Chữ “Tín”
LTS: Cựu Đại Úy Trương văn Út, cựu SVSQ Khoá 22/TVBQGVN. Ông là ĐĐT Đại đội 5, Tiểu Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù/ Lực Lượng Đặc Biệt. Sau ÐÐ5 Biệt Cách Nhẩy Dù cải tuyển thành Đại Đội 2 Trinh Sát Nhảy Dù/SĐND, được các cựu SVSQ/Khoá 22/TVB Quốc Gia VN gọi là “Lão Ngoan Đồng”. Ông vượt thoát khỏi trại tù CS (Long Giao). Mấy năm trời sống lanh quanh thành phố Saigon, trước khi vượt biên (1982) đến trại tị nạn Mã Lai. Ông hiện định cư tại Houston, Texas
“Nhân vô Tín bất Lập” Tự xa xưa, tiền nhân đã Đông Phương sinh sống, ứng xử với con người trong vạn cảnh cuộc đời… tự thể nghiệm kinh lịch qua bản thân rồi đúc kết thành những “qui luật” tinh thần để áp dụng trong đối nhân xử thế, lấy: Lễ Nghĩa, Liêm Sĩ, Nhẫn Nại, Khắc Kỷ, Bách Chiết, Bất Khuất làm phương châm rèn luyện tư cách bản thân và lấy chữ Tín làm trọng để tương giao và giữ gìn cho sự liên hệ giữa Người với Người được bền chặt tốt đẹp lâu dài…Nên: ” Nhân Vô Tín Bất Lập” là câu nói trách cứ của người xưa bậc Cha Ông đã thành văn vẻ đẹp truyền lại cho hậu thế làm gương soi là một trong những “Khuôn Vàng Thước Ngọc” để là Người , làm Người và “Thành Nhân Chi Mỹ”…
Tôi chỉ có một bà chị dâu duy nhất, chị kết hôn với người Anh thứ Ba của chúng tôi là Trương Văn Nhì tốt nghiệp Khoá 15 Võ Bị Đà Lạt, phục vụ tại Trung Đoàn 12 thuộc Sư Đoàn 7 Bộ Binh, nên gọi là chị Ba, tên chị là Trần Sâu Lầy, nghe qua họ tên thì biết ngay chị là người Việt gốc Hoa. chị sinh quán tại thị xã Cây Dừa, Quận Cai Lậy, Mỹ Tho, xuất thân từ Trường Sư Phạm Sài Gòn và làm Cô Giáo ngay tại nơi chị sinh trưởng và với quan niệm của người Hoa từ nhiều đời: “Quân, Sư Phụ” được tôn quí, kính trọng…Nên “Cô Giáo Lầy”, chị dâu của tôi được dân chúng trong Quận Hạt và cộng đồng người Hoa quí mến, cư xử chân tình ! Theo lời kể của chị: “:…gia đình Ông Sở, Ông Sơ… thuộc dòng dõi Minh Hương bên Tàu , chạy tỵ nạn nhà Thanh cùng thời với Mạc Cửu,Mạc Thiên Tứ lập nghiệp định cư ở miệt Cà Mau….Cho đến đời Ông Cố, Ông Nội vẫn còn ôm giấc mộng “Phản Thanh Phục Minh”.. .và đến đời thân phụ thì di chuyển về Cây Dừa, Cai Lậy và chị được sinh ra nơi đây…”.
Năm 1975…! Anh tôi đi tù, chị bị “chính quyền” mới cho nghỉ việc dạy học vì là vợ Ngụy, chị chuyển sang nghề may vá tần tảo nuôi ba đứa con còn nhỏ dại…! Sau khi trốn ra khỏi Trại tù “cải tạo” Long Giao… thỉnh thỏang tôi lén lút ghé thăm chị và các cháu, nhìn chị vì quá kham khổ để lo sinh kế cho toàn thể người thân yêu trong gia đình…nay đã gầy rọp người, lưng còm xuống trông giống như người phụ nữ lão hoá tuổi ngoài năm mươi ! Tuy khổ cực khốn khó như thế…! Nhưng cứ sáu tháng một lần, chị vai gánh hai bao bị thức ăn khô, thuốc men…từ SàiGòn ra đến trại Vĩnh Phú (Bắc Việt) thăm nuôi chồng đang bị tù đày khổ sai …không biết ngày nào được thả ra!
Năm 1987, anh tôi được ra khỏi tù, chị đã chuẩn bị sẵn kế hoạch và phương tiện để cho chồng vượt biên bằng đường biển qua sự giúp đỡ từ những gia đình người Việt gốc Hoa mà chị thân thích. Không may mắn chuyến vượt biên bị bể, Anh lại bị bắt và bị giam tù khổ sai thêm ba năm nữa tại Mõ Cày (Bến Tre)…Được tạm tha, anh trở về gia đình với vòng tay quán xuyến buôn tần bán tảo của chị cho đến ngày cả gia đình được sang Mỹ với diện HO5 .Ngày nay, gia đình anh chị tôi đã ổn định, con cái đều đã thành thân và thành nhân với một đàn cháu nội, ngọai đề huề… Có lần tôi hỏi chị: -Bí quyết nào giúp cho chị vượt qua tất cả gian nan để có ngày nay ? Chị cười và nói: – Có gì lạ và là bí quyết chi đâu…chẳng qua chị có 9 đồng chị cố kiếm thêm 1 đồng để đủ 10 đồng rồi chị dấu đi để phòng khi hữu sự, còn tụi em có 9 đồng đi vay thêm một đồng để chén thù chén tạc với bạn bè …tiền vất qua cửa sổ chẳng bao giờ chạy ngược trở vào…! Đó là “triết lý” sống thực tế “đơn giản” của người chị dâu gốc Hoa của tôi.
Ngược dòng thời gian năm 1979: Sau khi vượt trốn trại tù, tôi sống lang thang không nhà không cửa, ngoài vòng pháp luật…thỉnh thoảng dò xét hoàn cảnh tương đối an toàn xong tôi lén thăm chị và hỏi thăm tin tức người thân quyến thuộc và Anh Ba của tôi đang bị giam tù ở Yên Bái, Bắc Việt…tôi được chị lo “mai mối” và giới thiệu tôi với một gia đình người Hoa trong Chợ Lớn giúp tôi có được một việc làm”chui” là cứ đến lúc 5 giờ mỗi buổi sáng sớm, tôi đạp xe đạp đến chỗ hẹn, nhận 3 cây vải “Sa-teng” trắng chở lên Cầu Tre (Phú Lâm) giao cho một xưởng nhuộm lậu, đến buổi chiều lúc 3 giờ trở lại nhận 3 cây Sa-teng đen đem về giao lại cho chủ, cứ mỗi chuyến “giao hàng” như vậy chủ trả cho tôi 25 đồng tiền mới (tiền “cụ Hồ”) để độ nhật qua ngày…Ông chủ gốc người Hoa trạc 60 tuổi gọi là Chú Quảnh, và người em trai là Chú Xồi… Tôi không biết gia đình họ có bao nhiêu người…? Nhưng hai anh em họ sống chung với nhau trong căn phố ba tầng ở đường Triệu Đà, Chợ Lớn, căn phố cũ kỹ với tuế nguyệt thời gian có lẽ đã lâu lắm không có sửa sang tu bổ và xuề xòa với đời sống thường nhật…không một chút xa hoa hào nhoáng như những căn phố toạ lạc trong khu vực…!
