Carl Thayer: Không! TC không cải tạo đảo đá ở Biển Đông!
12/06/2015 – Carl Thayer – Thiên Hương (Dự án Đại sự ký Biển Đông)
Từ khi hình ảnh vệ tinh xác nhận rằng TC đang xây dựng đảo nhân tạo ở Biển Đông vào năm ngoái, các nhà báo, các chuyên gia an ninh và cả các quan chức chính phủ chấp nhận một cách thiếu cân nhắc thuật ngữ vốn làm cho vấn đề còn đang tranh cãi này trở nên càng mù mờ hơn là làm rõ nó. Không có thứ gì bị lạm dụng như thuật ngữ “cải tạo đảo đá” này, cả trong việc sử dụng hàng ngày và ý nghĩa pháp lý của nó.
Một bài bình luận được viết bởi học giả TC Shen Dingli lập luận rằng không có lệnh cấm cải tạo đảo đá nào trong luật pháp quốc tế. Ông đưa ra ví dụ về sân bay quốc tế Kansai của Nhật Bản, thành phố Thượng Hải, Hồng Kông và Dubai. Tuy nhiên, không ví dụ nào trong đó có thể so sánh với những gì đang diễn ra ở Biển Đông.
Hãy nói rõ rằng TC đang không cải tạo đảo đá ở Biển Đông nhằm cải thiện các điều kiện trên vùng đất tại đây – trên một hòn đảo – vốn đã bị suy thoái do tác động của môi trường hoặc sự sử dụng của con người. TC đang hút cát từ đáy biển và các rạn san hô để tạo ra các hòn đảo nhân tạo. TC tuyên bố một cách sai lạc rằng họ đang cải tạo đảo đá trên các hòn đảo thuộc chủ quyền của họ. Không phải như thế! TC đang xây dựng các công trình nhân tạo tại các bãi nửa chìm nửa nổi (các thực thể ngập trong nước ở thuỷ triều cao) và các đá. TC không thể tuyên bố chủ quyền đối với các thực thể này. Các thực thể này cũng không được hưởng các vùng biển hoặc vùng trời theo luật.
Các đảo nhân tạo có một ý nghĩa khác biệt trong luật pháp quốc tế. Theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển (UNCLOS) chủ quyền của các đảo nhân tạo chỉ có thể được thiết lập bởi một quốc gia ven biển trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của nó. Điều 56 nói rằng “Trong vùng đặc quyền kinh tế, các quốc gia ven biển có… quyền tài phán… liên quan đến: (i) việc thiết lập và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình…”. Điều 60 cho phép các quốc gia ven biển “đặc quyền xây dựng… các đảo nhân tạo”. Và Điều 80 trong luật này kéo dài đặc quyền xây dựng các đảo nhân tạo này đến thềm lục địa một quốc gia ven biển.
Tất cả bảy thực thể mà hiện nay TC đang chiếm giữ và đã chuyển đổi thành các đảo nhân tạo đều là chủ thể của vụ kiện Philippines đưa ra trước Tòa án Trọng tài của Liên Hợp Quốc. Thông cáo và Tuyên bố yêu sách của Philippines lập luận rằng theo UNCLOS thì bãi Vành Khăn, bãi Ken Nan, bãi Gaven và bãi Xubi đều là các thực thể ngập nước đồng thời cả bãi Vành Khăn và bãi Ken Nan đều là một phần của thềm lục địa Philippines. Hơn nữa, Philippines cho rằng bãi cạn Scarborough, bãi Gạc Ma, bãi Chữ Thập và bãi Châu Viên là đá theo UNCLOS. Tất cả các thực thể này đều nằm trong vùng đặc quyền kinh tế hoặc thềm lục địa của Philippines.
Tóm lại, TC thừa nhận các thực thể này là đảo theo ý nghĩa pháp lý và do đó yêu sách không chỉ có chủ quyền với các hòn đảo này mà còn với lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa và vùng trời phía trên chúng. Philippines cho rằng các thực thể này là các bãi ngầm, rạn san hô và bãi nửa chìm nửa nổi ngập nước không đủ điều kiện là đảo theo UNCLOS nhưng là một phần của thềm lục địa Philippines, hoặc thuộc đáy biển quốc tế.
