Cảnh Giác Ảo Ảnh Nguyễn Tấn Dũng – Phan Văn Song
Lá Thơ Mở Gởi Người Bạn: Cảnh Giác Ảo Ảnh Nguyễn Tấn Dũng
Đôi lời cùng quý vị:
Trước hết, người viết chúng tôi xin quý vị cho phép chúng tôi được dùng lối viết thơ nói chuyện tâm tình với một người bạn của chúng tôi ở phía đối cực của địa cầu. Xin phép được dùng những lời thân mật riêng tư giữa hai người bạn để nói rõ tấm lòng, quan điểm và nhận định cùng lập trường của chúng tôi đối với tình hình đất nước và đối với những quan niệm hay đường hướng chánh trị của các cộng đồng người Việt tỵ nạn Cộng sản ở Hải ngoại. Bài viết tuy dưới dạng một lá thơ, nhưng đây là một lá thơ mở, vì đây cũng là một nhận định tình hình, một quan điểm, một lập trường chánh trị đối với tình hình đất nước quê hương thân yêu của chúng ta ngày hôm nay.
Cách đây hai tuần, chúng tôi có viết một tham luận tựa đề là “Hội chứng Con Ngựa Thành Troie”. Tuy là một tham luận đóng góp cho toàn quý vị đọc giả, thế nhưng đấy cũng là một trả lời, phản biện nhận định của một anh bạn, hiện sống và sanh hoạt tận Miệt Dưới Địa Cầu, xứ của những con Chuột Lớn Đại Thử. Tôi xin phép được nêu những danh tánh, vì anh cũng đã nhắc đến tên của người bạn chung, đồng hương xứ Cần Guộc với anh và tên tôi trong bài góp ý của anh với bài viết của chúng tôi.
Anh Lâm thân,
Cũng như anh đã nhắc, ba năm nay ông bạn già Trần đồng hương với anh và cá nhơn thằng tui không có dịp đi qua trốn lạnh ở Miệt Dưới, không có dịp ba anh em mình, chiều chiều ngồi nhậu “vịt lộn” uống ladze trong căn chòi nhỏ cạnh “Con Rạch Nhỏ sau nhà” anh, nói theo giọng anh Hai Tiểu Tử, của xứ Trảng Bàng, nhìn bầy cò trắng Úc châu, nhìn đoàn vịt xiêm (cũng Úc châu luôn!) rúc rỉa kiếm ăn…và bàn chiện thời sự…vẽ lại những bức tranh của một thời đã qua và vẽ lại những bức họa của một thời chưa tới!
Ba năm tuy không gặp nhau, nhưng anh em chúng tôi ở xứ Pha lang Sa lạnh lẻo nầy, lúc nào cũng theo dõi tin tức của “xóm mình, người mình, phe mình, phe ta”, và thỉnh thoảng tin tức bạn bè Miệt Xưới….
“Phone viễn xứ nhiều khi khó gọi, (nhưng) Tin i meo bật nút có ngay”
Từ Úc, báo Việt Luận vẫn gởi sang hằng tuần. Những bài vỡ, tham luận, nhận định của anh, trên các trang mạng điện tử, ngay bên xứ Pha Lang Sa, anh Trần và mình, hai anh em, tuy đường xa cách trở, nhưng cũng phone nhau, kháu nhau đọc, bàn luận, khi gặp một bài nhận định, thời sự sắc bén, công phu của anh.
Nói như vậy để anh hiểu rõ là hai anh em chúng tôi, và cá nhơn chúng tôi luôn luôn kính trọng anh, luôn luôn trân trọng cái tình bằng hữu giữa ba chúng ta. Nhớ mãi những cử chỉ quý mến, trân trọng những phút giây cạnh nhau, say sưa chuyện thời thế, mạnh dạn giải bày tâm sự đối với non sông, mạnh dạn thật tình tranh luận, thật tình trãi lòng, trãi giấc mơ “mà chẳng sợ chết thằng Tây nào”, như tôi thường nói đùa.
1/ Tôi không tin rằng Nguyễn Tấn Dũng sẽ đưa Việt Nam khỏi quỷ đạo Trung Quốc:
Anh Lâm thân,
Sau khi xin phép đọc giả đôi lời giáo đầu, tôi xin vô thẳng vấn đề. Tôi không ủng hộ những quan điểm của anh, cái nhìn của anh đã trình bày qua ba bài viết về tình hình Việt Nam, bài Con Ngựa Thành Troie của anh, Bài anh Góp Ý Bài Hội Chứng Con Ngựa Thành Troie của tui và bài 40 năm nhìn lại anh viết theo lời yêu cầu của Báo Việt Luận.