Một hôm như thường lệ làm xong phần việc, Chú Xồi trả tiền công cho tôi 25$, nhận tiền xong tôi vội vả đạp xe giông tuốt để “Quân Tử khốn cùng chi ẩm thực” cho ngày nào hay ngày nấy mà…trên đường “thiên lý” với “lý ngựa ô xe đạp” thênh thang “sông hồ” mà thăm thế sự…tôi ghé “quán”Café ven lề đường định “chơi” một cái “xây chừ” (Café đen đá) cho đã cơn ghiền thói tật xa hoa ngày nay là sinh hoạt thường…thường của “Thời Hoàng Kim” trước 30-41975 và khi mà loài khỉ chưa vào thành “Tràng An” thể hiện thói tật dzăng minh “cái nồi ngồi trên cái cốc” khai phóng “Bình Minh Tiền Sử” với “đỉnh cao trí tuệ” là thói tật hoang dã cấu thành quán tính kinh qua nhiều cuộc “trường chinh kách mệnh” đấm đá giết hại để “đấu tranh giai cấp” ban phát sự nghèo đói mạt hạng cho thị dân đã có đời sống tự do, văn minh, sung túc miền Nam…và “Thượng Đế” từ “Giời” cao đã “gây nên cuộc hý trường” tạo “Nạn Hồng Thuỷ Tháng Tư Đen năm 1975” để giúp loài “linh trưởng” vừa mới mon men mó chân ra khỏi hang động để tìm thú, săn mồi…phạm tội rồi “gánh tội” thay cho “Sự Lập Trình” quá ư là tàn nhẫn, vô nhân đạo đầy rẫy khiếm khuyết…với cuộc diệt chủng, phá hư hoại nền Văn Hoá mà bao thế hệ con dân Nước Việt đã y cứ làm bản vị, không quản ngại Xã Thân Chiến Đấu để Bảo Quốc, An Dân, Tồn Chủng, Sống Còn, Nối Tiếp, Tiến Hoá…”Thuợng Đế” đã chết ?!…
Tôi móc túi kiểm điểm “ngân khố” đếm tiền với niềm vui thơi thới vì sao có tới những 50$ ?!!! …và đếm lại thì đúng 50$ chứ không phải là 25$ tiền công thường nhật…? Ở trong hoàn cảnh hiện tại khốn cùng này, tiền không phải là “vật ngoại thân”, được đồng nào hay đồng nấy…hớp vài ngụm café, tôi bỗng giật mình vì chợt nhớ lại lời chị dâu tôi căn dặn:” Em phải nhớ,…làm ăn với người Tàu thì một cắc là một cắc, một đồng là một đồng, phải cho đàng hoàng thành tín, ăn gian, nói dối thì không bao giờ làm ăn với họ được…họ làm ăn với nhau chỉ đơn giản chỉ với một chữ ...”TÍN”...”. tôi bừng tỉnh, cong lưng đạp xe nước rút một hơi trở lại gặp Chú Xồi và hoàn trả 25$ mà Chú đưa “dư” cho tôi…Chú cười thân thiện nhận lại tiền. tôi không biết chị tôi có nói gì với họ về tôi hay không? Nhưng một hôm sau khi tôi giao hàng xong thì Chú Quảnh vui vẻ nói: ” Nị dzào chong dzửa tay dzồi dza ăn cơm dzới Ngộ há, ..”!
Trong bữa cơm gồm cả hai gia đình, họ xí xô xí xào chuyện trò huyên thuyên, tôi mà hiểu được “chết liền”…!!! Xong “tiệc” tôi chào từ giả ra về, Chú Quảnh đưa tôi ra cửa và hỏi nhỏ: “Nị là…có fải là Xĩ Quang Nguỵ chzốn học tập không hả…Tzừng sợ ? Ngộ piết hếch dzồi …từ từ dzồi mình sẽ tính há …”!
Tôi rời nhà Chú Quảnh với nỗi “cực kỳ”căng thẳng và “cảnh giác”có chút e dè lo sợ bị lộ tẩy và sẽ bị bắt trở lại vào tù, vì bọn Việt Cộng xử tù trốn trại rất ác độc ! Tôi tự hỏi ngày mai có nên trở lại nơi này không ? Không, chắc chắn là không. Trên đường đạp xe về bến xe An Đông để tìm chỗ trú ngủ qua đêm, tôi chuyển hướng đạp xe qua bến Phạm Thế Hiển gặp chị tôi để hỏi cho ra lẽ, gặp chị tôi trình bày chuyện vừa qua và lo lắng hỏi xem là chị có nói cho họ biết về thân thế vượt ngục và hoàn cảnh trốn tránh của mình hay không ? chị cười hiền hậu trấn an tôi rồi nói với giọng tự tin và bình thản: ” …Em yên tâm, không sao đâu…họ đang giúp Em đó…”.
Hai tuần sau Chú Quảnh đưa cho tôi một giấy khai sanh giả tên họ mới của tôi là Trần Chỉnh sanh năm 1942, người Việt gốc Hoa. Sau đó tôi được xếp vào danh sách với gia đình Chú Quảnh, Chú Xồi tổng cộng hơn 60 người nam phụ lão ấu lên thuyền ghe đánh cá máy 3 đầu bạc, tách bến rời kinh Miệt Thứ, Rạch Giá ra khơi vượt biên. Thuyền ra khơi an toàn, máy chạy suốt, thuyền lướt sóng phom phom cho đến xế trưa ngày hôm sau thì gặp tai nạn bị gãy bánh lái, cách đảo Phú Quốc chừng 10 cây số về hướng Đông ! Thuyền dừng lại thả neo để sửa chữa thay bánh lái phụ, một chiếc tàu đánh cá quốc doanh Phú Quốc xáp lại gần, tất cả chúng tôi phải ém xuống khoang thuyền, phía trên chỉ năm ba người giả bộ như ngư dân đang đi đánh cá. Tàu đánh cá VC không xáp lại gần, mà chỉ chạy chậm lại ngang ghe chúng tôi vài chục mét, người trên tàu vẩy vẩy tay chào rồi tiếp tục hành trình về hướng Phú Quốc. tôi và Chú Quảnh bò lên phiá sau lái hỏi Anh Lợi, người tài công đã có 10 năm kinh nghiệm đánh cá, Anh nói với chút lo âu: ” …mình phải đi ngay càng nhanh càng tốt, tôi biết thế nào bọn chó đẻ đó cũng gọi báo Công An Biên Phòng…”.
Bánh lái đã được sửa chữa xong sau 15 phút, rồi nhổ neo, nổ máy tiếp tục hành trình vội vả về hướng Nam…Nhưng quá trể ! Hai chiếc PCF (duyên tốc đỉnh) Công An Biên Phòng với lá cờ máu phất phới lướt sóng đuổi bắt phía sau thuyền vượt biên chúng tôi, chúng bắn vài tràng đại liên chỉ thiên đe dọa…và thế là chúng tôi bị bắt tất cả, thuyền bị kéo về đồn CABP Cây Gáo, tất cả mọi người bị tống vào trại giam của Ty Công An Hình Sự Cà Mau phía bên kia cầu sắt, bên này là Chợ Cà Mau !Thời điểm này là lúc phong trào vượt biên bán chính thức đang nở rộ công khai. Người Hoa giầu có của cải tiền bạc giao nộp,cống hiến, lo lót cho “giới chức quyền thế Vc” trong Chương Trình Bán Bến Bãi Vượt Biên, Xuất Cảng Người Hoa Vượt Biên… nên họ từ thành phố xuống Cà Mau được ưu đải như khách du lịch có passport chờ xuất ngọai…!!!