Vấn đề xây dựng đảo nhân tạo của TC đã bị làm mù mờ đi bởi ba vấn đề khác. Vấn đề đầu tiên liên quan đến nỗ lực của TC để thực thi quyền tài phán của mình trên vùng nước rộng mười hai hải lý xung quanh các đảo nhân tạo này và không phận trên các thực thể này. Luật pháp TC đòi hỏi việc đưa ra các đường cơ sở trước khi khẳng định về quyền tài phán trên các vùng biển. Với trường hợp ngoại lệ là quần đảo Hoàng Sa, TC đã không đưa ra bất kỳ đường cơ sở nào trên các thực thể mà họ đã chiếm giữ.
Cần lưu ý rằng tất cả các đảo nhân tạo của TC đều nằm gần các thực thể mà Việt Nam đang chiếm giữ. Nếu những thực thể này được hưởng một vùng lãnh hải mười hai hải lý thì vùng lãnh hải của TC sẽ chồng lên một vùng lãnh hải tương tự được đưa ra yêu sách bởi Việt Nam. Điểm mấu chốt là tất cả các thực thể này đang tranh chấp và các bên tham gia ký kết UNCLOS được lệnh cấm không được tiến hành bất kỳ hành động nào làm thay đổi hiện trạng.
Việc TC đòi quyền chủ quyền trong trường hợp này là một hình thức của việc đánh tráo khái niệm pháp lý, trong đó TC chuyển đổi các thực thể và đá ngập nước thành các đảo hình thành tự nhiên.
TC đã nhiều lần ngăn chặn các máy bay quân sự của Philippines và Mỹ bằng việc buộc họ rời khỏi khu vực mà các quan chức quân đội TC gọi là “khu vực cảnh báo quân sự” hoặc “khu vực an ninh quân sự”. Nếu các thông tin trên các phương tiện truyền thông về việc các tàu chiến Mỹ đã kiềm chế trước việc xâm phạm khu vực mười hai hải lý quanh các đảo nhân tạo và máy bay quân sự của Mỹ đã không trực tiếp vượt qua các thực thể này là chính xác thì sự đánh tráo khái niệm pháp lý của TC đã thành công.
Vấn đề thứ hai liên quan đến sự tương đương giữa hành động TC gọi là “cải tạo đảo đá” với những nỗ lực tương tự của VN, Malaysia và Philippines. TC lập luận rằng các bên tranh chấp khác đã thay đổi nguyên trạng từ rất lâu và TC chỉ đang cố gắng bắt kịp. Câu hỏi quan trọng là những hoạt động nào đã được thực hiện từ năm 2002 và với mục đích gì?
Philippines đã tiến hành cải tạo đảo ở Palawan. Palawan là một thực thể hình thành tự nhiên và đủ điều kiện để được công nhận như là một hòn đảo theo luật pháp quốc tế. Philippines có chủ quyền trên đảo Palawan và do đó họ có thể cải tạo đảo một cách hợp pháp với bất cứ mục đích nào.
Trường hợp của Việt Nam lại khác. Hình ảnh vệ tinh của đảo Sơn Ca và đảo Đá Tây do Việt Nam chiếm giữ, được công bố bởi Sáng kiến Hàng hải minh bạch châu Á (AMTI), chỉ ra rằng từ năm 2010 Việt Nam đã mở rộng các thực thể này thêm 21.000 và 65.000 mét vuông. Liệu kích thước có phải là vấn đề? Các nhà báo, nhà bình luận học thuật và các quan chức chính phủ nhanh chóng đưa ra nhận xét rằng phạm vi và quy mô của việc xây dựng của TC đã làm cho hành động tương tự các bên tranh chấp khác trở nên nhỏ bé hơn. Hành động gọi là cải tạo đảo đá của Việt Nam chỉ bằng 1,9% diện tích mà TC đã xây dựng.
Không ai trong số các nhà bình luận trên, bao gồm cả AMTI, đưa “cải tạo đảo đá” ở Biển Đông vào một bối cảnh phù hợp. Bộ trưởng Quốc phòng Ashton Carter kêu gọi Việt Nam dừng việc “cải tạo đảo đá” là sai lầm. Vấn đề cần quan tâm ở đây không phải là quy mô của các công trình nhân tạo mà là mục đích đằng sau việc xây dựng này. TC và tất cả các bên tranh chấp khác vào tháng Mười năm 2002 đều đã ký vào Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) vốn không có tính ràng buộc.