Nói tóm lại tôi không đồng ý với cái nhãn quan của anh, cách lý luận của anh, với những hình ảnh anh trình bày, phân tách vai trò của Nguyễn Tấn Dũng. Nguyễn Tấn Dũng mà anh trình bày như là một cứu cánh, một giải pháp cho Việt Nam tương lai, thoát Trung, thoát Cộng, thoát Nạn Bắc Thuộc, Tiểu Bắc (Bắc Việt) Thuộc hay Đại Bắc (Toàn Phương Bắc – Tàu) Thuộc.
Xin nói rõ cùng anh và quý anh chị em đọc giả gốc Cửu Long Đồng Nai đừng vội xem tui kỳ thị Nam Bắc, chỉ vì tui nghi ngờ cái tên Việt Cộng gốc Cà Mau và cái đám Việt Cộng gốc Nam Kỳ nầy:
2/ Tôi tuy rất hãnh diện sanh đẻ trong Nam, lớn ở Sài gòn:
Tuy gốc gác cha mẹ tui là dân ở ngoải, nhưng tui sanh đẻ trong Nam, tuổi thơ lội nước Sông Bến Nghé, Xóm Vạn Chài để bắt lăn quăn, trưa hè nóng nực, tắm nước cũng của Sông Bến Nghé ở Bến Tắm Ngựa, mà Tây gọi là Arroyo Chinois-Con Rạch Ba Tàu. Sanh và lớn lưu lổng ở Xóm Vạn Chài, nhà ngụ sau ngõ hẻm hông Đình Hát Bộ Thành Công, đường Paul Bert-Trần Quang Khải, ăn ô môi vàng răng, mút đá nhận mòn lưỡi, viết nói không cần biết hỏi ngã, vờ dờ, cuối chữ có g hay không g, hay c hay t cũng kệ hổng thèm đọc, xem như nơ-pa. Và tui rất hãnh diện với cái chất Nam kỳ của tui! Nam ” Kỳ cục” của anh, của anh Trần, của các những bạn Nam kỳ của mình, có từ thời có nhau từ Tân Định đến chợ An Đông qua đến Phú Nhuận hay Tân Trụ, Biên Hòa của những ngày lánh nạn. Đó là cái gốc của “tụi mình, phe mình”, vì nó là “người mình”, nghe “rất đã cái lỗ tai” “phái cái lỗ nhĩ“!
Khác với từ “phe ta” tui thường dùng trong các bài viết. Từ “phe ta” để chỉ toàn dân Miền Nam của chế độ Quốc Gia, của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, của toàn dân quân cán chánh của chánh thể Việt Nam Cộng Hòa.
Tui dùng cặp chữ “người mình” cho “phe mình” cho dân thiệt sự là dân Nam kỳ, nhứt là dân Sài gòn của tui. Tim tui rung động, và tui rất ướt át khi nghe những tên, những địa danh, hoàn toàn xưa, của một thời, rất Sài gòn. Tân Định, Đất Hộ, Rạp Hát Bộ Thành Công, Chợ Cũ, Nancy, Gia Định, Thị Nghè, Cầu Ba Cẳng, Cầu Quây, Khánh Hội, Bến Tắm Ngựa, Cầu Kiệu, Cầu Bông, Lăng Ông Bà Chiểu… là những tên tui rất trân quý. Trân quý hơn cả Brodard, Majestic Eden, Catinat, đường Tự Do, Nguyễn Huệ, Lê Lợi, hay Thanh Thế, Viễn Đông hay cả Bà Cả Đọi … nữa. Vì những địa danh hay tên nhà hàng của nhóm sau đến với tôi khi tôi đã lớn rồi, còn nhóm trước là còn lúc thiếu nhi, bận quần xà lỏn, hai cẳng còn mốc vì lội nước sông đầy nước bùn.
Đối với cá nhơn tôi, nhóm tên trước và nhóm tên sau tượng trưng cho tôi, hai bầu trời, hai thế giới, khác biệt nhau. Tuy cùng xứ Sài gòn, nhưng đó là hai khung trời khác biệt. Nếu nhóm sau sang trọng, cao sang, có cái gì giả tạo, bề ngoài, nói tóm lại “hơi lấy le” ty tý. Thì nhóm các địa danh trước, chao ôi, nó bình dân, nó hiền hòa, nó là thời gian tui còn ở với ba tui vớ má tui, nó là những địa danh của bà già tui nói, đó là thời bà già tui cặp hai anh em tui đi đây đi đó. Vì nhà “yếu lúi” nghĩa là ông cụ “không có hoa tay đem tiền về ngon lành” nên bà già phải tảo tần đây đó “làm ăn, mua sỉ chổ nầy, bỏ mối chổ kia” để kiếm tiền thêm. Nhà không ai giữ con, bà cho hai đứa đi theo, yếu tiền nên lúc nào bả cũng dùng xe công cộng. Xe công cộng hồi đó với bà cụ là xe thổ mộ, và xe lữa điện. Còn ông già thì xe đạp. Về sau ổng có tý tiền ổng mua một cái xe Motobécane hiệu Peugeot. Thằng tui ngồi thùng xăng, cầm ghi đông với ông già, le lói, khi xe chạy hưởng gió mát vào mặt (có lẽ vì vậy mà ngày nay trong xe tôi thích cho quạt gió thổi vào mặt); thằng em kẹp ở giữa sau lưng ba và mẹ. Thế là cả nhà, chiều chiều, trời nực, chạy qua Nhà Bè hóng mát ! Hẻm hông Đình Thành Công quá chật, ông già phải gởi cái mô tô ở ngoài Đình không đem vào sân nhà được. Đó là khung trời tuổi trẻ!