Ghe của gia đình Chú Quảnh là ghe vượt biên lậu, nhưng nhờ “thời điểm thuận lợi” này mà cả gia đình trên ghe của Chú Quảnh được đối xử không đến nổi tệ, bọn CA chỉ lo vơ vét vàng…5 cây…10 cây…tùy theo số lượng thu hoạch để giải quyết vấn đề. tôi không biết gia đình Chú Quảnh và Chú Xồi “làm việc” với bọn chúng cái gì vì mỗi lần Chú Quảnh được gọi lên văn phòng “làm việc” khi trở về phòng giam chật nít không có chỗ nằm họ chỉ nói chuyện với nhau bằng tiếng Tàu…rồi hai ngày sau, đàn bà con nít được CA đưa ra bến xe đò trở về SàiGòn, đám đàn ông bị giữ lại chờ xét xử sau. Trong thời gian chờ “làm việc” Chú Quảnh dặn tôi: “Nị nhớ khai Nị là em dzợ của Ngộ há…Nị là em dzuột của dzợ Ngộ…nhớ lói dzọng lơ lớ…đừng có lói nhiều hả …”!
Sau một tuần thẩm vấn từng cá nhân một, 18 anh em “người Hoa chúng tôi” được ra ngoài lao động vác lúa mang vào nhà máy xay, sau đó khiêng gạo xuống mấy ghe bầu đậu sẵn dưới sông bên cạnh cầu sắt…Bao nhiêu nỗi lo âu ban đầu dần dần vơi đi…tôi bỏ hẳn ý định trốn thoát trại giam lần nữa vì tin rằng sớm hoặc muộn gì dù không biết bao lâu chúng cũng thả chúng tôi ra, lại thêm vào đó tình cảm của tôi với Anh-Em Chú Quảnh càng ngày càng thân mến khắn khít qua những liên hệ đồng thân phận người tù cùng chung một trại giam có ân tình chia bùi xẻ ngọt thời qua và họ đối đãi với tôi như chính anh em thân tình quyến thuộc của Họ! Sau hơn ba tháng lao động chúng tôi được cấp giấy “tạm tha trở về nguyên quán”. Điều này đối với tôi thật như đang nằm mơ ! Vì với tội danh vượt biên thì ít nhất bị đày ba năm khổ sai lao động ở các trại tù cải tạo của miền Tây. Tôi bèn tò mò hỏi Chú Xồi, Chú chỉ trả lời: -“mấy Bả dzề chước…chạy chọt lót đút lo cho tụi mình…”. Về đến Xa Cảng Miền Tây chia tay, Chú Quảnh lại dặn dò tôi: “…Nị nghỉ ngơi dzài ngày dzồi chở lại gặp chúng tôi há …” ! Chú nhét vào túi quần tôi 50$.
Trở về nguyên quán? Nguyên quán của tôi ở đâu ? …chỉ là nơi chốn đầu đường xó chợ, ga xe lửa, bến xe đò, bãi lầy kinh rạch hôi hám và đen tối như tương lai mờ mịt của mình…! Tâm tình nhớ vợ thương con thì tìm tới nhắn với chị Ánh (vợ Hùng Móm), chị Hồng Tố Yến (Vợ TTC), chị Thu (vợ NTN) rồi lén lút hẹn gặp vợ con vài ba tiếng đồng hồ lang thang trong sở thú…!
Một tuần sau tôi mon men trở ra Chợ Lớn tìm Chú Quảnh, đứa con gái Chú Xồi chỉ tôi ra quán café góc đường Triệu Đà-Hùng Vương nơi đây tôi gặp lại họ, Chú Quảnh thấy tôi Chú mừng lắm…!!! Chú nắm tay tôi kéo đi một khỏang khá xa và nói: “Nị đi ngay đi …đừng dzào trong đó…Ngày mai lúc 6 giờ chiều tới gặp Ngộ ở nhà hàng Soái Kinh Lâm…Nị piết chớ…”!
ôi im lặng gật đầu, trở lại lấy xe đạp rồi cứ đạp miết vô ngã hẽm này, ra ngã hẽm khác, len lõi vào giòng xe đạp trên các lộ chính rồi bất ngờ quẹo vào một con hẽm nào đó..Tôi tin gia đình Chú Quảnh và họ là nơi bám víu duy nhất với chút hy vọng mong manh là chỉ có gia đình Chú Quảnh mới có thể giúp tôi thoát khỏi nơi khổ nạn nầy để đến bến bờ Tự Do. Nhưng bây giờ qua sự gặp gỡ vừa rồi tôi hiểu là gia đình của Chú Quảnh đang bị theo dõi gắt gao.
Sau bốn năm giải phóng, nhà hàng Soái Kinh Lâm vẫn sang trọng huy hoàng rực rở như ngày nào. Ttôi bước vào cửa và chạnh lòng ngậm ngùi nhớ lại những tháng ngày của một thời “oanh liệt” xưa cũng tại nơi nầy tôi ăn uống thù tạc với đám bạn hữu cho đến ngất ngưỡng cơn say, đêm khuya giới nghiêm mới lê gót lãng tử come back to sorento: “… về đây khi trong túi không còn su teng, về đây chi hồn gởi lại cave, về đây hỡi mái tole nóng hừng hực và ta phải dối gian với vợ nhà, ôi lãng du không còn ngang tàng”… trở về nhà trong những “ngày nghỉ phép em ơi, những ngày nghỉ phép em ơi thật là ngầu” … ha…ha…ha…thật Hùng Cường –Mai Lệ Huyền…!!!
Tôi ngồi vào chiếc ghế bên cạnh Chú Xồi , đảo mắt nhìn qua một vòng rồi yên tâm vì không thấy có người lạ khả nghi, nhận biết hầu hết là những người cùng tôi vác lúa khổ cực ở trại giam Cà Mau…Chú Xồi ra dấu chỉ một người rồi hỏi tôi: -Nị còn nhớ Chú Xường ngồi bên kia bàn hay không …? Tôi nhận ra và trả lời: -Dạ …tôi nhớ…!!! Chú Xồi hỏi tiếp: -Nị nhớ coi ai ngồi bên cạnh ? Tôi nhận ra và trả lời: -Dạ…Chú Chảnh…!!! Chú Xồi nói tiếp : -Nị ráng nhớ cho kỹ…một lát nữa Nị qua đó nói chuyện chơi…hễ tụi nó nói bảo làm cái gì thì Nị cứ làm y theo lời của tụi nó…không có hại gì đâu. Mấy cái thằng chó chết VC chúng nó đang đánh “Tư Bản Mại Sản” để vơ vét ăn cướp của người ta…chúng nó ra lệnh đóng cửa ba cái hãng nhuộm vải ở Cầu Tre, tịch biên tất cả vải vóc của chúng tôi đang có và sẽ tịch thu tài sản, nhà cửa…rồi tống cổ chúng tôi lên vùng “Kinh Tế Mới”…không biết ở đâu nay mai…Chúng tôi không còn còn giúp cho Nị được nữa ! Đây là hộp Trà Sâm của Anh Chảnh biếu cho anh…có vậy thôi ! Nhớ giữ hộp Trà nầy bên mình…Bây giờ Nị qua bàn nói chuyện với Anh Xường và Anh Chảnh. Chú Quảnh từ một bàn khác liếc nhìn tôi mĩm cười…!!! Buổi tiệc hôm nay là Ngày Sinh Nhật thứ 16 con gái Út của Chú Quảnh.
