Chính sách chiếm đoạt nhà cửa, đất đai của CSVN
Sau ngày chiếm được miền Nam Việt Nam ngày 30/4/1975, CSVN đã ban hành Quyết định số 111/CP ngày 14/4/1977 V/v Ban hành chính sách quản lý và cải tạo Xã hội chủ nghĩa đối với nhà, đất cho thuê ở các đô thị của các tỉnh phía Nam đã qui định tại phần III như sau :
“
III. ĐỐI VỚI NHÀ, ĐẤT CỦA CÁC ĐOÀN, HỘI TÔN GIÁO
Để bảo đảm thống nhất quản lý nhà cửa, bảo đảm tôn trọng tự do tín ngưỡng và căn cứ vào các chế độ, chính sách khác của Nhà nước, việc quản lý của các đoàn, hội tôn giáo ở các tỉnh phía Nam được quy định như sau:
1. Nhà nước bảo hộ mọi nhà thờ, chùa chiền, miếu mạc, thánh thất được thực sự và thuần tuý dùng vào việc thờ cúng hành đạo.
2. Nhà nước tịch thu toàn bộ nhà đất của các Đoàn Hội các tổ chức không được Nhà nước thừa nhận và cho phép hoạt động.
CSVN cũng không quên tài sản, nhà đất của quân, dân, cán chính thuộc chế độ tự do tại miền Nam Việt Nam, đã qui định tại phần IV của Quyết định số 111/CP như sau:
IV. ĐỐI VỚI NHÀ, ĐẤT CỦA CÁC TỔ CHỨC VÀ CÁ NHÂN THUỘC BỘ MÁY CAI TRỊ CỦA NGUỴ QUÂN NGUỴ QUYỀN VÀ ĐẢNG PHÁI PHẢN ĐỘNG
1. Mọi loại nhà cửa, đất đai trước ngày Giải phóng do chính quyền Mỹ nguỵ quản lý hoặc dành cho những tổ chức hay cá nhân, thuộc nguỵ quân nguỵ quyền và các tổ chức đảng phái phản động sử dụng, nay đều là tài sản công cộng, do Nhà nước trực tiếp quản lý.
2. Nhà cửa, đất đai của những người sau đây đều do Nhà nước trực tiếp quản lý:
– Sĩ quan nguỵ quân cấp từ thiếu tá trở lên.
– Sĩ quan cảnh sát từ cấp trung uý trở lên.
– Cán bộ thuộc bộ máy cai trị của nguỵ quyền đã giữ chức vụ, từ Chủ sự phòng cơ quan Trung ương, Ty phó, Quận phó trở lên.
– Các phần tử ác ôn, mật vụ, tình báo, chiêu hồi cố tình phản cách mạng.
“
Mặc dù đã rõ ràng xác định nhà cầm quyền tôn trọng mọi nhà thờ, chùa chiền, miếu mạc, thánh thất được thực sự và thuần tuý dùng vào việc thờ cúng hành đạo và chỉ tịch thu nhà đất của các Đoàn Hội và các tổ chức không được Nhà nước thừa nhận và cho phép hoạt động.
Nhưng nhà cầm quyền CSVN đã giải thích họ căn cứ vào tinh thần của chính sách “ xóa bỏ tàn tích chiếm hữu ruộng đất và các hình thức bóc lột thực dân phong kiến ở miền Nam Việt Nam ” để tiến hành việc chiếm đoạt tài sản và bất động sản của các cơ sở tôn giáo không bị cấm hoạt động suốt từ năm 1976 cho đến nay 2018, đã 43 năm qua, chính sách của CSVN không hề thay đổi, chỉ khác là hành vi cưỡng chiếm đất đai, nhà cửa của các cơ sở tôn giáo như Phật giáo, Thiên chúa giáo và của nhân dân vô tội ngày càng trở nên mạnh bạo, dã man và công khai coi thường luật pháp hơn thời kỳ 1976 – 1980 rất nhiều.
Cũng vì lý do này, trong nhân dân đã gọi Quyết định số 111/CP là quyết định cướp đoạt tài sản của nhân dân một cách trắng trợn.
Cụ thể CSVN đã công khai chiếm đoạt đất đai và trụ sở tôn giáo của:
1/ Tổng giáo phận Hà Nội:
** Cuối năm 2007, Tòa Tổng Giám mục Hà Nội đã yêu cầu nhà cầm quyền thành phố trả lại Tòa Khâm sứ đã bị nhà cầm quyền chiếm dụng làm nơi ăn chơi nhảy múa, khiêu khích cơ sở tôn giáo tôn nghiêm tại đây và sau đó bán cho một cơ sở tư nhân
** Mặc dù Tòa Tổng Giám mục Hà Nội gửi đơn kiến nghị đề ngày 5/11/2018 tới bí thư thành ủy và chủ tịch UBND/TP Hà Nội, để phản đối việc nhà cầm quyền ngang nhiên xây dựng trên đất đai và cơ sở của Tòa Tổng Giám mục Hà Nội. Đơn này do Đức Hồng y Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Tổng Giám mục Hà Nội, và Đức Giám mục phụ tá Laurenxo Chu Văn Minh ký tên, thay mặt cho hàng linh mục Tổng Giáo phận Hà Nội và toàn thể giáo dân.
2/ Các cơ sở tôn giáo tại Thủ Thiêm
3/ Đan viện Thiên An, Huế.
Hơn 107 ha đất – rừng thông thuộc quản lý và sở hữu của Đan viện Thiên An bị nhà cầm quyền cs “ tiếp quản ” từ năm 1976 cho đến nay vẫn chưa trả, thậm chí họ còn muốn “ cướp ” khu đất này thông qua Cty TNHH MTV Lâm trường Tiền Phong dưới sự “bảo kê” của các cấp có thẩm quyền tỉnh Thừa Thiên Huế để biến đất của Đan viện Thiên An thành đất “tư”.
4/ Dòng Đồng công
Vụ án Dòng Đồng Công
Bà Lina N Nha Trang đã góp ý về lịch sử của Dòng Đồng công như sau :
Dòng Đồng Công do linh mục Đa Minh Maria Trần Đình Thủ thành lập năm 1953 tại Việt Nam.
Ai cũng biết mỗi nhà Dòng thuộc Thiên chúa giáo đếu có nhiều bất động sản, Dòng Đồng Công cũng vậy. Năm 1970 Dòng thiết lập cư xá sinh viên Rạng Ðông tại Ðà Lạt để giúp các sinh viên nghèo có nơi cư trú theo học đại học Ðà Lạt. Dòng lập một tu viện tại Ðồng Lạc thuộc quận Di Linh, tỉnh Lâm Ðồng, từ năm 1971. Tu viện này toạ lạc trong một khu đồn điền rộng 47 mẫu tây trồng trà, cà phê, bơ, mít… mà Dòng đã mua lại của một người Pháp.
Sau ngày 30/04/1975, miền Nam bị rơi vào tay CSVN thì đến ngày 02/06/1975, Cha Đa Minh Trần Đình Thủ bị CSVN bắt bỏ tù tại Di Linh, Lâm Đồng cùng với 52 người của nhà Dỏng.
Ngày 29/04/1977 Cha Đa Minh được trả tự do về sống với anh em Dòng tại Thủ Đức. Toàn bộ bất động sản tại tình Lâm Đồng bị CSVN chiếm đoạt.
Sau vụ án Dòng Đồng công tại Thủ Đức, Cha được CSVN trả tự do vào năm 1993 và sống tại Thủ Đức cho đến ngày thứ Năm 21/06/2007, đã từ trần tại bệnh viện Nguyễn Tri Phương.
