hai bên, Việt Nam có nguy cơ xảy ra chiến tranh hoặc suy thoái kinh tế. Một thái cực khác nói rằng Đảng Cộng sản có rất nhiều quyền tự quyết, và điều định hình chính sách đối ngoại là một ý thức hệ chung khiến nó trở nên thân thiện với Trung Quốc, các cuộc đấu tranh bè phái trong đảng và ý thích bất chợt của một số quan chức chính phủ.
Nhưng hãy xem một bài phát biểu vào năm 2021 của Nguyễn Phú Trọng, hiện là tổng bí thư ba nhiệm kỳ của Đảng Cộng sản. Ông nói: “Bất kỳ quốc gia nào cũng phải giải quyết hai vấn đề cơ bản, đối nội và đối ngoại. “Hai vấn đề này có mối quan hệ hữu cơ, biện chứng… hỗ trợ cho nhau như hai cánh của con chim, tạo thế và lực cho nhau, gắn bó, đan xen ngày càng chặt chẽ với nhau”. Ông nói thêm, chính sách đối ngoại ngày nay là “sự tiếp tục của chính sách đối nội”. Một lát sau, ông nói: “Đối ngoại phải luôn phục vụ tốt nhất cho đối nội”. Nguyên nhân đối nội đó đối với Trọng là sự tồn vong và tính lan truyền của Đảng Cộng sản.
Mối quan tâm trong nước quyết định
Tầm quan trọng khác của Nỗi buồn chiến tranh là dấu hiệu ban đầu của chủ nghĩa dân tộc đang tuột khỏi tay Đảng Cộng sản, đảng đã đặt cược tính hợp pháp của mình vào việc đã dẫn đến chiến thắng trước Pháp, sau đó là Mỹ và sau đó là Trung Quốc. Nhưng nó đã bắt đầu mất kiểm soát vào đầu những năm 1990 khi nó đạt được thỏa thuận hòa bình với Bắc Kinh. Dư luận càng phẫn nộ hơn khi vốn Trung Quốc bắt đầu chảy vào Việt Nam.
Năm 2006, anh hùng dân tộc Võ Nguyên Giáp (“Napoleon đỏ”) cáo buộc chế độ bán đất Việt Nam cho các nhà đầu cơ bauxite Trung Quốc khai thác. Nhà sử học Christopher Goscha đã viết: Các cuộc biểu tình kéo dài nhiều năm đã khiến “Đảng theo chủ nghĩa dân tộc quay lưng lại với việc cáo buộc Đảng này đã nhượng bộ Trung Quốc vào đúng thời điểm Trung Quốc đang mở rộng yêu sách lãnh thổ đối với Việt Nam ở Biển Đông”. Quá trình đó chỉ mở rộng theo thời gian. Người ta có thể nói rằng Đảng Cộng sản bây giờ sợ chủ nghĩa dân tộc.
Các học giả Trung Quốc dường như đặc biệt tin tưởng rằng tất cả các cuộc biểu tình theo chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam đều do Đảng Cộng sản chỉ đạo. Đó là trường hợp hiếm khi xảy ra. Bữa tiệc theo sau các sự kiện; nó hiếm khi dẫn dắt họ. Sự tức giận của cư dân mạng đã dẫn đến vụ việc gần đây bộ phim Hollywood “Barbie” bị cấm chiếu ở Việt Nam vì bản đồ thô sơ mà một số người cho rằng thể hiện yêu sách lãnh thổ của Trung Quốc ở Biển Đông và đe dọa tẩy chay các buổi hòa nhạc của ban nhạc K-Pop Hàn Quốc BlackPink.
Trong cuộc đối đầu ở Bãi Tư Chính năm 2019, khi quân đội Trung Quốc một lần nữa quấy rối các tàu Việt Nam ở Biển Đông, các quan chức ở Hà Nội được cho là đã thảo luận về việc có nên cho phép một số cuộc biểu tình hạn chế hay không. “Tuy nhiên, một số quan chức khác đã cảnh báo, các cuộc biểu tình phải được kiểm soát chặt chẽ. Nếu không, các cuộc biểu tình có thể bị các cá nhân và nhóm ở Việt Nam, cụ thể là những người ủng hộ dân chủ hóa, tiếp quản,” Ben Kerkvliet viết trong Lên tiếng ở Việt Nam, một nghiên cứu về hoạt động chính trị.
Đó vẫn là một mối quan tâm. Nếu đảng có lập trường mạnh mẽ chống lại Trung Quốc, điều đó có nguy cơ gây ra các cuộc biểu tình theo chủ nghĩa dân tộc trên toàn quốc mà đảng không thể kiểm soát và có thể nhanh chóng bị kích động thành phong trào chống cộng. Từ ngày 9 đến ngày 11 tháng 6 năm 2018, hơn 100.000 người biểu tình trên khắp Việt Nam, được cho là cuộc biểu tình toàn quốc lớn nhất được thấy trong nhiều thập kỷ, khi Quốc hội tranh luận về dự luật thành lập ba đặc khu kinh tế (SEZ) dọc theo bờ biển Việt Nam. Bộ trưởng đầu tư đã công khai nói rằng “không có từ nào đề cập đến Trung Quốc” trong kế hoạch SEZ.