Tôi nắm lấy bàn tay Chú Xồi siết thật chặt và thật lâu trước khi chỉ biết nói hai chữ: “cám ơn” rồi bước sang bàn Chú Xường. Chú Xường và Chú Chảnh chỉ lớn hơn tôi năm hoặc bảy tuổi, nhưng tôi vẫn gọi bằng Chú theo cách tự nhiên xưng hô thường ngày giao tiếp với cộng đồng người Việt gốc Hoa thân thiện nầy, lại nữa trong thời gian cùng ở chung trong trại tù CA Cà Mau, chúng tôi đồng chung số phận bị nhốt trong cái láng dơ bẩn và ba chúng tôi san xẻ nằm chung một chiếc chiếu rách tả tơi…đêm tối sau cả ngày lao động khổ sai vác lúa, khênh gạo tơi tả …khi ngã lưng xuống chiếu tôi thường hay kể chuyện Tứ Tài Tử Thư lừng danh Trung Quốc như: Thủy Hử, Tam Quốc Chí, Hồng Lâu Mộng, Tây Du Ký… cho họ nghe trước khi im thiếp vào giấc ngủ. Trong bàn tiệc đã sắp xếp dành sẵn cho tôi ngồi giữa Chú Xường và Chú Chảnh, chờ cho tôi yên vị xong, Chú Xường đi ngay vào việc: -Anh có biết nhà hàng Thanh Thế ở chợ Bến Thành không ? Tôi đáp: -Dạ biết. Chú Xường nói tiếp: -Anh nhớ kỹ lời tôi dặn đây, hôm nay là ngày Thứ Bẩy, sáng ngày Thứ Hai tới, anh tới Thanh Thế để gặp tôi và Chảnh, cứ đến đó vào lúc khoảng 10 giờ sáng,nhởn nha uống cà phê, nhớ ăn mặc xuề xòa, râu tóc để nguyên đừng cạo, đừng hớt… Đêm nay nhớ mở Hộp Trà Sâm mà Anh Quảnh biếu cho Anh… nhâm nhi cho đở buồn…”!
Tôi đứng dậy, nhìn một lượt chung quanh rồi nhẹ cuối đầu chào như một sự từ giã không lời…lặng lẽ ra về với bao nỗi buồn vui lẫn lộn bâng khuâng trong lòng cùng với nhiều thắc mắc không thể lý giải…”Họ” là ai: “Tài Phiệt Chợ Lớn” cở như Mã Tuyên hay Mã Sái chăng…? Hay thành viên của Triều Châu Phúc Kiến, hoặc thuộc xã hội đen của Tàu Cộng,, Đài Loan, Hồng Kông…? Sau cùng tôi bỗng mặc kệ phó thác “Họ” là gì đi nữa cũng chẳng sao vì “Họ” đã giúp đỡ cho tôi đang thân phận cá chậu chim lồng có được sinh nhai hiện tại và thật tình cố vượt thoát ra khỏi nước qua chuyến vượt biên bất thành trước đây…suy nghĩ làm chi cho thêm mệt óc, miễn sao mình còn “thong dong” đạp xe đạp tự do trốn tránh, an bình được ngày nào hay ngày đó dưới đường phố mưa sa mà “đéo” thèm thấy cờ đỏ sao vàng trước mắt giăng giăng…! Đêm đó tôi mở hộp Trà Sâm và ngạc nhiên với 10 lượng vàng Kim Thành thứ thiệt nằm trong hộp và chợt nhớ lời Chú Xường dặn:” Thứ hai gặp tôi ở Thanh Thế…”.tôi ngủ chập chờn trên một căn gác thuê bẩn thỉu đầy chuột và dán ở bến xe An Đông.
Lúc xưa còn tại ngũ, khi đơn vị dưỡng quân ở hậu cứ, tôi thường cùng bạn bè la cà…sáng café có pha chút bơ Bretel ở nhà hàng Thanh Thế toạ lạc phía Tây chợ Bến Thành độ trăm thước, buổi trưa ăn chateaubrilland ở nhà hàng Thanh Bạch rồi Café Brodard rồi đến đêm tối nhẩy nhót lã lướt ở vũ trường Vân Cảnh hay hộp đêm Thanh Thanh ở xa lộ… Trong nhóm thường có Mỹ Hôi, Hùng Móm, Hùng Mập, Dũng Tây Lai, Cao P Minh, Xuân Đờn Cò, Ninh Mắt Trừu…một hoặc hai thằng chia nhau một chầu, chỉ một ngày rong chơi cũng vơi đi gần nữa tháng lương, để khi trở về nhà ngồi vào bàn ăn với vợ con thì ôi thôi “một mái nhà tole hai quả tim vàng…nhà em có cơm rau muống với cà…và có con thơ vợ già…vợ thương anh lắm hỡi mấy em cave ngào ngạt mùi hương nước hoa Chanel 5 thơm hơn như múi mít ơi…”! Nhìn thê nhi bèn ái ngại “anh hùng” mặc cảm tội lỗi “lòng chợt từ bi bất ngờ” …!
Nay theo lời dặn của Chú Xường, tôi đến nhà hành Thanh Thế khỏang 10 giờ sáng, khách khứa chỉ lác đác năm ba người ngồi uống cà phê …Tôi tìm cái bàn trong góc có thể nhìn suốt qua cửa kính để quan sát cả trong lẫn ngoài, gọi và thưởng thức hương vị café pha lẫn bơ Bretel cũ, hút hết điếu Samit thứ hai thì Chú Xường và Chú Chảnh cũng vừa đến. họ vẫn tíu ta tíu tí, xí xô xí xào… như mọi khi…Tôi đứng dậy chào, Chú Xường thân mật vội vàng ấn vai tôi ngồi xuống…ngồi xuống…rồi Chú trình bày chuyện quá dài…(tôi nhớ lại và chỉ viết tóm tắt trong phạm vi bài viết này mà thôi) !Chú Xường mở lời : -Đêm qua anh uống Trà Sâm có ngon không ? tôi gật đầu . -Anh có mang hộp trà theo anh không ? -Dạ có . -Anh đưa cho tôi…!
Tôi lẳng lặng làm theo và lần mở cái túi vải “ăn mày” để lấy 10 cây vàng được gói cẩn thận trong cái quần lót dơ bẩn vàng úa đưa cho Chú Chảnh rồi im lặng ngồi nghe…Chú Xường đưa cho tôi một túi giấy trong đó có bốn cái bánh tiêu còn nóng hổi và nói: -Thời giá hiện nay …một cây là 2850 đồng (tiền “già Hồ”) Chúng tôi lấy lại 10 cây này và trả lại Anh bốn cái bánh tiêu, Anh có puồng không ?