Qua sự kiện CSVN vẫn còn và đang thực hiện chính sách chiếm đạt đất đai, cơ sở tôn giáo trên toàn cõi VIệt Nam, chúng tôi nạn phép kể lại câu chuyện “Vụ án Dòng Đồng công“ mà chúng tôi đã tham gia vụ án này để bảo vệ linh mục Trần Đình Thủ để quí vị thấy rõ được dã tâm và mưu mô gian xảo của nhà cầm quyền CSVN như thế nào để lo liệu trường hợp này có thể tái diễn với mình hay không.
Là một phật tử nên tôi không hiểu biết nhiều về Thiên chúa giáo, chỉ biết lờ mờ Thiên chúa giáo có nhiều Dòng, chẳng hạn Dòng Chuá Cứu thế, Dòng Mến Thánh giá, Dòng La san, Dòng Đa minh, Dòng Đồng công, nhưng tôi vẫn luôn tin có Thượng đế, là đấng tối cao đã an bài cho mỗi con người có một số mệnh riêng trong cuộc sống tạm bợ ở cõi trần gian ô trọc, con người, dù có tài giỏi hay cù lần, dù có thông minh, khôn ngoan hoặc ngu si, đần độn, dù có lanh lợi hay chậm chạp, vẫy vùng cho lắm, cũng không thoát khỏi số trời đã định sẵn.
Tại Việt nam, chỉ có các tu sĩ quốc doanh mới dạy tín đồ tin theo Bác và Đảng, còn các tu sĩ chính thống của các tôn giáo luôn đòi hỏi nhà cầm quyền tôn trọng tự do tín ngưỡng và không can thiệp vào những hoạt động thuần túy tôn giáo.
Trong nước Việt nam hiện nay, những tín đồ Thiên chúa giáo và Phật giáo Hoà hảo là những người có tinh thần chống Cộng triệt để hơn những tín đồ của các đạo giáo khác, là một điều không ai có thể phủ nhận, kể từ những năm trước 1975, và sau ngày 30/04/1975, CSVN cũng ra sức làm lu mờ ảnh hưởng của Tòa thánh Vatican đối với tín đồ Thiên chúa giáo tại Việt nam, nên đã cố gắng bằng mọi cách để đặt Thiên chúa giáo, nói riêng, và mọi tôn giáo khác, nói chung, dưới sự lãnh đạo độc tôn của Đảng và Nhà nước.
Vì lý do nào mà CSVN lại ra sức tiêu diệt Thiên chúa giáo?
Chính vì Thiên chúa giáo là khắc tinh của CSVN. Để giải thích tường tận thì phải tốn rất nhiều giấy mực, nên chỉ xin được tóm tắt những ý chính:
Giưã hai tôn giáo lớn tại Á châu là Phật giáo và Thiên chúa giáo, không ai có thể chối bỏ một sự thật rằng Thiên chúa giáo có tổ chức qui củ, từ một phạm vi nhỏ hẹp trong từng họ đạo hoặc giáo xứ, cho đến địa phận, các giáo dân đã tuân thủ giaó lý, tôn trọng những người chức sắc trong họ đạo và tuân lời vị cha xứ, giám mục địa phận triệt để.
Hơn nữa, là một sinh vật, muôn loài đều muốn có một cuộc sống vĩnh cửu, con người luôn đặt câu hỏi rằng ta từ đâu đến cái thế gian trần tục này và sau khi chết, sẽ đi về đâu? Câu hỏi đặt ra thuộc về đời sống tâm linh, nên câu giải đáp cũng phải thuộc về đời sống tâm linh. Cuộc sống vĩnh hằng là cuộc sống trên thiên đàng, và chỉ có đấng tối cao mới cứu rỗi được mọi sinh vật, trong đó có con người.
Để sau khi chết được sống trên thiên đàng vĩnh cửu, người dân phải luôn tuân lời vị lãnh đạo tinh thần, là ngươì có nhiệm vụ dẫn dắt con dân trong cuộc sống tạm bợ tại thế gian theo hướng đi của đạo giáo. Vì lý do này, lời nói của những vị tu sĩ, nói chung, các Linh mục, Giám mục…luôn có uy tín và giá trị đối với các tín đồ, và tín đồ đã tuân lời những vị lãnh đạo tinh thần bằng chính trái tim của họ. Đó là trở ngại trong việc tuyên truyền làm cho người dân tin và trung thành với Đảng Cộng sản.
Đối với những giáo điều, triết lý duy vật của người Cộng sản, Chúa và Phật không đem lại cơm áo cho con người, chỉ có sức người mới làm ra của cải, vật chất, mà chỉ có Đảng Cộng sản là đảng duy nhất, tập trung tầng lớp công nông, thành phần đông đảo nhất trong nhân dân, có nhiệm vụ dìu dắt nhân dân đến bến bờ tự do, hạnh phúc, theo chủ nghiã Cộng sản ưu việt.
Theo con người Cộng sản, có đi theo Đảng dẫn dắt thì mới có gạo cơm để ăn, có áo để mặc, mà họ vẫn nói với những người tù binh trong các trại gọi là “Trại cải tạo: và dạy bảo người dân là ”Với sức người, sỏi đá biến thành cơm” và những người tôn thờ chủ nghĩa Cộng sản đã quên mất người Việt Nam ta có câu tục ngữ “ Mưu sự tại Nhân, thành sự tại Thiên”.
Đã nhiều năm trôi qua, kể từ khi CSVN chiếm được miền Bắc, rồi xâm chiếm miền Nam, Đảng và nhà cầm quyền vẫn ra sức thực hiện kế hoạch thống nhất các tôn giáo đặt dưới sự quản trị thống nhất của Đảng và nhà nước, thông qua một tổ chức của Đảng, có tên là Mặt trận Tổ quốc, bằng cách khuyến dụ các tu sĩ, thu hẹp hoạt động của tôn giáo bằng hình thức mượn đất đai thuộc sở hữu của giáo hội rồi không trả lại theo kiểu “Để lâu, cứt trâu hoá bùn”, hoặc bằng đe dọa, bằng bạo lực trấn áp, dưới danh nghiã một vụ án hình sự nào đó, vừa chiếm được đất đai, vừa đàn áp tinh thần các tu sĩ và tín hữu để dần phải khuất phục, tuân theo mọi chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, để bản thân và thân nhân trong gia đình được yên thân.
Ngay sau khi chiếm được miền Nam, CSVN đã tiến hành hai việc họ cho là tối quan trọng là cải tao tư sản công thương nghiệp tư bản tư doanh và tước đoạt đất đai thuộc sở hữu của giáo hội, đồng thời, bôi nhọ, phỉ báng, cố tình gây mấy uy tín của các linh mục đạo Công giáo, cụ thể là họ đã cho sản xuất phim truyện ” Ngày lễ thánh ” đem trình chiếu khắp nơi tại Việt nam.
Nằm trong chủ trương bôi nhọ tôn giáo, những cựu quân cán chính bị tù tại các trại cải tạo chính trị khắp nơi tại miền Nam đã bị bắt buộc phải xem từ đầu cho đến hết phim “Ngày lễ thánh”, nhưng nhiều lần, đoàn chiếu phim lưu động đã bị giáo dân ném đá, phải ôm máy chiếu phim bỏ chạy khi chiếu phim này tại các nơi đông dân cư là giáo dân Thiên chúa giáo.