Với nhóm tên sau, với những địa danh sau, nó tượng trưng cái tuổi dậy thì, làm ra tiền, hết ngây thơ, với nào là cà rem ly, nào là máy lạnh, toàn nơi “lấy le với em, với “đào”, với bạn, làm ăn, áp phe áp phiếc …
Trái lại, nhóm các tên trước, là hình ảnh tuổi thơ, những ly xây chừng cà phê uống dỉa của những chú, những bác bạn ba, những tô hủ tiếu xe, những dỉa “hắc cảo “ ăn xong chồng lên để “phổ ky” tính tiền, hay ly “hồng chà” ba thường gọi, hay miếng bánh “dầu cháo quẩy “ ba xé chia cho… Đó là cái gốc gác của tôi, đẻ và lớn lên ở đường hẻm. Đúng vậy, thằng tui là dân đường hẻm Sài gòn, thằng tui là dân ở xóm! Xóm Vạn Chài, hẻm Thành Công, đường Paul Bert, Trần Quang Khải, chợ Tân Định, anh Lâm à!
Hình ảnh quê hương của tôi, không có lủy tre xanh, không có con trâu, không có con diều, không có đường đê, không có ruộng lúa, không có đìa cá, không có đường đất, đường làng, cây cau, cái giếng.
Lần đầu tiên năm 1954, thằng tui hả miệng ngạc nhiên khi thấy phụ nữ miền Bắc vấn khăn, đội thúng, mặc “váy” đen, và đái đứng. Ngu đần và thật thà, tôi về nhà hỏi mẹ, bị mẹ vã miệng, biểu lần sau thấy phụ nữ Bắc đái không được dòm. Má ơi! bả đứng sát cái cây, bả tè trước mắt mà má biểu con hổng ngó! (Xin lỗi tất cả các chị miền Bắc, nhứt là dân Hà nội ngàn năm văn vật đài các, nhưng đó là kỷ niệm xưa năm 54, hồi đít nớp xăng hồi đó, chắc bây giờ hết rồi! – thằng tui thấy sao, nhớ sao, kể vậy!).
Ngày nay cũng vậy, tuổi trên 7 bó, tôi vẫn không có kỷ niệm với nhà Hàng Thanh Thế, với “pâté chaud”, tôi không có kỷ niệm “pho ma đầu bò”, tôi không nhớ “Maggi” hay bơ Bretell gì cả. Mà tôi nhớ tiếng guốc, nhớ mùi hột cải (mù tạt tây không phải hột cải)! Nhớ cái mùi bùn đặc biệt của Xóm Vạn Chài, nhớ tiếng thùng nước chờ phiên, nửa đêm, trời nóng, tụi tui được má cho ngủ ghế bố ngoài hiên, trước cái phông tên nước đầu hẻm nằm ngoài đường Paul Bert, hay tiếng gõ lóc cóc của anh bán hủ tiếu phía chợ Tân định…
Thật là hổng phải chúng ta cùng quê hương Việt Nam mà chúng ta có cùng kỷ niệm!
Vì vậy tui thương cái tên Cần Guộc của quê hương các anh, cũng như tui thương cái tên Tân Trụ nơi gia đình tui đi lánh nạn.
3/ Nhưng tôi không tin những tổ chức chánh trị hay các nhơn vật Việt Cộng gốc Nam Kỳ
Anh Lâm thân,
Tôi không đồng ý với anh, và chống cái luận thuyết, hay giả thuyết của anh về cái chất Nam kỳ của Phong Trào Giải Phóng Miền Nam, hay của Ba Dũng Đồng Chí X , hay của những Việt Cộng miền Nam, như Võ Văn Kiệt, Nguyễn Văn Trấn đã “làm dịu” đi chất Cộng sản.