Tôi thực không có “puồng” một chút nào, tâm dững dưng trước 10 cây vàng hiện tại “Anh Hùng bơi trong bỉ vận” gặp ân nhân đương tay trợ giúp thì tham lam chắc đã được gì và lợi lạc được bao lâu? Tôi bình thản trả lời vui buồn không hiện trên ánh mắt: -Dạ không, Ngộ không có puồng !!! Chú Xường cười ưng ý và nói tiếp: -Ở dưới bốn cái bánh tiêu là cái đai vải (nguời Bắc gọi là cái ruột tượng) có 30.000 ngàn tiền mặt trong đó, anh nhớ lúc nào cũng cột thật chặt vào hông của anh …chờ chút nữa sẽ có một người nữa đến gặp anh, Anh ấy là Anh Em chú bác với tụi tui, anh Xế Phò sẽ cho anh biết anh sẽ phải làm gì…còn phần tôi (Chú Xường )… Anh phải nhớ kỹ những diều dặn dò của tôi sau đây: Anh Quảnh bảo chúng tôi gặp anh để cho anh biết những gì anh Quảnh đã sắp đặt cho anh. Anh có biết tại sao không ? -Dạ không, Ngộ không piết…!!! -Chỉ vì Anh đã trả lại 25 đồng cho anh Xồi, Anh Xồi lo cho chuyến vượt biên kỳ vừa rồi đó, Anh Quảnh rất lo cho anh nếu bị lộ tông tích thì chỉ có chết…! Anh có biết Thương xá Tam Đa cũ hay không ? -Dạ biết. Chú Xường nói tiếp: -Bây giờ là Cửa Hàng IMEX bán những mặt hàng ngoại quốc mà chúng nó tịch thu của người Tàu chúng tôi ở Chợ Lớn…Thôi uống cà phê đi…!
Thì cũng vừa lúc Chú Xế Phò bước vào, dáng người dong dỏng cao vẻ ngoài trí thức không giống giới thương buôn Hoa Kiều chút nào…Chú nói thông thạo lưu loát tiếng Quan Thoại, Pháp, Việt Nam như người bản xứ. Khi Chú Xường, Chú Chảnh ra về, còn lại một mình tôi với Chú Xế Phò, Chú bắt đầu chất vấn tìm hiểu về tôi: -Anh tên Trần Chỉnh hả ? -Dạ vâng…! Chú mĩm cười, cái cười hàm ý đã biết “tỏng” về đối tượng rồi vậy. Chú hỏi tiếp: -Anh có nói và đọc viết tiếng Anh được không ? -Dạ chút chút…! -Được tốt lắm ! Tôi đang là Trưởng Phòng Quản Trị Công Ty Imex , Thương Xá Tam Đa cũ, theo lời yêu cầu của Anh Quảnh, thứ hai tuần sau anh bắt đầu làm việc dưới quyền của tôi, Anh được cắt đặt làm thủ kho, chỉ có nhiệm vụ mở và khóa cửa kho khi có lệnh xuất nhập hàng của tôi và anh phải ghi lại mặt hàng nào được xuất nhập trong ngày …cứ từ khoảng 10 giờ sáng anh giả bộ ra bên ngoài uống cà phê và giao danh sách đó cho Chú Chảnh, ban đêm anh ngủ lại ở cơ quan cùng với ba nhân viên khác, họ là những công nhân viên từ ngoài Bắc vào, cứ như vậy đi dần…dần quen và biết hết mọi việc tôi sẽ có nhiều việc quan trọng hơn cho anh . . Trước khi chia tay, Chú Xế Phò đưa cho tôi một Giấy Chứng Nhận họ tên Trần Chỉnh là nhân viên Cửa Hàng Imex có đóng dấu, ký tên của Trưởng Phòng Thương Nghiệp Quận Nhất TP HCM và một giấy nhỏ có ghi tên Lý Kim Anh, Trưởng Phòng Công An Chợ Bến Thành.
Rời nhà hàng Thanh Thế, tôi đạp xe chạy loanh quanh với một tâm trạng hoang mang tự hỏi là hung hay kiết, ngạc nhiên lo âu lẫn lộn…?! Nhưng không căng thẳng như khi trước Chú Quảnh hỏi tôi:”Có phải anh là Sĩ Quan Ngụy trốn học tập hay không”? Hiện tại tôi như người đang chới với giữa dòng sông, vớ bám víu được gì cứ giữ lấy để hy vọng thoát cảnh cô nghiệt, phó mặc cho số mệnh an bài mà không cần biết cái đó lành hay dữ vì thân như đã leo lên lưng cọp, đã phóng lao thì phải theo lao, cung tiễn đã giương thì phải bắn thôi …không còn sự chọn lựa nào khác !
Giám Đốc Cửa Hàng Imex là một tên “cán ngố” và luôn cả Ban Quản Trị của hắn cũng “cả thộn” i tờ rít tính toán cộng trừ nhân chia sổ sách lộn tùng phèo ngơ ngáo như “Mán về thành” nhưng bản chất tham lam vô tận, thu vét được cái gì là “ăn” cái đó …! Tôi làm việc với họ chỉ có nhiệm vụ khóa và mở khóa kho chứa hàng hóa theo lệnh Chú Xế Phò, sau đó ra ngoài gặp Chú Chảnh “giao hàng”. Lúc này tôi chỉ có một niềm vui sướng vô ngần là có một việc làm và một chỗ ở an thân không lo sợ bị phát hiện và bị bắt bất cứ lúc nào, cũng trong thời gian này tôi đã áp dụng “Nghệ Thuật Lãnh Đạo Chỉ Huy” để chinh phục những nhân viên từ ngoài Bắc vào một cách dễ dàng… Chú Xế Phò hài lòng và vui lắm !!!Một hôm Chú rủ tôi đi ăn tối, Chú lái chiếc Volwagen màu vàng cũ kỷ chở tôi dạo một vòng chợ Bến Thành rồi trực chỉ Bến Bạch Đằng vào nhà hàng Mỹ Cảnh, Chú đãi tôi một bữa cơm độc nhất vô nhị, không tiền khoáng hậu…!!!Trong nhà hàng đã an toạ sẵn ba người: Tên Nguyễn Tạo là Giám Đốc Imex, với cái mặt chành bạnh cố làm ra vẻ “học thức, quan chức” trịnh trọng nhưng không che dấu được “cốt” ngu si đần độn, tham lam có vết hằn nguyên thuỷ của buổi sơ khai còn leo trèo bẻ cây hái quả không vội vàng hăm hở với đồng loại tiến hoá mà cứ nhỡn nha, nhỡn nhơ từ tốn khoan thai với nhịp điệu Slow …dỡ mình đến làm quen với con trâu cái cày, suốt năm thán glưng trần nhễ nhại mồ hôi lam lũ trên cánh đồng Nông Cống khô hạn …nay hắn làm “quan tham” với cả núi tài vật trong kho mặc sức mà thao túng thu vét…! Người ngồi bên cạnh là tên Trung Úy Lý Kim Anh, Trưởng Phòng Công An Chợ Bến Thành, kế đến là tên Đặng Tư, Trưởng Phòng Tài Chánh Imex. Trên bàn chai Remy Martell đã vơi hơn phân nữa.