Phim Ngày lễ thánh do nữ tài tử Trà Giang thủ vai chính, diễn xuất trong vai một cô gái mới lớn, xinh đẹp, ngây thơ, trong trắng, và là một con chiên ngoan đạo, sinh sống tại một vùng thôn quê có một nhà thờ đạo Thiên chúa, do một vị linh mục quản nhiệm. Trong giáo xứ này, những con chiên nào được đeo một cái thánh giá trước ngực ”Tử vì đạo” sẽ được giáo dân tôn kính, trọng vọng. Cha xứ tại đây là một kẻ háo sắc, đa dâm, để chiếm được ngươì thiếu nữ đồng trinh này, đã nói với cô gái rằng ”Cha là đại diện cho Chúa, con hiến thân cho Cha tức là hiến thân cho Chúa”, và con chiên ngoan đạo này đã hiến thân cho Cha xứ , sau đó, được ban cho cái thánh giá Tử vì đạo.
Trong thời gian vài năm gần đây, mọi ngươì đã rõ tình trạng CSVN đàn áp tôn giáo, đặc biệt là Thiên chúa giáo. Đây không phải là lỗi lầm của vài cán bộ địa phương, cơ sở đã lạm dụng chức vụ và quyền hạn để chiếm đoạt đất đai, hành hung giáo dân, bỏ tù Linh mục quản xứ, mà chính là chủ trương của Trung ương Đảng và nhà cầm quyền CSVN đang thực thi chính sách chiếm dụng đất đai của giáo hội.
Tiếp theo vụ án Linh mục Tadeo Nguyễn văn Lý tại Giáo xứ Nguyệt Biều, nhà cầm quyền CSVN rập khuôn tiếp diễn vở kịch đàn áp tôn giáo với Giáo xứ Kế Sung, do Linh mục Đặïng văn Nam làm quản xứ, cũng thuộc Tổng giáo phận Huế, cũng chỉ vì mục đích chiếm đất đai của giáo hội, và hiện nay, đang tiến hành kế hoạch theo kiểu “bổn cũ soạn lại” đối với Giáo xứ Thái Hà.
Trong giai đoạn Đảng và nhà cầm quyền CSVN đang ra sức đàn áp tôn giáo bằng bạo lực, chúng tôi cố gắng hồi tưởng lại quá khứ hơn hai mươì năm qua để xin kể lại hầu quí độc giả vụ án Dòng Đồng công tại huyện Thủ Đức, thành phố Sàigon, là chứng tích đầu tiên tại miền Nam mà nhà cầm quyền CSVN tiến hành xóa bỏ, hoặc thu hẹp hoạt động của Thiên chúa giáo, bằng bạo lực trấn áp do công an và Toà án thực hiện để chiếm đoạt tài sản của giáo hội.
A/ Tin đồn có biểu tình của tín đồ Thiên chúa giáo tại Thủ đức
Khoảng gần giữa năm 1987, bà con tại Saigon xôn xao bàn tán một sự việc xảy ra tại Thủ Đức, người thì kể rằng tín đồ Thiên chúa giáo biểu tình, người thì nói công an đã bao vây Dòng Đồng công không cho ai ra vào, lại có nguồn tin có xô xát giữa công an và giáo dân, cả hai bên đều có ngươì bị thương.
Một thời gian ngắn sau đó, báo Saigon giải phóng tường thuật về vụ việc xảy ra tại Dòng Đồng công, Thủ Đức rằng công an đã khám phá tài liệu dạy giáo lý cho tín hữu của Dòng Đồng công do Linh mục Đa Minh Maria Trần đình Thủ soạn thảo, mang tính chất tuyên truyền phản động chống Đảng và nhà nước XHCN/VN, và đã phong tỏa khu vực Dòng Đồng công vào ngày 15/5/1987, tịch thu lương thực, khoảng 5 tấn gạo, tín hữu Dòng Đồng công đã bao vây, ngăn cản công an thi hành nhiệm vụ, dùng vũ khí chống lại lực lượng công an huyện Thủ đức phối hợp cùng Công an thành phố Hồ chí Minh, đánh trọng thương 3 chiến sĩ công an rồi vứt bỏ tại nghiã địa, cùng hình chụp trên báo Saigon Giải phóng cho thấy các vũ khí mà các tín hữu sử dụng chống lại công an là hai cái ná mà các thanh thiếu niên thường dùng với viên sỏi để bắn chim sẻ, và vài cái gậy dài khoảng 01 thước. Linh mục Trần đình Thủ đã bị bắt giam ngày 02/07/1987 và bị giam giữ tại khám Chí hoà.
Một ngày nọ, lúc đó đã gần 10 giờ đêm, gia đình tôi đã sửa soạn đi ngủ, thì một người thân chủ cũ, một tín đồ Thiên chúa giáo, đã dẫn một vị khách đặc biệt đến nhà tôi, đó là một người đàn ông, da dẻ trắng trẻo, dáng người tầm thước, và trông hiền lành như một vị tu sĩ. Tôi biết rõ người thân chủ này, đó là một giáo viên tại chức, và tôi tin tưởng người được dẫn đến gặp tôi hiện đang ở trong hoàn cảnh hoạn nạn, cần được giúp đỡ.
Sau phần giới thiệu, tôi được biết người đó là một vị tu sĩ, là một vị Thày của Dòng Đồng công, và vị linh mục trưởng Dòng là Tổng Giám đốc Trần đình Thủ, người Việt nam đầu tiên sáng lập ra một Dòng tu của Thiên chúa giáo.
Sau khi biết được ý định của Thày đến gặp tôi là để mong trợ giúp cho Dòng Đồng công đang gặp hoạn nạn. Tôi đã góp ý rằng nếu Thày hy vọng vào sự giúp đỡ của bất cứ ai có thể làm cho Cha bề trên được vô tội, chỉ là hoài công, vô ích, vì mục tiêu của vụ án này không phải là Cha có thực sự phạm tội này, tội nọ hay không, mà mục tiêu của Đảng và Nhà nước là làm cách nào có thể chiếm hữu được vùng đất đai rộng lớn của Dòng Đồng công tại Thủ Đức, mà không gặp phải sự chống đối của giáo hữu Dòng, vì thế, một hay nhiều tội danh nào đó có thể sẽ được áp đặt cho Cha, chỉ là lý do được tạo ra để tiêu diệt hoặc trục xuất Dòng Đồng công nhằm chiếm đoạt vùng đất béo bở tại Thủ Đức.
Thời gian này, gia đình chúng tôi vừa nhận được giấy phép xuất cảnh đi Hoa Kỳ của nhà cầm quyền CSVN, đang chờ phái đoàn Mỹ gọi phỏng vấn tại Saigon.
Trước hoàn cảnh này, tôi thực sự rất lo sợ bởi vì nếu vì lòng nhân đạo mà dấn thân vào vụ này, chẳng may bị CSVN biết được thì họ sẽ thu hồi toàn bộ giấy phép xuất cảnh đã cấp ra, còn bản thân mình sẽ bị vào tù làm khổ cho cả gia đình.
Tôi giải thích rõ cho vị thày này biết những gì có thể xảy ra cho gia dình chúng tôi, và xin thày đi tìm người khác.
Vị thày cho biết đã đến nhờ vả tại Phòng bào chữa viên nhưng không tin tưởng họ, nên đã năn nỉ tôi cố gắng giúp đỡ cho Dòng. Sau cùng, với máu “anh hùng rơm”, bất chấp hiểm nguy, tât cả phó mặc cho Thượng Đế an bài, tôi đã nhận lời trơ giúp cho Dòng Đồng Công và yêu cầu vị Thày phải hết sức thận trọng mỗi lần đến gặp tôi. Vị Thày hứa rằng mỗi lần muốn đến tìm tôi, thày sẽ đến vào buổi tối, nhưng sẽ phải rời nhà Thày từ sáng sớm, thày sẽ đi loanh quanh hết chợ này đến chợ khác, hết ngõ hẻm này đến ngõ hẻm khác nhằm tránh sự theo dõi của bọn Công an và trinh sát.