Anh đưa những dữ kiện để chứng minh, nào trường hợp Trần Bửu Kiếm lúc Hội đàm Paris muốn đứng riêng độc lập tách rời hẳn khỏi phái đoàn Miền Bắc, nào Trần Bửu Kiếm và Mặt Trận Giải Phóng dù sao cũng là tổ chức của người Miền Nam, và họ không Cộng sản quá khích, mà gồm rất nhiều người “thiệt tình chống Mỹ !”. Theo lý luận anh, “vì là người Miền Nam, nên họ gồm toàn là những thành phần “tử tế“, “ít Cộng sản, “ít hồng”, ít ác ôn, ít quá khích hơn nhóm những người Cộng sản gốc Bắc Kỳ hay Trung Kỳ Khu Năm Khu Tư gì gì đó!”.
Và anh cũng kể rằng, “vì vậy Trần Bửu Kiếm bị hạ và bị thay thế bởi Nguyễn Thị Bình”. Rồi anh khen nào Nguyễn Cơ Thạch cũng thấy và tố cáo từ nay Bắc thuộc rồi sau Hôi Nghị Thành Đô! Trong lập luận của anh, anh tin cậy vào Tổ chức Mặt Trận Giài Phóng, anh tin cậy vào chất Nam Kỳ, hay nói theo giọng Việt Cộng chất Nam Bộ.
Riêng tôi xem phép dùng từ Nam Kỳ vì nó có từ thời Nhà Nguyễn.
Tôi không tin vào cái tánh yêu nước của người Cộng sản nói chung. Mặc họ gốc Nam,Trung Bắc, trí thức, nhà văn nhà thơ gì gì đi nữa ! Họ là Cộng sản cả. Tại sao một khoảng thời gian dài mà cả nhóm trí thức, nhà văn, nhà thơ, văn hay thơ giỏi, toàn là giỏi, mà có thể chấp nhận phục vụ một chế độ tàn bạo như vậy? Nội cái chuyện Cải cách Ruộng Đất ! Đừng đổ thừa Đảng Cộng Sản, đừng đổ thừa Tàu! CảĐảng, cả Nước “hồ hởi, phấn khởi”, “sung sướng giết” không một ai cưởng lại. Tố Hữu làm thơ ca tụng “Giết!” , thế mà những trí thức du học Tây về, những Nguyễn Mạnh Tường, những ai nữa kìa, tôi quên tên rồi, hay Nguyễn Khắc Viện, hay nhóm Việt Kiều Yêu Nước, dân du học, bằng cấp trường lớn Pháp, Tiến Sĩ, Thạc sĩ, kỹ sư, giáo sư… cấp tiến, cởi mở phóng khoáng vẫn ủng hộ những cuộc “tàn sát” kia … Còn những nhà thơ nhà văn, những con người đầy thơ mộng, đầy ôn hòa, mơ ước vẽ đẹp, vẫn ủng hộ…, sao không trốn đi? Sao không vượt biên đi? Tất cả là đồng lỏa. Tất cả là đồ hèn! Một Tô Hải có nói, nhưng quá già! Một Dương Thu Hương có nói nhưng cũng quá già, Trần Đỉnh quá trễ… Bùi Tín, Vũ Thư Hiên chẳng ai nói, chẳng ai hối hận là đã một thời, im miệng, ươn hèn, đồng lỏa! 40 năm đồng lỏa, chờ thời, lưởng lự, ù ơ dí dầu, bịt miệng, bịt tai, bịt mắt nít thở qua sông! 40 năm nhục nhã vì nhịn nhục! Nín thở qua sông, nín thở sắp hàng xin cơm thửa canh cặn của Bác Đảng! Các anh Cộng sản ngày nay khi tỉnh ngủ có cảm thấy tủi hỗ không?
May quá còn chúng ta ở Hải ngoại! Nhờ chúng ta có đấu tranh, nhờ chúng ta giữ được ngọn cờ vàng, giữ được bài quốc ca, giữ được căn cước tỵ nạn! Nhờ chúng ta nhớ và giữ được Ngày Quốc Hận Tháng Tư Đen, Ngày Quân Lực! Xin trân trọng cám ơn các cộng đồng người Việt Tự Do toàn thế giới!
Nhưng, xin đừng gởi gắm nghị lực đấu tranh vào những lỉnh kỉnh đấu đá bên trong.
Việc trong nước do người trong nước phụ trách. Người dân Việt Nam trong nước phải chứng minh họ có muốn thoát Cộng, thoát Trung không? Chuyện cải tổ Đảng, sắp xếp nhơn sự của Đảng Cộng sản, kệ Đảng Cộng sản. Người dân trong nước không nên bàn không nên xía vào việc làm Đảng Cộng sản. Mà cũng chẳng mắc mớ thằng Tây nào mà mình ở Hải ngoại mình bàn, mình ủng hộ Ba Dũng, hay mình không ủng hộ Ba Dũng! Who Care?