Tôi khúm núm bước theo sau Chú Xế Phò chấp tay cuối đầu chào họ.tôi ngồi vào bàn cố giữ thái độ bình thản, chỉ lắng nghe họ bàn luận việc cùng với những suy nghĩ mông lung…và biết là gia đình Chú Quảnh đã giúp tôi quá nhiều, với ơn sâu nghĩa nặng này bao nhiêu kiếp người tôi mới có thể báo đáp được…?! Sau buổi cơm gọi là “tham quan thân mật” đó, tôi có thêm vài việc phải làm theo chỉ thị của Chú Xế Phò. Một buổi sáng như thường lệ khi tôi giao danh sách hàng xuất kho cho Chú Chảnh, hôm nay có thêm Chú Xường và Chú bảo tôi giao lại số tiền mặt mà tôi đang giữ cho Chú, rồi Chú Xường đưa lại cho tôi một danh sách giá cả mua vô, bán ra trong ngày ở thị trường Chợ Lớn. tôi chỉ biết làm theo, không thắc mắc vì tin tưởng thân tình với họ và biết là họ không có mưu sự hãm hại mình và nếu có thắc mắc, nghi vấn cũng chẳng ích lợi gì với niềm tin họ là Ân Nhân đang giúp mình qua cơn hoạn nạn.
Thời gian năm 1979 – 1981…Thân nhân ở nước ngoài gửi tiền về giúp gia đình không gửi được trực tiếp như bây giờ mà dưới hình thức là “Phiếu Imex”, hàng hoá chứa trong kho Imex là hàng thứ thiệt bị tịch thu trong chiến dịch đánh Tư Sản Mại Bản như: Xe cộ, thuốc tây, mỹ phẩm, radio cassette, các cơ phận phụ tùng xe đạp, xe gắn máy, xe hơi, động cơ, máy móc kỹ nghệ, vải vóc và cả trăm mặt hàng khác…đều là hàng nhập cảng từ ngoại quốc có giá trị thương mãi cao. Giới tiêu thụ hầu hết là người đến từ Hà Nội, họ là thân nhân của “quan chức” Bắc Bộ Phủ” khách sộp giai cấp “phú gia” gốc bần nông lớp “người” “thực dân mới” và đám “con buôn” nở rộ sau “chiến thắng” từ “giời” cao” đang chễm chệ, ngự trị trên chóp bu quyền lực và đang giáng xuống những thủ đoạn nham hiểm, trí trá, ác độc hại…bởi căn tính di truyền từ tổ phụ nguyên thuỷ để trừng phạt “Dân Nguỵ” miền Nam đã vượt trội hơn chúng hằng thế kỷ văn minh…! Những mặt hàng đang có trong kho Imex là “quí phẩm” tuy giá cả cao ngất ngư…! Nhưng với những thành quảăn cướp của miền Nam, chúng thủ đắc tràn trề lợi nhuận và tiền bạc nên “giá hàng” Imex chỉ là “của bở” còn “rẽ chán”…! Vì vậy giá thị trường lên xuống theo giờ, ngày bao nhiêu “họ” cũng thu mua…còn những con buôn cò con kiếm lời qua việc bán tem phiếu Imex đều qua tay “Thầu” Chú Xường “làm giá”, Chú Quảnh “cho biết” giá cả mặt hàng trên thị trường và Chú Xế Phò cho lệnh xuất kho, tôi và Chú Chảnh “điều hợp” ra hàng bên ngoài và nếu có “sự cố” gì không “thông thoáng” cần “xử lý” thì đã có tên Trung Uý Lý Kim Anh “giải quyết”…”
Công việc tuy có êm trôi đều và khả quan. Nhưng nỗi lo âu vẫn canh cánh trong tâm mỗi khi rảnh rỗi tự thán: “Không biết bản thân sẽ bị phát hiện và bị bắt khi nào và tương lai rồi sẽ ra sao…” ? Cứ vài ba ngày Chú Xường đến gặp và dúi vào túi áo của tôi vài ba ngàn đồng (tương đương 1 cây vàng), Chú nói đó là tiền lời từ 30.000 đồng “hùn vốn” của tôi. tôi liên lạc và nhờ niên trưởng Huỳnh Bá Long (Khoá 21 Đà Lạt) gửi về giúp vợ con và Cha Mẹ, chị em tôi …và cứ thế rồi thời gian cũng qua dù chưa được trở lại đời sống bình thường như mọi người dân khác và không gần gũi được vợ con !.
Một ngày đẹp trời tháng Ba, năm 1982…tôi đang ngồi uống café dọc vĩa hè trước cửa hàng Imex, bổng có một chiếc xe gắn máy Honda chở hai người đàn ông trờ tới, một người xuống xe , vội vả hăm hởđi đến nắm lấy tay tôi và nói: ” Niên Trưởng theo tôi qua Chợ Cũ làm vài chai Henneckein.”
Tôi có một cảm giác lạnh băng chạy từ đốt xương sống cuối cùng lên đến đỉnh đầu, nhưng định thần nhìn rõ thì ra là NguyễnVăn Định (Khoá 24 Đà Lạt, Tiểu Đoàn 11 Nhẩy Dù) còn người đang chờ ngoài xe là Trần Văn Hợp (Khoá 23 Đà Lạt), tôi mừng rỡ lên xe Honda chở ba chạy qua Chợ Cũ “làm” đĩa cơm sườn,”chơi” vài chai beer con cọp… Hợp móc trong túi sách một tờ giấy, điền tên Trần Chỉnh rồi chở tôi ra bến Thủ Thiêm “tống tiễn” tôi xuống một chiếc ghe chở gạch cát của Công Ty Dầu Khí Vũng Tàu tách bến hướng ra khơi hải hành, đêm đến nhìn ngắm sao trời định vị trời đất “Thiên Địa khôi khôi du du” huớng tầm mắt về chốn “Hồng Lam” quê hương dần mờ xa …chung quanh chỉ còn tiếng sóng biển vỗ mạn tàu làm đau lòng người viễn xứ không được nói dù một lời thì thầm, hoặc tiếng nấc nghẹn trong câm nín từ biệt vợ con, cha mẹ, ông bà quyến thuộc và ân nhân : Chú Chảnh, Chú Xường, Chú Xồi, Chú Xế Phò… Đêm đại dương đen bao la, lạnh lẽo và dưới mặt nước thâm u kia biển vẫn vô tình…! Một tháng sau…đang chờ rời khỏi Đảo Pulau Bidong để sang trại chuyển tiếp Galang II, tôi nhận được thư vợ gởi từ Việt Nam sang: “Anh thương ,Chị Ba (chị Dâu của tôi) có đến thăm Em, cùng đi với chị có một người đàn ông Việt gốc Hoa tên gọi là Chú Xồi, người này đã trao cho em 10 lượng vàng và nói: “… đây là tiền của Anh Út gửi cho chị…”.EmKý tên ………”Nhân Vô Tín Bất Lập Lan Chi ư thâm lâm bất dĩ vô nhân chi bất hương
Quân Tử tu Đạo lập Đức bất khả khốn cùng nhi cải Tiết. Trong ba tháng bị tù khổ sai vác lúa gạo ở Cà Mau, tình cảm của tôi với gia đình Chú Quảnh càng ngày càng gắn bó, thân thiện đối đãi với nhau như quyến thuộc gia đình, mọi người tuy có bị giam cầm và thân phải vất vả lao động “xã hội chủ nghĩa”…Nhưng ẩm thực thì “tư sản mại bản” rõ nét với những bữa cơm chuyên trị: lòng heo phá lấu, heo quay, vịt quay, xá xíu. lạp xưỡng, hải vị tả pín lù…Đôi khi cao hứng tôi bỗng chợt cười khan thú vị !!! Mấy Chú “Thoòng Dành” “thân thương chi giao” ngạc nhiên hỏi tôi: -Tự nhiên sao cười ? Tôi trả lời: -Ở tù kiểu nầy sung sướng hơn trở về nhà.