Sau cùng, chúng tôi đồng ý vấn đề cần phải quan tâm là sẽ làm bất cứ điều gì có thể làm được, nhằm tránh né cho Cha bề trên Trần đình Thủ không bị buộc vào những tội làm ô uế thanh danh của một vị tu sĩ Thiên chúa giáo, giống như CSVN đã từng bắt giữ một vị Linh mục tại Định quán thời gian ngắn trước đó về tội dụ dỗ gái vị thành niên, khi loan tin đã tìm thấy chiếc áo dài của một cô gái mắc trên cái mắc áo trong phòng ngủ của vị Linh mục.
B/ Diễn tiến sự việc
Theo lời tường thuật của vị Thày thì CSVN đã căn cứ vào một vài câu trong sách kinh do Linh mục Trần đình Thủ biên soạn để giảng dạy giáo lý cho giáo dân phải đặt hết lòng tin vào Chuá, mà Đảng CSVN suy diễn rằng khi linh mục đã dạy giáo dân đặt hết lòng tin vào Chúa là đã cố tình dạy bảo các con chiên không tin vào Đảng, không tin vào vào nhà nước XHCN, nghiã là lợi dụng tôn giáo để tuyên truyền chống Đảng và Nhà nước CH-XHCN Việt Nam.
Nhà cầm quyền tiến hành việc đình chỉ tạm thời mọi hoạt động của Dòng Đồng công tại Thủ đức bằng cách niêm phong cơ sở và tịch thu tài sản của Dòng, đó là ngày 15/05/1987, căn cứ vào một án lệnh đặc biệt của Viện kiểm sát nhân dân (Công tố viện), trong thời gian chờ vụ án được đưa ra Toà xét xử.
Khi lực lượng công an tiến vào khu vực nhà Dòng, với 5 chiếc xe vận tải Molotova – loại xe vận tải quân sự do Nga sô sản xuất – các tín hữu biết tin và cùng đổ xô ra bảo vệ Dòng. Khi thấy những chiếc xe Molotova chở đầy gạo chạy ra, tín hữu đã dùng thân mình làm vật cản không cho xe chở gạo đi. Công an dùng dùi cui và roi điện giải tỏa đám đông, tín hữu phải dùng vũ khí thô sơ là cái gậy và ná bắn chim với những viên sỏi nhỏ để chống trả.
Trước sức kháng cự quyết liệt của tín hữu, công an đã sử dụng một linh mục từ nơi khác đến để thuyết phục tín hữu giải tán, nhưng giáo dân không nghe lời vị linh mục này. Sau đó, có 3 vị linh mục lạ mặt xuất hiện, yêu cầu đám đông mở đường cho vào nhà Dòng tiếp xúc với Cha bề trên Dòng và được giáo dân mở đường cho họ vào.
Sau khi nói chuyện với Cha yêu cầu nhà Dòng cử một vị linh mục ra giải tán giáo dân và được chấp nhận, 03 vị linh mục lạ mặt ra về với vẻ mặt hớn hở. Nhưng diện mạo, tác phong, cách đi đứng của 3 vị linh mục này không bình thường như những vị linh mục khác, dáng đi cứng cáp, tiếng giày nệm mạnh kêu cồm cộp trên lối đi, đã khiến những tín hữu thân cận quanh Linh mục Trần đình Thủ ngạc nhiên, nghĩ thầm trong bụng tại sao bước đi của những vị linh mục này lại có dáng dấp, kiểu cách của một quân nhân như vậy, và lưu ý theo dõi. Khi bước chân ra về, có lẽ do nhiệm vụ thuyết phục đã thành công quá dễ dàng, khiến 03 vị linh mục vui vẻ, hoặc vì muốn mau chóng ra khỏi nhà Dòng, nên bước chân của họ nhanh hơn bình thường, mỗi bước chân dài hơn một chút, vô tình để lộ ra mũi giày, loại giày nhà binh ngắn cổ của công an, lộ ra ngoài vạt của những chiếc áo thâm chùng, không thoát khỏi tia mắt theo dõi của các tín hữu, một tín hữu đi theo phiá sau 03 vị linh mục này, đánh bạo tiến nhanh hơn, rồi bất chợt cúi người, nhanh tay nắm vạt áo của một vị linh mục, kéo cao lên thật nhanh, lộ ra chiếc quần công an bên trong. Biết đã bị lộ tẩy, để tự bảo vệ mình, 03 vị linh mục lạ mặt tự giới thiệu họ là 3 chính trị viên công an mặc giả áo linh mục để tiếp xúc với Giám đốc Dòng Đồng công và Giám đốc Dòng cũng đã biết họ là công an.
Mặc cho 3 người công an giải thích, các tín hữu đã không kềm được sự tức giận, la lớn báo tin cho các tín hữu khác “chúng nó là công an”, thế là bà con nhào vô, bề hội đồng 3 ngươì công an này bằng tay, bằng chân, bằng cây gậy, nhừ tử đến ngất sỉu, rồi lôi ra vứt bỏ ngoài nghiã địa.
C/ Cha bề trên Dòng Đồng công bị bắt
Khi Dòng Đồng công đã bị niêm phong, Cha bề trên Trần đình Thủ phải đi tị nạn tại một căn nhà của một tín hữu tọa lạc tại mặt tiền đường Lê văn Duyệt cũ, nay đổi tên là đường Cách mạng tháng tám, gần Ngã ba ông Tạ.
Cha có thói quen uống cà phê mỗi buổi sáng, nên người nhà của giáo hữu này phải băng xéo qua bên kia đường , đối diện Ngã ba ông Tạ để đều đặn mỗi sáng mua một ly cà phê cho ngài dùng tại một quán cà phê dựng trên lề đường, phiá trước của các bàn ghế lẹp xẹp cho khách ngồi nhâm nhi ly cà phê nóng là con đường Lê văn Duyệt, mà lòng lề đường là nơi đậu xe đón khách của đủ các loại dân lao động như xe thồ, xe xích lô, xe ba bánh.
Trong thời gian qua, CSVN đã khám phá nhiều âm mưu chống Đảng, chống nhà cầm quyền từ trong nước cũng có, từ nước ngoài về cũng có. Có những ngươì thắc mắc tại sao bọn Công an CSVN rất dễ khám phá những âm mưu chống đối, chúng săn nhặt những nguồn tin tức tình báo bằng cách thức nào mà tài giỏi vậy ?
Đối với Đảng CSVN, bảo vệ an ninh chính trị là tối quan trọng để bảo vệ sự vững mạnh của Đảng, của chế độ, của nhà nước. Chúng đã tổ chức hệ thống gián điệp hoạt động quốc ngoại, tình báo hoạt động quốc nội thật tốn phí và tinh vi. Ở trong nước, chúng có các công an chìm, được gọi là trinh sát, giả dạng là những người dân lao động làm đủ mọi ngành nghề, buôn thúng bán bưng, buôn bán trong các chợ, làm các nghề lái xe ôm, xe thồ, đạp xe ba bánh, đạp xe xích lô, thậm chí làm cả nghề chị em ta nhằm mục đích nghe ngóng tin tức do các khách hàng vui miệng kể ra, không loại trừ cả Việt kiều, hoặc những ngươì trong nước bất mãn nhà cầm quyền, tưởng lầm bọn trinh sát giả dạng là những người dân nghèo khổ, bất mãn cùng tâm trạng giống như họ, nên thổ lộ hoặc tuyên truyền lôi kéo theo phe nhóm, qua những tin tức đó, công an CSVN theo dõi tình hình an ninh trong nhân dân.