Theo DOC, các bên tham gia ký kết đồng ý “thực hiện việc kiềm chế trong khi tiến hành các hoạt động có thể làm phức tạp hoặc gia tăng tranh chấp và ảnh hưởng đến hòa bình và ổn định… ” Rõ ràng là việc cải tạo đảo đá được thực hiện bởi Philippines hoặc việc mở rộng đảo được thực hiện bởi Việt Nam không đạt đến mức làm phức tạp hoặc leo thang tranh chấp cũng như ảnh hưởng đến hòa bình và ổn định ở Biển Đông.
Tuy nhiên, hành động của TC lại làm phức tạp các tranh chấp. Việc xây dựng đảo nhân tạo của TC trực tiếp phá vỡ UNCLOS và đại diện cho một động thái phủ đầu chống lại mọi quyết định của Tòa án trọng tài. TC đã thay đổi “bằng chứng hiện trường” và đưa ra trước khu vực một việc đã rồi. TC đã ngăn chặn tự do hàng hải và việc đi ngang qua của các tàu hải quân và máy bay cũng như các ngư dân trong khu vực. Ví dụ cụ thể là hiện nay có những thông tin cho rằng một tàu chiến TC bắn vào ngư dân Philippines ở gần một trong các đảo nhân tạo của TC.
Hoạt động xây dựng của TC đã ảnh hưởng đến hòa bình và ổn định trong khu vực vì các tuyên bố lặp đi lặp lại của TC rằng những hòn đảo nhân tạo sẽ phục vụ mục đích quốc phòng. TC đã nhiều lần tuyên bố mình có quyền đơn phương tuyên bố và thiết lập một Vùng nhận dạng phòng không tại biển Đông. Một nhà bình luận TC đã đi quá xa khi nói rằng TC nên đối đầu với máy bay quân sự Úc bay qua vùng trời phía trên các đảo nhân tạo của TC và nếu cần thiết thì bắn hạ chúng.
TC được cho là đã chấm dứt “cải tạo đảo đá” trên bốn trong số các thực thể và chuyển sang củng cố sự hiện diện của họ bằng cách xây dựng cầu tàu, bến cảng và các tòa nhà cao tầng. Việc xây dựng một đường băng dài 3110 mét trên bãi Chữ Thập cùng với các thông tin rằng một đường băng tương tự sẽ được xây dựng tại bãi Xubi để cung cấp cơ sở hạ tầng hỗ trợ việc triển khai tất cả các loại máy bay quân sự TC hiện có. TC có thể đột ngột và trong thời gian ngắn chuyển đổi các cơ sở có bề ngoài là dân sự và khoa học thành các căn cứ tiền tiêu cho các hoạt động quân sự.
Vấn đề thứ ba liên quan đến các tác động lên môi trường biển của các hoạt động xây dựng của TC. Là một bên tham gia ký kết UNCLOS, TC đang bị ràng buộc phải bảo vệ môi trường biển. Các quan chức TC nhiều lần tuyên bố rằng họ đã cân nhắc các tác động lên môi trường của hoạt động xây dựng của họ và không có mối nguy hại đang hiện hữu. Khẳng định của TC đang bị thách thức bởi các quan chức Philippines cũng như các nhà khoa học biển. Hình ảnh vệ tinh cho thấy rõ dấu nạo vét trên các rạn san hô liền kề với nơi TC đang xây dựng các đảo nhân tạo.
Không, TC đang không cải tạo đảo đá. TC đang xây dựng các căn cứ tiền tiêu trên các đảo nhân tạo cho đội tàu đánh cá, các tàu thăm dò dầu và khí đốt và các tàu hải giám của họ. Khi TC hoàn thành việc xây dựng cơ sở hạ tầng, bao gồm các radar tầm xa, thì sẽ chỉ còn là vấn đề thời gian cho việc máy bay quân sự và tàu chiến hải quân của họ xuất hiện. Tóm lại, TC đã thành công trong việc đánh tráo khái niệm pháp lý bằng cách chuyển đổi UNCLOS thành “luật quốc tế với đặc tính Trung Quốc”. Tiến triển này sẽ thúc đẩy sự khẳng định của TC về “chủ quyền không thể tranh cãi” trên Biển Đông. Như tôi đã nói ở các bài báo khác, TC đang từ từ và cố ý đẩy trung tâm hàng hải ra khỏi khu vực Đông Nam Á.
-
Một phiên bản được đăng ở http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/242193/bien-dong-va-su-danh-trao-khai-niem-cua-tq.html
Bài gốc: Tờ Diplomat