Chú Quảnh tiết lộ là thân nhân của Chú đã: “… chạy chọt đút lót cho “thằng” Trưởng Ty Công An Hình Sự Cà Mau hết 150 cây vàng rồi…chắc nay… mai tụi mình sẽ được thả dzề rồi…”!! Thời gian trong tù sinh hoạt hằng ngày tôi gần gũi với Chú Xưòng, Chú Chảnh nhiều hơn…hai Chú thân thể nhỏ con ốm yếu lại cùng một tóan lao động với tôi, có lần Chú Xường vác bao gạo bước qua tấm ván gỗ gác từ bờ sông xuống ghe bầu bị trợt chân té nhào xuống sông tôi liền vất bao gạo xuống mũi ghe, nhảy ùm xuống sông vớt Chú ấy lên, ông chủ ghe bầu thông cảm không làm khó dễ mà chỉ nói: – Không sao…không sao…cứ xem như tôi biếu bao gạo đó cho các Anh…tội nghiệp…thân tù tội…tội tù …!
Từ sau đó Tôi-Xường-Chảnh khắn khít như hình với bóng, tôi thường kể cho họ nghe “Chuyện Tàu” …và họ khoái tỷ nhất là truyện kiếm hiệp Kim Dung kèm theo lời bàn và phân tích của “Lão Ngoan Đồng” tân thời Tôi về những nhân vật “Ma Giáo” và “Chính Giáo”…cũng nhờ vậy mà ba tháng tù trôi qua vơi “thân tù tội” như Tô Đông Pha bị “biếm quan” phát vãng đi bán ” lục tàu xá, chí mè phủ” trong nhà lao vậy thôi…giấc ngủ đêm đêm còn hương vị thịt quay, bánh hỏi, phá lấu và lạp vị…!!! Khởi Nghiệp Nhà:
(Viết theo lời kể của Chú Xường và Chú Chảnh) ” Ông Cố Nội của chúng tôi lập nghiệp ở Chợ Lớn (vào khỏang năm 1860) với một cái gánh mua bán ve chai lông vịt, thường ngày thì mua được lông vịt nhiều hơn lông gà vì người Tàu ăn vịt quay nhiều hơn gà.. Khi Ông Nội chúng tôi ra đời thì cái gánh ve chai lông vịt đã trở thành cái “vựa” ve chai lông vịt, sau đó trở thành cái “xưởng” làm chổi lông gà, quạt tay và áo che mưa bằng lông vịt, còn ve chai thì cân ký bán sĩ cho một lò rèn làm chai lọ thủy tinh…và cuối cùng là xưởng dệt tơ vải. Trong khi đó, người em thứ ba của Ông Cố chúng tôi là Ông Cố Ba làm nghề mổ heo, Bà Cố Ba giữ lại lòng heo làm phá lấu kiểu Dương Châu và cho hai người con trai đội mâm đan bằng mây đi bán dạo…sau đó trở thành quán hủ tiếu duy nhất có bán thịt heo quay, thịt vịt quay, lòng heo phá lấu….Đó là tiền thân của Công Ty Nhà Hàng Bát Đạt nổi tiếng sau này..
Khi đến đời Ông Nội chúng tôi (vào khoảng vài thập niên cuối Thế Kỹ 19…1880-1900) thành phố Sài Gòn được hình thành với những dinh thự, công sở, khách sạn nguy nga đồ sộ của mấy Ông Tây-Bà Đầm…vùng Chợ Lớn vẫn còn bùn lầy nước đọng ! Đường xá được chính quyền Tây mở rộng ra đến vùng ngoại ô Thủ Đức, Gò Vấp, Nhà Bè, Phú Lâm…huyết mạch giao thông buôn bán chính là ghe thuyền từ các tỉnh miền tây xuôi ngược lên Sài Gòn tấp nập…do đó mới có thành lập Kinh Chợ Gạo (Mỹ Tho). Cơ sở của Ông Nội chúng tôi phát triển rất nhanh, Bà Nội trông coi cửa hàng buôn bán tơ lụa, có thể nói gia đình chúng tôi lúc đó như là nhà thầu duy nhất cung cấp: gấm, saten, vải lụa…cho các con buôn “Thực Dân Pháp”…trong khi gia đình Ông Cố Ba đang phát triển các tiệm ăn rập khuôn theo kiểu Tàu: Quán ăn và quán trọ Bát Đạt …Gia đình người Hoa Kiều giàu có nhất trong vùng là giòng họ Mã mà lớp hậu duệ sau này là Mã Sái, Mã Tuyên…Đến đời thân phụ mẫu chúng tôi thì gia đình cũng đã khá giả, sáu anh chị em chúng tôi khi lên ba bốn tuổi đã được dạy xử dụng bàn tính của người Tàu một cách rành rọt, chúng tôi học trường Tinh Vỏ, ở nhà nói tiếng Quan Thoại, khi giao tiếp với con buôn thì bằng tiếng Việt hoặc tiếng Tây…Khi Anh Quảnh lấy vợ người Triều Châu thì Ba tôi giao hết chuyện quản trị làm ăn cho anh và Ba tôi trở thành “Ông Trùm” của “Bang Hẹ”…Anh Xồi được giao trách nhiệm sổ sách kế tóan, còn tôi (Xường), Anh Chảnh và cô em út A Cảo làm chủ ba hảng nhuộm vải ở Cầu Tre Phú Lâm…”.
Lời Kết: Qua những câu chuyện kể trên, tôi không biết có phải vì trả lại 25 đồng mà Chú Xồi đã cố tình đưa dư mà cơ duyên, định số đã đưa đẩy tôi gặp gia đình “Họ” rồi cộng sinh làm ăn buôn bán với “Họ” trong quảng đời gần bốn năm trong hoàn cảnh cá chậu chim lồng, nỗi lo sợ bất trắc luôn rình rập từng giờ, từng ngày …cho đến một ngày đột ngột rời bỏ quê hương với sự che chở, giúp đỡ tận tình của “Họ” những người Hoa sinh trưởng và lớn lên trên đất Việt đã bao đời…Trong tư cách cá nhân của bản thân thọ ơn sâu dầy mà Người Ân Nhân bất cầu báo đáp… tôi viết lên bài bầy như một trãi lòng Thuỷ Chung Tri Ơn đến Gia Đình Minh Hương đã phát huy và xiển dương được một trong nét Văn Hoá Tinh Thần Trung Hoa cổ xưa là chữ Tín mà đương đại ở “Thế Giới Tân Kỳ Huyền Ảo” những “Bậc” Thượng Đại Nhân đang ngự trên Tột Đỉnh Quyền Lực đã có mấy ai và chắc gì đã giữ chữ Tín được vẹn toàn…Có phải chăng Văn Hoá Đông-Tây không bao giờ gặp nhau ? … Đất hạn khát cơn mưa lũ, trời âm u cần ánh sáng của thái dương, của tuy tơ tóc nhưng nghĩa son ngàn trùng…
Trong ngôn ngữ lịch sự của người Việt Nam chúng ta gọi người Việt gốc Hoa là: “Hoa Kiều Chợ Lớn”, bình dân thì thường gọi mấy ông là: “cắt chú” , được phiên âm trệch ra từ chữ “Khách Trú” và theo truyền thuyết xa xưa người Hoa thường “đi” qua các thương cảng của Việt Nam để giao thương bằng tàu, thuyền và phải neo ngoài cửa khẩu, chờ cho quan quân Việt kiểm soát xong, mới cho phép nhập cảng một lượt là 3 tàu, thuyền…dần dà thuận tiện quen miệng dân Việt gọi “Họ” là: “Ba Tàu” và phải chăng từ dó mới có danh từ: Chú…Chú Ba Tàu, Chú Chệt,…và sau nầy khi trào phúng thì gọi là “Ba Tàu Chợ Lớn” …Xứng danh là gì chăng nữa họ vẫn là Họ. Họ vẫn giữ phong tục tập quán của Giống Nòi Hán và Văn Hoá Trung Hoa tốt đẹp từ hằng nghìn năm qua cho đến ngày nay….dù đã trải qua từ những triều đại: Hán-Đường-Tống-Nguyên-Minh-Thanh…đến quốc nạn “Bát Quốc Phân Thây” và phân nhánh Hồng Kông, Macao, Đài Loan, …toàn lục địa bị chìm đắm dưới họng súng bạo quyền “Thời Đại Cộng Sản” thật là đáng tiếc !