Thằng Tây hổng ke, thằng Mỹ hổng ke, thằng Việt Cộng hổng ke, tại sao mình ke?
Tôi phải nói rằng tôi không đồng ý với anh vì anh là một cây viết có tầm vóc, một cây viết có ảnh hưởng. Khi anh đưa một giả thuyết “ba láp” như vậy,
(xin lỗi anh dùng từ nầy, vì không có từ khác – dù anh có nói rằng anh có quyền mơ và nói – không chết thằng Tây nào – nhưng tôi sơ chết thằng Việt Nam ta đấy, vì nó nhẹ dạ thật thà và chán ngấy chánh trị, chánh ngấy 40 năm “thù hận”)
anh sẽ làm lung lay những lập trường của người hải ngoại tỵ nạn, của người trong nước thiệt tình thương nước yêu nòi.
Vai trò người cầm bút như chúng ta quan trọng lắm! Chúng ta có những bạn bè thân hữu của chúng ta qua những bài viết, ta gây ảnh hưởng ít nhiều những suy nghĩ của họ. Họ nghĩ đúng chúng ta sai làm họ lưởng lự đắn đo, ta gây “hoang man” họ. Họ nhìn sai, mà ta sai, là ta xúi họ đi sai.
Hãy nhìn về miền Bắc Cộng sản đi và đánh giá vai trò trí thức, nhà văn nhà thơ suốt thời gian 1945 – 1975. Họ đã đồng lỏa với Đảng Cộng Sản đưa dân miền Bắc vào Hỏa Ngục Cộng sản.
Chúng tôi đã từng nói với anh em bạn bè, tôi không phục các anh trí thức “học giỏi” bằng cấp cao về phục vụ Cộng Sản, … như những Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Khắc Viện …gì gì đó! Cũng tại họ, tại vì chính cái bằng cấp, cái tiếng tăm của các vị ấy đã đồng lỏa thôi thúc sanh viên học sanh nướng thân cho Cộng sản. Tôi Khinh Họ, Việc Họ Bị Tai Nạn, Thất sủng, Tù Tội, Đày Đoạ! Thật Đáng thương! Tôi Thương Hại Họ!
Còn những các anh trí thức, nhà văn, nhà thơ “xúi trẻ ăn cứt gà chết cho Cộng sản” nay vẫn sống nhăn, phè phởn sau 1975. Từ Văn Cao, đến Tô Hải, đến Xuân Diệu, Huy Cận, Trần Đỉnh, Nguyễn Khắc Viện, và nhiều lắm kể không hết kể cả những người miền Nam như Bà Dương Quỳnh Hoa, và ông chồng tên Nghị, hay những người mà anh Lâm cho là thất sủng… cũng vậy. Chả thấy tay nào chết cả. Họ chẳng những sống thọ, mà còn sống dai nữa! Một tên đồ tể như Võ Nguyên Giáp mà sống trên 100 tuổi! Thất là vận nước Việt Nam hết thời!
Đổ thừa Đảng Cộng Sản dễ quá! Ông Diệm trong Nam chỉ đụng vài nhơn vật chánh đảng, vài nhơn vật Giáo Phái, vài nhơn vật Tôn giáo chánh là bị thiên hạ tố cáo cuối cùng bị lật đổ và bị giết. Âu đó là cái thái qua của dân quân miền Nam. Và dân quân miền Nam cũng đừng đổ thừa Mỹ, đổ thừa Quân đội! Tất cả dân miền Nam đều là đồng lỏa giết gia đình Ông Diệm. Kể cả những nhóm cựu Cần Lao ngày nay, giả đò khóc và làm giổ Cụ Diệm! Tại sao lúc đó không đứng ra bênh vực Cụ Diệm đi!
Nói như vậy để anh Lâm thấy rõ, phe ta thua vì
Chúng ta không có quyết tâm “be bờ” Cộng sản. Còn Cộng sản quyết tâm “xâm lược và xâm lăng” Miền Nam Việt Nam.
Từ ngữ “Giải Phóng” là khi nào ta bị tù, bị giam, bị đày kia mà. Miền Nam tự do đi lại, tự do mua bán, tự do ngôn luận… Tự do đến đổi bán thuốc tây cho Việt Cộng, bán ladze cho Việt Cộng, bán gạo cho Việt Cộng. Chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa chẳng bắt …chưa kể, cái cảnh chồng làm quan chống địch, vợ bán buôn với địch… Tự do ngôn luận, Trịnh Công Sơn, trốn lính, trốn quân dịch, viết nhạc phản chiền, phe ta phớt lờ…
Chúng ta có những dân biểu nằm vùng vừa ăn lương chế độ ta, hưởng quy chế ưu tiên (dân biểu) ta, mà nằm vùng chống ta.