Trong lúc vui chuyện với khách tại quán cà phê, bà chủ quán vô tình kể rằng cái nhà đó, trước kia, có bao giờ mua cà phê đâu, mà dạo này sáng nào cũng đi qua bên này mua cà phê, chắc có khách lạ từ phương xa đến có thói quen uống cà phê buổi sáng, và câu nói này đã lọt vào tai của bọn trinh sát lởn vởn ngồi loanh quanh đó.
Vài ngày sau, công an khu phố đã đến kiểm soát căn nhà bị nghi vấn, nhưng không tìm thấy trong nhà có ngươì lạ mặt tá túc, kiểm tra trong sổ xin phép tạm vắng tạm trú cũng không thấy gia chủ xin phép cho ai đến tạm trú trong thời gian qua, nhưng sáng nào cũng vậy, ngươì nhà của tín hữu đó vẫn đều đặn sang quán cà phê để mua một ly cà phê nóng. Điều này càng làm cho cái nghi vấn của bọn công an rằng nhà đó đang có dấu diếm ngươì là có thật, cần phải nhanh chóng “bắt nóng”.
Sau khi phối kiểm tin tức với Công an địa phương, Công an Thành phố phối hợp với Công an Quận tiến hành khám xét nhà của vị tín hữu này bất ngờ vào một buổi tối, sau khi lục soát khắp nơi, từ phiá bên ngoài nhà vào tới bên trong nhà, công an không tìm thấy có ngươì lạ mặt nào trú ngụ trong nhà, họ đành ra về, khi bước chân ra tới trước cửa ra vào, trưởng toán công an quay ngươì lại để chào chủ nhà, nhưng chính yếu là để có cơ hội đảo cặp mắt quanh nhà kiểm soát lần sau cùng, cái nhìn tổng thể khắp căn nhà, nhìn từ cửa chính ra vào, đã cho phép cặp mắt cú vọ của tên công an vô tình nhìn thấy toàn vẹn cái trần nhà, và một điều khác lạ đã đập vào mắt y, y nhận thấy mọi nơi trên trần nhà đều có màng nhện phủ đây đó, riêng một vùng nhỏ, gần góc trần nhà, nơi có cái nắp trần nhà hình ô vuông, thì lại có vẻ sạch sẽ, có thể là nơi gia chủ thường xuyên leo lên trần nhà để làm cái gì đó, nơi đó là điểm nghi ngờ trong kỹ thuật điều tra, thế là tên trưởng toán công an ra lệnh cho các tên công an quay trở vào nhà, y yêu cầu gia chủ lấy cho mượn cái thang, hai tên công an leo lên trần, dùng đèn pin rọi sáng khắp nơi để kiểm soát, và chúng đã thấy được Linh mục Trần đình Thủ đang nằm trốn tại một cái góc trần nhà.
D/ Cha bề trên Dòng Đồng công bị buộc tội là gian thương
Sau khi bị bắt, Cha đã bị giam giữ tại Khám Chí hoà. Với mục đích bôi nhọ và làm ô nhục giáo hội Thiên chúa giáo nói chung, bêu riếu, làm mất uy tín của Cha bề trên Dòng Đồng công, nói riêng, dựa vào tình hình khan hiếm gạo, cùng với số lượng hơn 5 tấn gạo bị tịch thu, và căn cứ vào qui định về lương thực của nhà nước thì mỗi ngươì chỉ được hưởng tiêu chuẩn 15 Kg gạo một tháng và được tích trữ không quá 3 tháng, tức là 60Kg gạo, Viện kiểm sát đã buộc tội ngài là một kẻ gian thương, phạm tội đầu cơ lương thực căn cứ Điều 165 của Bộ luật Hình sự thời bấy giờ , như sau : Người nào lợi dụng tình hình khan hiếm, mua vét hàng hoá nhằm bán lại thu lợi bất chính . Nếu hàng phạm pháp có số lượng lớn hoặc giá trị lớn thì bị phạt tù từ 3 năm đến 12 năm. CSVN đã xếp vụ án này vào loại án hình sự kinh tế.
Chúng tôi xin mạn phép được giải thích ý nghiã thế nào là “hưởng lợi bất chính“ :
Trong tình trạng hàng hoá, lương thực cung ứng đủ cho số lượng người dân cần dùng, ngươì ta nói là cung ngang bằng với cầu – giá cả thị trường quân bình, là dấu hiệu của một nền kinh tế ổn định, cuộc sống ngươì dân bình thường.
Có những trường hợp do thiên tai hoặc vì trở ngại trong việc nhập khẩu nhu yếu phẩm, hàng hoá, lương thực không đủ cung ứng cho người tiêu dùng, tức hàng bị khan hiếm, và đây là khan hiếm thực sự, nền kinh tế tạm thời bị coi là mất ổn định.
Ngoài trường hợp trên, những người hoạt động kinh tế, thương mại cỡ lớn, cũng có khả năng gây xáo trộn nền kinh tế, từ ổn định thành mất ổn định, bằng cách tạo ra một tình trạng khan hiếm giả tạo về lương thực, hàng hóa, nghiã là hàng hoá trên thị trường không bị thiếu, nhưng họ có kế hoạch đồng loạt mua gom một hay nhiều loại hàng hoá nào đó, cất giữ tại các kho hàng, và không xuất hàng ra bán ngoài thị trường, những nhà kinh doanh cỡ nhỏ thấy hàng hoá, lương thực, từ từ khan hiếm cũng vội mua gom, mua vét, chỉ sợ hết hàng hoá, sẽ không còn hàng hoá để mua tiêu dùng hoặc để bán, chỉ một thời gian ngắn, số lượng hàng hoá, lương thực đó sẽ tự nhiên biến mất dần tại các chợ, các siêu thị… trong khi ngươì dân thì lại cần mua loại hàng hoá, lương thực đó hàng ngày nhưng tìm không ra, hàng bị khan hiếm, người ta nói rằng cung không đủ cho cầu, nền kinh tế mất ổn định.
Nếu hàng khan hiếm là một loại nhu yếu phẩm, khi bị tăng giá, sẽ làm cho các hàng hoá, lương thực khác bị ảnh hưởng về giá cả, ví dụ khi gạo tăng giá thì các loại hàng hoá khác cũng sẽ bị tăng giá theo. Vì ngươì dân có nhu cầu tiêu dùng nên sẵn sàng mua hàng hoá, lương thực bị khan hiếm với giá cả đắt hơn giá bình thường, vật giá bị nâng cao, giá bị tăng gấp nhiều lần so với giá hàng hoá cùng loại trong tình trạng một nền kinh tế ổn định, những kẻ tạo nên sự khan hiếm hàng hoá giả tạo này bị gọi là gian thương. Khi thấy nhà cầm quyền không biết đến thủ đoạn dấu hàng hóa, lương thực và khi ngươì dân sẵn sàng chấp nhận giá cả do họ ấn định đối với loại hàng hoá, lương thực trong tình trạng khan hiếm, gian thương mới tuôn hàng ra bán tại thị trường và tha hồ hốt bạc.