Nhưng điều này không giúp xua tan ý kiến cho rằng Bắc Kinh sẽ là bên hưởng lợi chính từ thỏa thuận này. Mặc dù chủ yếu là ôn hòa, nhưng bạo lực đã xảy ra ở tỉnh Bình Thuận, nơi những người biểu tình đốt phá một tòa nhà chính phủ. Đến tháng 11 năm 2018, năm tháng sau sự kiện, hơn 120 người biểu tình đã bị bỏ tù. Nhưng với quy mô phản đối của công chúng, Quốc hội đã hoãn thảo luận về luật Đặc khu kinh tế, trong khi chính phủ cho biết sẽ rút lại dự luật “để nghiên cứu thêm” trước khi âm thầm hủy bỏ hoàn toàn (một dấu hiệu khác của quyền lực nhân dân).
Phó Tổng thống Hoa Kỳ Kamala Harris (giữa) gặp gỡ các nhà hoạch định thay đổi xã hội dân sự làm việc về LGBT, người chuyển giới, quyền của người khuyết tật và biến đổi khí hậu, tại dinh thự của Trưởng Phái đoàn Hoa Kỳ ở Hà Nội, Việt Nam, ngày 26 tháng 8 năm 2021. Ảnh: Evelyn Hockstein / Bi-a / AFP
Một khối lượng lớn công chúng sẽ ủng hộ việc cắt đứt hoàn toàn quan hệ với Trung Quốc. Nhiều người ưu tú cũng vậy. Hàng năm, Viện ISEAS-Yusof Ishak đặt câu hỏi cho “giới tinh hoa” Đông Nam Á: Nếu ASEAN bị buộc phải liên kết với Hoa Kỳ hoặc Trung Quốc, thì ASEAN nên làm gì? Trong lần lặp lại gần đây nhất, khoảng 77,9% người Việt Nam được hỏi đã chọn Hoa Kỳ, tỷ lệ cao nhất trong khu vực sau những người từ Philippines, một đồng minh hiệp ước của Hoa Kỳ. Mặt khác, một bộ phận khác trong xã hội, đặc biệt là những người có ý thức hệ trong đảng, vẫn cho rằng Hoa Kỳ đang âm mưu “diễn biến hòa bình” ở Việt Nam, một thuật ngữ chỉ sự thay đổi chế độ.
Họ nói rằng nếu Hà Nội trở nên phụ thuộc vào Washington, họ sẽ buộc phải dân chủ hóa. Như vậy, Đảng Cộng sản được hưởng lợi từ nỗ lực của Bắc Kinh nhằm chống lại chương trình nghị sự của phương Tây về nhân quyền. Sau chuyến thăm Bắc Kinh của ông Trọng vào tháng 11, một tuyên bố chung ghi nhận rằng cả hai bên đã đồng ý “thúc đẩy hợp tác” trong cuộc chiến chống “diễn biến hòa bình” và “cách mạng màu”. Lần đầu tiên, BBC đưa tin, họ cũng đồng ý thúc đẩy đối thoại và hợp tác quốc tế về nhân quyền mà không tìm cách “chính trị hóa nó”. (Nhân tiện, nhiệm kỳ ba năm của Việt Nam trong Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc bắt đầu từ năm nay.)
Theo một học giả, trích lời các quan chức Việt Nam: “Liên kết với Hoa Kỳ sẽ dẫn đến sự sụp đổ của chế độ cộng sản; liên kết với Trung Quốc sẽ dẫn đến mất mát lãnh thổ.” Nhưng điều đó không mang tính biện chứng nhiều như sự lặp lại. Trong trường hợp có bất kỳ tổn thất lãnh thổ lớn nào hoặc thậm chí là sự chấp nhận từ Hà Nội đối với các yêu sách của Bắc Kinh ở Biển Đông, điều đó cũng có thể đồng nghĩa với sự sụp đổ của chế độ cộng sản.
Tuy nhiên, còn lâu mới rõ ràng về sự thay đổi chế độ và nước Mỹ. Tuy nhiên, Đảng Cộng sản nhận thấy quyền lực của mình trong nước bị đe dọa bởi những gì mà hai siêu cường đại diện. Nhận thức của những người cộng sản Việt Nam là các mối quan tâm trong nước quyết định một chính sách đối ngoại cân bằng. Nó không phải là tất cả về thương mại và Biển Đông.
David Hutt là nghiên cứu viên tại Viện Nghiên cứu Châu Á Trung Âu (CEIAS) và là nhà bình luận Đông Nam Á tại Diplomat. Là một nhà báo, anh ấy đã đưa tin về chính trị Đông Nam Á từ năm 2014. Các quan điểm thể hiện ở đây là của riêng anh ấy và không phản ánh quan điểm của RFA.
https://www.rfa.org/
Lê Văn dịch lại