Còn chế độ miền Bắc, chế độ tem phiếu, bao cấp, thiếu ăn thiếu mặc, ăn đói, tất cả là nghĩa vụ, tất cả là corvée - cọt vê, sắp hàng để nhận hàng… thế mà đi giải phóng miền Nam giàu có. Chuyện ngược đời vậy mà có thằng theo. Dân Bắc bị bưng bít theo đã đành. Dân Nam mà theo thật là Ngu Xuẩn. Những Nguyễn Hữu Thọ, những Dương Quỳnh Hoa, những Lý quý Chung, Ngô Công Đức, đâu phải dân ngu khu đen, toàn là dân có học, các ông sư Trí Quang, Thiện Minh, các thầy dòng Chân Tín, Trần Hữu Thanh… thông thái Hán Phạn, La Tinh, Tây Tàu… các sanh viên đại học chứ phải ngu gì! Lê Hiếu Đằng, Huỳnh Tấn Nẩm,… cũng theo. Lê Hiếu Đằng, trước giờ quy tiên sám hối mới lên tiếng nói phải chi hồi đó “tui biết”. Lế Hiếu Đằng biết chứ! Hắn biết cái thể chế nhơn bản, và nhơn đạo của thề chế VNCH cho phép hắn đang ở tù phá hoại, khủng bố Việt Cộng, mà vẫn được ra khám, đi dự thi Tú Tài! Tất cả tụi hắn sống ở Sài gòn chứ, biết rõ Sài gòn sống thế nào chứ. Nhưng sao khi ra Hà nôi thấy dân sắp hàng chờ hàng, sắp hàng tem phiếu, thấy dân Hà nội đói, sao không nói ra? Những tên cán bộ lúc ấy ra nước ngoài đi họp Paris, vào Sài Gòn ở Camp Davis đều thấy Sài gòn chứ? Sao khi về Hà nôi không cho dân biết. Ngày nay sắp chết, già khú, lên tiếng bất mãn.
Toàn là một lũ láo khoét cả. Im miệng, đồng lỏa để hại dân!
Vì vậy tôi không tin một giả thuyết một nhóm Lợi Ích Quốc Gia nào của Nhà Nước Việt Cộng nổi lên chiếm thế thượng phong để cưú vãn Việt Nam khỏi nạn Tàu Cộng. Đừng mơ Nguyễn Tấn Dũng làm một Thein Sen Việt Nam, một Gorbatchev Việt Nam. Nếu Yêu Nước, Xây dựng nước, sao Tỷ Phú Nguyễn Tấn Dũng và các Triệu phú đồng lỏa không tạo một công ty làm một sản phẩm made in Viet Nam ngon lành hãnh diện Việt Nam. Trái lại Ông Dũng làm gì? Tỷ phú Dũng độc quyền khai thác công ty Tắc Xi! Xin miễn bàn. Ông chỉ lo làm ăn, không đem một sánh chế gì cho Việt Nam cả!
Có nhiều anh em ở Hải ngoại viết meo, điện thoại vấn hỏi, rủ rê: “Nên ủng hộ Nguyễn Tấn Dũng để NTD dẹp bọn VC cà chớn!” Để làm gì? tôi hỏi lại. Các anh nói với tôi: “Anh không nghe discours Nguyễn Tấn Dũng đầu năm sao?” Hôm nay, tôi hỏi lại các bạn: “Các bạn có nghe bài nói chuyện ca tụng Chiến Thắng Ngày 30 tháng Tư năm 2015 không? Nào là chiến thắng chống Mỹ Ngụy tàn ác, nào là cám ơn Liên Sô, cám ơn Trung Quốc… Ôn hòa ở đâu? Hòa Giải ở đâu? Nói chi là Hòa Hợp.
Thế mà ở Hải ngoại ta, người Hải ngoại, thiệt thà, chán ngấy Chống Cộng, thèm về du hí, thương nhớ quê hương sẳn sàng xóa bỏ hận thù, xóa bớt những vết tỳ quá khứ chiến tranh bằng những xáo trộn tinh thần, bằng những bẻ lái lập trường như xóa tên Ngày Quốc Hận, bằng những thủ đoạn giả nhơn giả nghĩa, dùng những tên như Ngày Việt Nam, Ngày Tự Do, Ngày Nhơn Quyền và cuối cùng Ngày Hành Trình Tự Do. Ngày nay cũng có kẻ muốn xóa tên Ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, sợ rằng tên ấy xem “chiến tranh quá!”.