Sự khác biệt giữa giá hàng hoá, lương thực được bán ra trong tình hình kinh tế ổn định và giá hàng hoá. lương thực, sau khi hàng hóa, lương thực được nâng giá, bán ra trong tình hình khan hiếm hàng hoá giả tạo, được gọi là giá bán chênh lệch, và giá bán chênh lệch này chính là phần tiền lời bất chính, mà gian thương được hưởng bằng thủ đoạn gian manh. Những ngươì kinh doanh nhỏ, mặc dù không phải là gian thương cỡ lớn, nhưng cũng đã mua gom, mua vét để bán lại kiếm lời khi hàng lên giá, vô tình làm cho tình trạng khan hiếm giả tạo mau chóng xảy ra hơn, gây mất quân bình kinh tế, cũng là những đồng lỏa.
Tội đầu cơ tích trữ không những được qui định trong luật pháp các quốc gia trong khối Tự do, mà cũng được qui định ngay cả trong luật pháp các quốc gia khối Cộng sản. CSVN đã cho phép Thày được thăm nuôi Cha bề trên Dòng Đồng công, và sau khi được biết bị khép tội phạm hình sự kinh tế, và bị gán lá gian thương, Cha đã không nhận tội, nhưng chỉ là một tu sĩ, giỏi về giáo lý, giỏ về giảng đạo cho tín hữu, nhưng lại không biết làm sao để tự bào chữa cho mình là vô tội, mà chỉ biết nói rằng Cha không phạm tội.
Vì Linh mục Trần đình Thủ đang bị ở trong nhà tù, nên tôi phải viết một bản biện minh cho ngài dưới hình thức một bản tự bào chữa, một bản tự biện minh, vì lý do bị buộc tội oan, sau đó, Cha sẽ đọc lại bản viết, nếu đồng ý sẽ ký tên, rồi nộp cái bản tự bào chữa đó cho bọn công an và kiểm sát viên thụ lý hồ sơ.
Căn cứ điều luật qui định về Tội đầu cơ, nói chung của các nước tự do và của CSVN, kẻ phạm pháp đã phải thực hiện hai hành vi căn bản, gọi là hai yếu tố cấu thành tội phạm:
A/ Phải có hành vi tích trữ, nghiã là kẻ phạm tội đã mua gom, mua vét hàng hoá, lương thực vượt mức tích trữ qui định
B/ Việc tích trữ hàng hoá, lương thực phải có mục đích sẽ bán lại cho công chúng trong tương lai để hưởng lợi chênh lệch.
Tôi thắc mắc lý do gì mà Dòng Đồng công lại có quá nhiều gạo như vậy, Thày giải thích rằng tổng số ngươì sinh sống và phục vụ trong nhà Dòng chỉ độ khoảng 30 người , nhưng hàng tháng, nhà Dòng đều có các lớp dạy giáo lý nội trú cho từ 70 đến 100 tín hữu, tức 1500 Kg gạo một tháng, tổng cộng số người do nhà Dòng phải nuôi ăn là 100 người x 45Kg = 4500 Kg gạo một tháng, cộng thêm với số ngươì cơ hữu thường xuyên sinh sống trong nhà Dòng 30 người x 45 Kg = 1350 Kg, tổng cộng số gạo cần thiết để nuôi ăn và tích trữ trong vòng 3 tháng là 4500Kg + 1350Kg = 5850 Kg gạo, tức là 5tấn 850 kg gạo, nghĩa là gần 6 tấn gạo.
Số lượng gạo bị tịch thu là hơn 5 tấn, không vượt quá mức tích trữ lương thực theo qui định dựa trên số lượng người mà Dòng phải nuôi ăn hàng tháng, và Dòng Đồng công không tích trữ gạo nhằm mục đích bán lại cho công chúng để hưởng lời chênh lệch giá, nên công an và Viện kiểm sát CSVN không thể buộc tội đầu cơ cho Giám đốc Dòng, và cũng không thể gọi ngài là gian thương theo nguyên tắc căn bản : Không có tội tích trữ thì không có tội đầu cơ.
Bản tự biện minh không phải là gian thương và không phạm tội đầu cơ đã được Công an điều tra xét hỏi (Công an thẩm vấn) và Viện kiểm sát chấp nhận và rút lại lời buộc tội bị can Trần đình Thủ phạm tội đầu cơ.
E/ Cha bề trên Dòng Đồng công bị buộc tội nhận tiền của nước ngoài để hoạt động chống Nhà nước CSVN
Trong những ngày kế tiếp, công an đã hạch hỏi tiếp Cha bề trên Dòng Đồng công nguồn tiền ở đâu mà có để mua gần 6 tấn gạo, và nguồn tiền ở đâu để mua thực phẩm ăn uống hàng ngày, trong khi nhà Dòng không có hoạt động kinh doanh thương mại? Phải chăng đã có nguồn tiền từ nước ngoài cung cấp? và nhà Dòng đã nhận tiền của nước ngoài để hoạt động tuyên truyền chống phá nhà nước CHXHCNVN?
Phần buộc tội này gồm có hai yếu tố, có thể tạm nói là buộc tội có điều kiện. CSVN buộc tội ở phần đầu: “Nếu thực sự đã có nguồn tiền cung cấp từ nước ngoài cho Dòng Đồng công”, thì CSVN sẽ gán ghép cáo buộc ở phần sau là ”nhằm mục đích chống phá nước CHXHCNVN”.
Điều này có nghiã là nếu chứng minh được Dòng Đồng công không có nguồn tiền viện trợ từ nước ngoài, thì Dòng Đồng công, do Linh mục Trần đình Thủ quản nhiệm, sẽ không bị gán cho cái tội chống phá nhà nước CHXHCNVN.
Vì lẽ đó, điều quan trọng là phải giải thích nguồn tiền ở đâu mà ra mà Dòng Đồng công đã mua gạo dự trữ và thực phẩm nuôi ăn cho hơn 100 ngươì trong nhà Dòng.
Cái khổ là Linh mục Trần đình Thủ, với cương vị là Tổng Giám đốc Dòng, chỉ biết mọi việc một cách tổng quát, không rõ được chi tiết của từng sự việc, không biết về kế toán, sổ sách – chi thu, nên không thể trả lời những câu hỏi hóc búa đầy cạm bẫy của công an điều tra xét hỏi, và ngoài câu trả lời một cách rõ ràng và chắc nịch rằng “Tôi vô tội” thì ngài đã bị lúng túng khi trả lời những câu hỏi của công an rằng làm sao để chứng minh vô tội khi chứng cớ trước mắt cho thấy nhà Dòng có quá nhiều gạo, tại sao lại phải mua nhiều gạo như vậy, nguồn tiền ở đâu ra để mua gạo và thực phẩm nuôi ăn cho mọi người sinh sống trong nhà Dòng.
Tôi đã nói với vị Thày rằng đó chỉ là những nguyên tắc và kỹ thuật thẩm vấn, vấn đề của chúng ta là phải thuyết phục được bọn công an, kiểm sát viên và Hội đồng xét xử của Tòa án bằng chứng minh một cách cụ thể bằng giấy tờ, sổ sách, chứng cớ nguồn tiền ở đâu ra để mua gạo và thực phẩm ăn uống hàng ngày cho khoảng trên 100 tín hữu trong nhà Dòng, chứ không phải chỉ trình bày, chỉ nói lý lẽ một cách qua loa, đơn giản như chúng ta nói chuyện với nhau mà không có chứng minh cụ thể nào cả.
Để tìm hiểu làm sao nhà Dòng có nhiều tiền để mua dự trữ gần 6 tấn gạo như vậy, Thày đã dẫn một vị quản gia phụ trách về canh tác hoa màu của Dòng Đồng công tại Thủ đức, đến gặp tôi để giải thích và chứng minh cụ thể bằng sổ sách, giấy tờ.