Những người Hoa thiện nhân cho dù sinh sống tha phương ở bất cứ nơi đâu cũng lấy gia đình làm đơn vị căn bản để từ đó vươn lên trở thành “Bang”…nhỏ lớn tùy kỳ thời, tùy kỳ thế, . Cha Mẹ, Anh Em, Vợ Chồng, Con Cái đùm bọc che chở cho nhau, để từ một gánh ve chai lông vịt hay một cái mâm mây bán dạo lòng heo phá lấu …rồi phát triển trở thành những Đại Phú Gia. Sinh hoạt thương trường, giao dịch kinh tế, và những khế ước của họ được thực thi giữ đúng bởi một chữ Tín nhất là trong sinh hoạt các Bang, Phái đã có tự xa xưa…Đức tánh tốt của họ là cần cù nhẫn nại, chắt chiu dè sẽn dành dụm, không quản ngại nghề nghiệp lớn nhỏ, sang hèn, không khoe khoang xa hoa phung phí…quí chuộng việc buôn bán làm trọng, thường khởi nghiệp từ việc buôn bán nhỏ từ từ đến buôn bán lớn rồi phát triển trở thành công ty, xí nghiệp, hảng xưỡng,…
Nhưng người Hoa sinh sống ở Việt Nam trong suốt Thế Kỷ 20 chưa và không có một dịch vụ hoặc hình thành nào liên quan đến công nghiệp nặng chỉ chú trọng về việc trao đổi buôn bán hàng tiêu dùng gia đình . Họ tích lũy tài sản theo truyền thống cha truyền con nối, cho đến khi sự tích lũy tiệm tiến này trở thành một gia sản khả dĩ có thể trở thành một hội viên trong hệ thống thương mại lớn của các Bang, Phái…Dĩ nhiên trong sự buôn bán làm ăn sẽ có nảy sinh sự cạnh tranh giành giật để được lợi nhuận và ít khi xẩy ra trong cộng đồng của họ. Nhưng nếu có, họ thường giải quyết trong nội bộ, ít khi để đến cửa quyền tranh tụng nhờ luật pháp can thiệp, họ không thích tranh tụng kiện cáo, có những trường hợp liên quan đến pháp luật chính quyền thì Bang của họ thương lượng để mọi việc “trôi qua”, sau đó họ giải quyết nội bộ bằng những biện pháp chế tài, cô lập vì “Bất Tín”, nặng nề lắm mới có vụ thanh toán. Gia đình hay cá nhân nào phạm vào chữ Tín thì chỉ có nước đi ăn mày!
Ngày nay Trung Hoa lục địa (Trung Cộng), Đài Loan, Hồng Kông, Ma Cao…đều có chính quyền riêng, người dân sinh ra, lớn lên học hành thành đạt từng bước… từng bước họ tham gia chính quyền từ hạ đến thượng tầng cơ sở. Nhưng đối với người Hoa Kiều ở hải ngoại (theo sự hiểu biết của tôi) như Việt Nam, Châu Mỹ, Châu Âu, Châu Úc…họ không muốn tham gia vào chính quyền dù có mãi lực “đồng tiền có thể mua tiên cũng được” . Thí dụ như ở Indonesia, người Hoa Kiều chỉ có khoảng 3% dân số mà nắm giữ 70% tài sãn của đất nước này và tài tình sở trường của họ mà chúng ta phải “khâm phục” là họ xử dụng mãi lực đồng tiền đút lót, mua chuộc làm thân với những giới chức chính quyền sở tại một cánh trơn tru êm thắm và điều phối sinh hoạt cộng đồng Hoa Kiều có tôn ty trật tự cũng nhờ ở các Bang, Phái và “Luật” của Bang không khác gì xã hội đen Mafia…Nhưng áp dụng để trừng trị kẻ gian bội Tín rất nghiêm khắc chắc chắn hơn phim ảnh God Father của Italy rất nhiều.
Còn Người Việt Nam mình ???!!! Trải qua 100 năm dưới sự đô hộ thực dân Pháp, 30 năm với sự hiện diện của Mỹ (19541974)…Ngày nay Dân Việt bị trong nước bi bạo quyền Việt Cộng cai trị “hà chính ư mãnh hổ”…! Tại hải ngoại có gần 4 triệu người Việt đang định cư sinh sống và thăng tiến thành công khả quan tốt đẹp…Nhưng trong chúng ta cũng đã có bao nhiêu người trước và sau “Cuộc Đổi Đời” vẫn vì miếng đỉnh chung danh lợi thực-ảo …đã bất nhân, bất nghĩa, bất tín, bất lương và nhiều bất…đang hoạt đầu chính trị, phân hoá Người Việt đến tận cùng của thảm hoạ chia rẽ và có Vĩ Nhân nào có thể xuất thế để Phục Hưng, Phục Hoạt cho Dân Tộc-Đất Nước Việt Nam…? Hỡi những “vĩ nhân” họ Đỗ tên Thừa đang đăng đàn với cương lĩnh nguỵ biện: Họ đỗ thừa cho Chế Độ Miền Nam Việt Nam có nhiều tham nhũng…!
Họ đỗ thừa cho Xã Hội Tây Phương làm cho Tam Cương Ngũ Thường đảo lộn…! Nhưng Họ không bao giờ dám “đỗ thừa” cho chính mình: Ta là kẻ Vong bản, Vong thân, Vong quốc…!
May quá !… tôi học được thêm những bài học sơ đẳng từ gia đình Chú Quảnh và tự hỏi còn có bao nhiêu “Gia Đình Người Việt Gốc Hoa” như thế trong cộng đồng người Trung Hoa đang sinh sống trên đất nước Việt Nam thân yêu cho dù đang sống dưới chế độ “chó má” Việt gian bán nước …? Đêm đêm chong đèn “diện bích” tự quán xét “Bản Lai Diện Mục” chính mình ôn cố tri tân tìm trong “Cảo Thơm Lần Giở Trước Đèn” học nghiệm qua cảnh ngộ, trường đời ba chìm bẩy nổi “Quân Tử Thức Tự Đa Ưu Hoạn”…nên cố tránh và khước từ tam vong nói trên, mạn bút viết nên đôi dòng đóng góp thêm cho Đời chút “cỏ thơm” chủ quan khiếm khuyết…mong lượng thứ…
Kính thay.
MũĐỏ Út Bạch Lan
Source: http://nguoiphuongnam52.blogspot.com/2016/01/chu-tin-mu-o-truong-van-ut.html