Việt Nam Tự Do, Việt Nam Quốc Gia, Việt Nam Cộng Hòa, ba giai đoạn. 20 năm sống Tư Do, thở Tự Do. Bao kỷ niệm đẹp nhờ Tự Do, bao kỷ niệm đau buồn cũng vì Tự Do.
Việt Cộng giết ta vì muốn chiếm Tự do ta. Ta chết chóc vì pháo thù, ta chết vì lựu đạn địch, tình yêu ta dang dở vì vào quân ngũ để giữ Tự Do. Những góa phụ ta, con côi ta, những thương phế binh ta là những đau buồn nhưng cũng là những viên ngọc của sự bảo vệ Tự Do!
20 năm được Tư Do, 20 năm sống với Tự Do, thở với Tự Do nhờ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Ngày nay,một năm chỉ có một Ngày Trân Trọng Nhớ Ơn toàn thể các Quân Cán Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa mà cũng đòi đổi tên, Mắc cở chăng?
Tên Ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa Quá Khích Quá Chăng?
Tôi từ lâu, không muốn phát biểu, tạo những polémics, tranh cải vô tích sự với những anh em đi “tin tưởng Võ Văn Kiệt” coi như Võ Văn Kiệt là tay “tiến bộ” của Cộng Sản. Võ Văn Kiệt chỉ vì thốt một câu “ba phải vô thưởng vô phạt rằng “30 tháng Tư có một triệu người vui, nhưng một triệu người buồn!” Thế là hoan hô ông Kiệt!
Ông làm Thủ Tướng, mà ông không cứu một triệu người buồn!
Ông làm Thủ Tướng, mà ông để một triệu người chết bờ, chết bụi, chết đuối, chết trôi, bị hảm bị hiếp!
Ông làm Thủ Tướng, mà ông để ba triệu còn lại lang thang cầu thực làm lại cuộc đời.
Quốc Hân ngày nay là đó!
40 năm nào có quên!
Nhưng lại vẫn có người khen! Khen Võ Văn Kiệt. Rồi khen cả Nguyễn Trấn, tay cùng với Trần Văn Giàu giết bao nhà Cách mạng cùng kháng chiến chống Tây với mình. Nguyễn Trấn cũng được “khen” chỉ viết một bài gì gì đó “… cho Mẹ.”!
Xin lỗi bà con tôi là con mọt sách nhưng tôi không đọc sách của các tác giả Cộng sản. Xin quý vị lượng thứ rằng tôi không nhớ rõ những tựa hay nôi dung các bài viết của các tác giả Cộng sản.
Người Cộng sản, gốc Nam hay gốc Bắc gì đó cũng chưa chứng minh rõ ràng ngày nay họ thương dân, thương nước. Quý vị, nhận rõ tôi không dùng từ “Yêu Nước“.
Yêu Nước là một đòi hỏi to lớn nghĩ rằng ngày nay trong nước các cán bộ Cộng sản không và khó thực hiện được.
Yêu Nước là từ bỏ Đảng Cộng sản Việt Nam, chống lại Đảng Cộng sản, dám đi tù vì Chống Việt Cộng, dám chết về Chống Việt Cộng.
Yêu nước là Chống lại Tàu Cộng, dám đi tù vì Chống Tàu Cộng, dám chết về Chống Tàu Cộng.
Trong nước hiện nay, trong các thanh niên, đám trẻ, học sanh, và vài anh cán bộ già thất sủng, về hưu… còn có thấy dám chống Tàu. Còn dòm chung quanh chả thấy tay ngon lành nào, chả thấy một anh cán bộ cao cấp nào, một đoàn thể, một đơn vị bộ đội nào.
Yêu nước là dám làm loạn, làm một cuộc Cách Mạnh, một cuộc Chỉnh biến, lật đổ chế độđể phục hồi lại cho Việt Nam danh dự một Việt Nam Độc Lập, ngoài vòng cương tỏa của Tàu.
Dám không? Nguyễn Tấn Dũng dám làm không? Nguyễn Tấn Dũng chưa dám làm. Mà ở ngoài Hải ngoại đã sửa soạn hòa hợp hòa giài.
Nào Dẹp Tên Quốc Hận, nào dẹp tên Ngày Quân Lực, nào sẽ dẹp tên Việt Nam Cộng Hòa.
Nào tung những con cờ các anh chàng dissidents – cuội! Làm vẻ trí thức, sử học phân tách để nói cuộc chiến Quốc Cộng vừa qua là một cuộc nôi chiến.
Nôi chiến là phe ta đánh phe mình. Mình với Việt Cộng có cùng phe không?