Sự thật là với số diện tích đất đai thuộc sở hữu của Dòng Đồng công tại Thủ đức, họ đã canh tác luân phiên các loại thực phẩm như các loại rau, hành, số tiền đó dùng để mua gạo, thực phẩm, cộng thêm khoản tiền đóng góp chi phí ăn ở của khoảng 100 tín hữu Dòng Đồng công thay phiên nhau đến nhà Dòng mỗi tháng để học giáo lý, tổng số tiền thu nhập chia cho tiêu chuẩn bình quân nuôi ăn mỗi đầu người mỗi ngày, đủ cho tiền mua gạo và thực phẩm nuôi ăn hàng ngày cho mọi người, từ sự gỉải thích, từ sổ sách kế toán, tôi mới có cơ sở rõ ràng và minh bạch để viết bản biện minh giải trình nguồn tiền mua gạo và thực phẩm nuôi sống mọi ngươì trong nhà Dòng hàng ngày là do việc tự canh, tự túc, tự cường của nhà Dòng và các tín hữu cùng chung góp công, góp của, không phải là do nguồn tiền từ nước ngoài trợ giúp.
Khi không có cơ sở chứng minh Dòng Đồng công đã nhận tiền của nước ngoài thì cũng đương nhiên không có tội chống phá nhà nước CHXHCNVN.
Với bản tự biện minh này, công an và Viện kiểm sát cũng đã rút bỏ phần buộc tội Cha Trần Đình Thủ của Dòng Đồng công nhận tiền từ nước ngoài để hoạt động chống phá nước CHXHCNVN.
F/ Lời thú tội của Cha bề trên Dòng Đồng công tại Tòa án
Linh mục Trần đình Thủ được chuyển từ trại giam khám Chí Hoà về trại giam Phan đăng Lưu tọa lạc tại góc đường Lê quang Định – Phan đăng Lưu. Kể từ đây, vị Thày không còn được phép thăm nuôi Cha nữa.
CSVN công bố sẽ đưa Cha bề trên Trần đình Thủ ra xét xử tại Tòa án Sơ thẩm Saigon tọa lạc tại số 134 đường Công lý, tức Tòa án Saigon cũ, vào ngày 27/10/1987 và ông Nguyễn đăng Trừng là bào chữa viên biện hộ cho vụ án này.
Xin được giải thích rằng cho đến năm 1991, Việt nam mới có tổ chức Luật sư. Trước thời gian này, những người hành nghề Luật sư được gọi là Bào chữa viên nhân dân, không được mở văn phòng riêng, tất cả các Bào chữa viên thành phố Saigon đều hoạt động chung tại một văn phòng, gọi là Phòng Bào chữa viên nhân dân, do ông Triệu quốc Mạnh là Trưởng Đoàn và Nguyễn đăng Trừng là Phó đoàn Bào chữa viên.
Khi người dân cần có bào chữa viên trợ giúp tại Tòa cho mình hoặc cho thân nhân thì đến phòng bào chữa làm thủ tục đăng ký, nhưng không được tự do chọn lựa Bào chữa viên theo ý muốn, mà Bào chữa viên sẽ được Đoàn bào chữa chỉ định luân phiên. Theo họ, cách tổ chức như vậy để nhằm tránh trường hợp người thì có quá nhiều thân chủ, người thì có ít thân chủ, hoặc không có thân chủ. Giai đoạn này đã xảy ra tình trạng có Bào chữa viên mà không được cảm tình của Trưởng và Phó đoàn thường phải nhận những hồ sơ rẻ tiền hoặc khó khăn.
Toà án Saigon được xây dựng từ thời Pháp thuộc, theo hình chữ U ngược, vụ án được xét xử suốt 03 ngày từ 27/10/1987 đến 30/10/1987. Đồng bào đến tham dự phiên Toà đông nghẹt, không riêng gì các giáo dân Thiên chúa giáo, mà cả các Phật tử, các phóng viên báo chí trong và ngoài nước, đứng chật cả lối đi trên thềm Toà án ra đến ngoài sân nơi đậu xe, Toà án mắc loa phóng thanh ra ngoài sân Toà để ngươì dân được nghe rõ.
Cha bề trên đã hoàn toàn phủ nhận mội tội trạng do Viện kiểm sát nhân dân (Công tố viện) buộc tội, Toà án đã nói là Cha ngoan cố, phủ nhận mọi tội trạng, nhưng Cha không thể nào chối cãi rằng chính Cha đã xác nhận phạm tội trong thời gian Công an và Viện kiểm sát tiến hành điều tra, Cha cho biết chưa bao giờ thú nhận phạm tội gì cả vì Cha không hề phạm tội, Toà án nói Cha không thể ngoan cố chối cãi tội lỗi, và để chứng minh, Toà án đã cho bật cái máy thu băng lên, mọi người trong phòng xử án, các tín hữu Dòng Đồng, các thông tín viên báo chí trong và ngoài nước, đứng đầy cả sân Toà, mọi người đều nghe rõ từng lời nói của Cha bề trên, âm thanh từ loa phóng thanh phát ra đúng là giọng nói của Linh mục Trần đình Thủ, rằng Cha hoàn toàn thú nhận đã cố tình viết trong các tài liệu dạy giáo lý cho tín hữu những lời lẽ tuyên truyền chống phá nhà nước CHXHCNVN.
G/ Linh mục Giám đốc Dòng Đồng Công bị gài bẫy
Căn cứ vào lời thú tội được ghi âm trong băng Cassett, bị cáo Trần đình Thủ đã bị tuyên án tù chung thân. Sau đó, bản án được giảm xuống còn 20 năm tù ở tại phiên Tòa Phúc thẩm.
Mọi người đều ngạc nhiên không hiểu lý do gì ngài lại nói như thế, người thì đưa ra giả thiết là vào thời điểm đó, có lẽ ngài đã bị chích thuốc để mất kiểm soát lý trí, phải nghe theo lời bọn công an điều tra xét hỏi tại trại giam Phan đăng Lưu.
Các tín hữu Dòng và các tín đồ Thiến chúa giáo không thể có phản ứng gì cả, khi họ nghe rõ ràng chính miệng Cha bề trên Dòng Đồng công xác nhận tội trạng, và đó cũng là lý do tại sao các tín hữu Dòng Đồng công tại Việt nam nói chung, và tại Thủ Đức nói riêng, đành phải im lặng, không có hành động tranh đấu, hoặc chống đối nhà cầm quyền CSVN.
Thắc mắc của các tín hữu Dòng Đồng công cũng là thắc mắc của riêng tôi, tại sao Cha bề trên Dòng Đồng công lại nhận tội một cách vô lý như thế được, nếu Toà án CSVN cố tình xử oan, xử sai thì cứ mặc họ, mình không có tội thì cứ việc nói vô tội, người Thiên chúa giáo luôn có câu nói Chúa thử thách các con của Người thì hãy cứ để cho Chúa thử thách, cứ làm theo ý Chúa, Chúa xoay chuyển tới đâu thì mình phải chịu tới đó, phải tuân theo ý Chúa. Tại sao Cha lại nhận tội như vậy?
Sau khi bản án trở thành chung thẩm, vị Thày được phép thăm nuôi Cha và được nghe Cha kể lại sự thật rằng:
Sau khi bị di chuyển từ nhà tù Chí Hoà về trại giam Phan đăng Lưu, một ngày nọ, Cha bị công an chấp pháp gọi lên phòng thẩm vấn, CSVN gọi là Phòng điều tra xét hỏi, tên công an đã để sẵn một máy thu băng, và đưa cho Cha bản tự khai, rồi nói với Cha rằng đây là bản tự khai của ông, tôi đã viết sẵn, ông đọc kỹ từng chữ, từng câu, và sau khi đọc xong, nếu ông đồng ý thì ký tên vào phần cuối tờ giấy, nếu không đồng ý với lời lẽ viết trong bản tự khai, ông có quyền không ký.
Cha bề trên cầm xấp giấy đã được viết sẵn, lấy mắt vừa nhìn, vừa đọc thầm trong miệng bản khai, tên công an nói: ông đọc như thế thì chỉ có một mình ông nghe thôi, ông phải đọc to tiếng lên để tôi và ông cùng nghe một thể. Thế là Cha đành phải bắt đầu đọc lớn tiếng: Lời thú tội…
Khi Cha bắt đấu đọc thì cũng là lúc tên Công an bật máy thu băng để ghi âm lời đọc của Cha. Sau khi đọc xong, tên công an tắt máy thu băng. Cha trả lại xấp giấy tự khai cho tên công an và nói: Bản ghi Lời thú tội này không đúng, tôi không đồng ý và ngài đã không ký tên vào bản khai. Tên công an chỉ nhếch miệng cươì, không nói gì, và trả Cha về lại phòng giam.
Sau khi phiên toà kết thúc, Cha mới hiểu ra rằng khi bọn Công an nói Cha đọc bản tự thú tại phòng thẩm vấn, chúng đã tiến hành một kế hoạch thâm độc đưa Cha vào cái bẫy, chúng thu băng lời nói của Cha khi đọc Bản tự thú tội do chúng viết sẵn, và Toà án, Viện kiểm sát nhân dân đã sử dụng cuộn băng ghi âm lừa bịp này để kết tội Cha bề trên.
Sau đó, vị thày có đến gặp tôi, cho biết có thể đây là lần sau cùng đến nhà tôi, vì Thày sẽ tìm đường vượt biên ra nước ngoài, và các tín hữu ở ngoại quốc cũng đã biết tin Cha bị bắt và đang nhờ các cơ quan quốc tế can thiệp. Dù vậy, là ngươì hiểu rõ bản án và kế hoạch thâm độc của nhà cầm quyền CSVN cố tình buộc tội oan, và ban hành bản án sai pháp luật do chính họ đặt ra, tôi đã viết hai văn bản kêu gọi Hội bảo vệ nhân quyền quốc tế và Hội ân xá quốc tế, giao cho Thày để chuyển ra ngoại quốc.
Một thời gian ngắn sau đó, qua tin tức của một tín hữu tại Giáo xứ Bắc hà, tôi được biết tin Thày đã vượt biên và đã đến bờ tự do tại Hoa Kỳ.
Linh mục Trần đình Thủ đã được trả tự do vào tháng 05/1993, sau gần 6 năm bị giam giữ, tôi cho rằng có hai lý do, mà phần chính yếu là vì các giáo dân Thiên chúa giáo thuộc Dòng Đồng công trong nước đã giữ im lặng, không tranh đấu, chống đối nhà cầm quyền, và lý do thứ hai là do công lao của các tín hữu Dòng Đồng công tại hải ngoại đã vận động các tổ chức quốc tế can thiệp với nhà cầm quyền CSVN để Cha được phóng thích.
Nhận định
1/ Vụ án Linh mục Tadeo Nguyễn văn Lý: Vụ án này bắt nguồn từ cơ sơ nào?
Đó là chính sách của Đảng và Nhà cầm quyền CSVN tước đoạt đất đai thuộc sở hữu của giáo hội Thiên chúa giáo, thực hiện qua hành vi lợi dụng chức vụ và quyền hạn của các viên chức chính quyền từ địa phương cơ sở lên tới cấp thành phố tỉnh Thừa thiên. Đây là một tội phạm hình sự được qui định tại phần các tội danh về Tư pháp.
Nếu Đảng và nhà cầm quyền CSVN các cấp thực hiện chính sách tôn trọng quyền sở hữu tài sản của nhân dân và giáo hội, hoặc giải quyết khiếu nại chính đáng đòi đất đai bị chiếm dụng của giáo dân Nguyệt Biều, đúng như qui định của Hiến pháp, thì linh mục Nguyễn văn Lý và ngươì dân giáo xứ Nguyệt Biều đã không phải tranh đấu đòi hỏi quyền lợi bị thiệt hại, và cũng sẽ không có vụ án Linh mục Tadeo Nguyễn văn Lý.
Để chiếm được đất đai, nhà cầm quyền CSVN đã phải xử dụng bạo lực trấn áp bằng những hành vi bắt bớ, chủ trương làm sai lệch hồ sơ vụ án của công an, Viện kiểm sát và Toà án, đương nhiên dẫn đến một bản án oan và sai pháp luật, điều này cũng là tất nhiên, vì một quốc gia không có tự do và dân chủ thì cũng không thể có công lý.
2/ Vụ việc tại Giáo xứ Kế Sung xảy ra tại Tổng giáo phận Huế, cũng đã có một hậu quả tương tự như vụ án Linh mục Tadeo Nguyễn văn Lý, cũng do mục tiêu chiếm đoạt đất đai của giáo xứ.
3/ Riêng đối với vụ án Dòng Đồng công, các linh mục và giáo dân Dòng không hề có phản ứng chống đối Đảng và nhà cầm quyền các cấp, mặc dù đất đai tại tỉnh Lâm Đồng đã bị chiếm dụng từ những năm đầu của cuộc cách mạng giải phóng miền Nam, nhưng CSVN cũng không tha, họ muốn tước đoạt nốt phần đất đai còn lại tại huyện Thủ đức, thuộc thành phố Saigon, ác độc hơn nữa, họ đã lần lượt áp đặt cho Cha bề trên Dòng tội danh xấu xa gian thương, rồi nhận tiền từ nước ngoài để hoạt động chống phá Đảng và nhà nước, và bày mưu kế thâm độc bắt Cha phải đọc lời nhận tội do chúng viết sẵn, để bịt miệng nhân dân, tín hữu Dòng Đồng công và dư luận quốc tế.
Chỉ tiếc rằng cho đến nay, vẫn có những kẻ may mắn chạy thoát khỏi Việt nam trước khi bộ đội Cộng sản vào đến Saigon, chưa có một ngày nào sống chung với Cộng sản, không hiểu Cộng sản là gì, chỉ hiểu lờ mờ về Cộng sản qua đống sách triết học Mác – Lenin giảng dạy về lý thuyết không tưởng Cộng sản, nên vẫn còn tâm nguyện trở về hợp tác, hoà hợp hoà giải, xoá bỏ hận thù với Cộng sản.
Người dân Thiên chúa giáo và Phật giáo và toàn thể nhân dân trong nước cũng đã thừa hiểu, hiện nay, CSVN ra sức đàn áp tôn giáo, bóp nghẹt nhân quyền dã man bằng mọi hình thức, thử hỏi bọn CSVN đã thực sự hoà hợp, hoà giải được với các trí, nông, công, thương, với các giáo hội, các hội đoàn, Đảng phái chính trị, với nhân dân trong trong nước hay chưa?
Câu trả lời là chưa, vậy thì việc kêu gọi hoà hợp, hoà giải với cộng đồng người Việt hải ngoại, những ngươì đã phải trốn chạy vì không chấp nhận bọn chúng, chỉ là một sự lừa bịp trằng trợn, chỉ đánh lưà được những kẻ thơ ngây về Cộng sản.
Đã bao năm qua, Vẹm vẫn là Vẹm, không có gì thay đổi.
Phúc Linh