Chứ miền Bắc Cộng sản, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa quân phiệt Nazi, giết người dã man, goulag, Laocai, cải cách ruông đất, đem quân qua đường mòn Hồ Chí minh xâm nhập miền Nam tự do, dân chủ, một nước khác, một quốc gia khác được thế giới nhìn nhận, nước Việt Nam Cộng Hòa, mà không gọi là xâm lăng xâm lược? Vậy là gọi là gì?
Suốt từ 1965 đến 1975, chỉ nói 10 năm cuối cùng thôi, các chiến trường cuộc chiến đều nằm trên địa phận miền Nam Việt Nam Cộng Hoà. Cuộc Thàm Sát Tết Mậu Thân 68, ở đâu? Ở Ba đình? Hay ở Huế? Huế ở đâu? Ở miền Bắc? Ở miền Nam?
Tôi thách Cù Huy Hà Vũ cho tôi tên một trận chiến xảy ra trên địa phận miền Bắc. Trân chiến là phải có mặt quân đội hai bên đánh nhau.
Vậy thì lính của ai ở lãnh thổ của ai? Lính của ai xâm lăng đất của ai? Hỏi là trả lời.
Thế, mà vẫn có người Hải ngoại ngồi nghe. Dẹp những tay đấu tranh cuội nầy đi. Tôi không tin những tay ấy! Sanh, lớn sống, sanh hoạt trong láo khoét, họ là những con vẹt chuyên nói láo.
Vậy mà tôi vẫn bị thiên hạ mắng là Quá Khích anh Lâm à!
Vừa qua vài người nói cho tôi biết tôi thuộc thành phần Chống Cộng Quá Khích!
Sẳn lá thơ mở trò chuyện cùng với anh, tôi sẳn sàng nhận tỉnh từ “Quá Khích”.
Nếu nói phải giữ cái tên, cái tượng trưng của Ngày Quốc Hận, để trân trọng tất cả những người đã nằm xuống để cho người Việt Nam tỵ nạn cộng sản Hải ngoại có cuộc sống tự do như ngày hôm nay mà bị xem là quá khích. Chúng tôi, cá nhơn tôi cùng toàn thể bạn bè anh em tôi chấp nhận tỉnh từ “Quá Khích”.
Nếu Quá Khích là đấu tranh để Đảng Cộng sản không còn cầm quyền, trả quyền tự quyết cho người dân Việt Nam. Chúng tôi là quá khích.
Nếu quá khích là vứt bỏ bốn chữ Hòa Hợp Hòa Giải, vi bốn chữ ấy vô nghĩa. Chúng ta người Việt Tự Do Hải ngoại nầy không có nhu cầu Hòa Hợp Hòa Giải với người trong nước, vì sau khi người trong nước đã dẹp được Cộng sản rồi thì có oán thù với ai nữa. Những từ như ôn hòa, bất bạo động là những từ dỏm của Việt Cộng bày ra để dụ người Việt Tự Do Hải Ngoại thôi! Giữa người Việt với nhau trong ngoài nước không có thù hận, uất hận.
Chỉ có Thù Hận Đảng Cộng Sản thôi! Người trong nước đã tuyên bố Không thích Đảng Cộng Sản rồi.
Hãy ráng một bước nữa đi. Hãy ghét, bỏ Đảng Cộng sản.
Hãy viết lên áo, lên áp phích, biểu ngữ: Tôi Ghét Đảng Cộng Sản Tôi Chống Đảng Cộng Sản, Tôi Dẹp Đảng Cộng sản.
Hãy viết lên áo, lên áp phích, lên biểu ngữ: Chúng Ta ghét Chống Dẹp Đảng Cộng Sản.
Trăm người như Một. Lúc ấy ta sẽ Thành Công. Cả nước sẽ xuống đường dẹp bỏ Đảng Cộng Sản Việt Nam, dẹp bỏ Đảng Cộng Sản Tàu.
Chẳng phải chờ minh tinh tài tử Nguyễn Tấn Dũng với Tuồng hát bộ Đại Hội Đại Hiếc gì cả!
Ít hàng thăm anh và kính thăm, vấn an gia quyến anh,
Nhớ anh nhiều và mong anh chia sẻ những ý kiến tư tưởng của tôi.
Chúng ta tuy bất đồng ý kiến, nhưng vẫn đồng tâm sự, đồng ý về nhiều vấn đề sử học. Anh có cái tài nghiên cứu sử học tài liệu thời xưa. Mong anh đừng tiên tri, xúi dại tôi nghiệp đám nhỏ Việt Nam.
75 năm bị Việt Cộng xúi dại, tuổi trẻ Việt Nam thua thiệt thiên hạ trên thế giới rất nhiều đó anh à!!
Cám ơn anh
Cám ơn quý vị
Nay Kính bút
Hồi Nhơn Sơn, cuối tháng Năm
Phan Văn Song