Cân bằng lợi ích Mỹ-Trung thời Trump-Tập
Từ năm 1945 đến 2016, Hoa Kỳ sử dụng sức mạnh kinh tế, quân sự và hệ tư tưởng để xây dựng các thiết chế, các liên minh và các chế độ, góp phần vào tăng trưởng kinh tế toàn cầu và tránh né một cuộc chiến tranh giữa các cường quốc. Để làm được như vậy, Hoa Kỳ đã nuôi dưỡng sự trỗi dậy của một “chòm sao” các cường quốc mới; trong đó đáng chú ý có Trung Quốc – quốc gia mà giờ đây Hoa Kỳ phải thương lượng. Nếu Hoa Kỳ muốn lợi ích của mình được đáp ứng, Washington phải giành được sự hợp tác của Bắc Kinh hơn là thúc ép họ.
Hình minh họa |
Khi lên nhậm chức, tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump đã tạm gác lại một số vấn đề dễ gây bất đồng với Trung Quốc với hy vọng sẽ đạt được mục tiêu đầu tiên của mình là giải trừ vũ khí hạt nhân ở Bắc Hàn. Khi nỗ lực đó thất bại, những ưu tiên quan trọng trong quan hệ Mỹ-Trung lại trở nên sôi động với những vấn đề trước kia bị nén lại.
Vài vấn đề như vậy – chẳng hạn như hoạt động bảo vệ tự do hàng hải của Hoa Kỳ ở Biển Đông, câu chuyện về thuế suất áp lên mặt hàng thép và nhôm, bán vũ khí cho Đài Loan, lời đe dọa siết chặt dòng chảy công nghệ và đầu tư cũng như cấm vận một số công ty Trung Quốc – có nguy cơ sẽ trở nên nghiêm trọng nếu không được xử lý một cách cẩn thận hơn là cách mà chính phủ của ông Trump đang thể hiện.
Thế thì, đâu là điều hữu ích mà Hoa Kỳ có thể làm? Có ba vấn đề mà Washington nên tập trung chú ý: nuôi dưỡng một sự cân bằng quyền lực kinh tế ở châu Á để thúc đẩy sự ổn định khu vực, đạt tới sự tương hỗ (reciprocity) lớn hơn nữa trong quan hệ Mỹ-Trung và xử lý vấn đề vũ khí hạt nhân và hỏa tiễn của Bắc Hàn.
Phần trung tâm trong tầm nhìn địa chính trị của ông Tập là sự mở rộng các mối liên kết khu vực và thúc đẩy đô thị hóa, tăng trưởng kinh tế ở các nước phụ cận Trung Quốc để biến Trung Quốc thành tâm điểm của khu vực đang tăng trưởng nhanh này. Đối với Bắc Kinh, điều có có nghĩa là xây dựng mối liên kết bắc-nam – có thể coi là những chuỗi cung ứng xuất phát từ Trung Quốc, vươn tới Ấn Độ Dương, Đông Nam Á, biển Andaman, vịnh Bengal và xa hơn nữa.
Trừ phi Washington muốn châu Á trở thành không gian đơn cực đầy ảnh hưởng của Trung Quốc, Hoa Kỳ nên gắn bó nhiều hơn với việc xây dựng cơ sở hạ tầng khu vực để nuôi dưỡng những mối liên kết, không chỉ theo hướng bắc-nam [hợp tung] mà cả theo hướng đông-tây [liên hoành] từ Ấn Độ tới Việt Nam xuyên qua Miến Điện, Thái Lan và Cambodia tới Nhật Bản và ra Thái Bình Dương rộng lớn.
Về tính tương hỗ, khi Trung Quốc được kết nạp vào Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 2001, hoạt động ngoại thương và tài chính hải ngoại của nước này tăng trưởng rất mạnh mẽ. Tương tự, thặng dư của Trung Quốc trong giao dịch thương mại toàn cầu, và thương mại song phương với Hoa Kỳ, cũng tăng trưởng rất mạnh. Chẳng bao lâu, Bắc Kinh đã có được công nghệ, tiền vốn và năng lực để nắm lấy những cơ hội đang mở rộng ở nước ngoài mà không phải cung cấp sự tiếp cận thị trường nội địa cho Hoa Kỳ và các nước khác theo nguyên lý tương hỗ, có đi có lại.
Từ năm 2008 trở về sau, nhịp độ tự do hóa kinh tế nội địa, tài chính và ngoại thương đã bị chậm lại. Các đối tác thương mại của Trung Quốc khắp thế giới bắt đầu nhận ra rằng khi Trung Quốc lao ra nước ngoài để nắm bắt cơ hội thì nước này vẫn không mở cửa thị trường theo nguyên lý tương hỗ ở những lĩnh vực mà doanh nghiệp nước ngoài có lợi thế so sánh. Hậu quả là, vấn đề “tính tương hỗ” và “công bằng” đã nổi lên hàng đầu, trọng tâm trong quan hệ Trung-Mỹ. Giờ đây, các công ty Hoa Kỳ phải tự hỏi, tại sao doanh nhân Trung Quốc được tự do thâu tóm các doanh nghiệp công nghệ và dịch vụ của Hoa Kỳ ở những lĩnh vực mà Trung Quốc cấm cửa doanh nhân nước ngoài?
Trong khi nỗi căm ghét của người Mỹ dâng cao thì rất khó tìm ra những phương cách thúc đẩy tính tương hỗ với Bắc Kinh sao cho không gây thiệt hại cho người lao động Mỹ hoặc những người ngoài cuộc khác. Hạn chế vốn đầu tư của Trung Quốc vào các doanh nghiệp tạo ra việc làm sẽ làm giảm cơ hội có công việc của người Mỹ. Nhưng ngược lại, bỏ qua vấn đề này sẽ kích thích những đề xuất cực đoan trong nội bộ Hoa Kỳ cũng như sự khinh thường của Bắc Kinh.
Cuối cùng, vấn đề Bắc Hàn. Ông Trump nghĩ rằng những người tiền nhiệm của ông đã đúng trong việc gây sức ép buộc Bắc Kinh phải gia tăng áp lực lên Bắc Hàn và đánh giá rằng Bắc Kinh có đầy đủ phương tiện để làm như vậy. Ông Trump tin rằng, chỗ sai lầm của những người tiền nhiệm là ở chỗ trong khi gây sức ép cần thiết lại không nhân nhượng đủ để Bắc Kinh thấy họ đáng làm như vậy.
Và thế là, ông Trmp đề nghị Washington sẽ nhượng bộ Bắc Kinh ở một số lĩnh vực khác, trong đó có thương mại và Đài Loan – để đổi lấy việc Bắc Kinh gia tăng áp lực lên Bắc Hàn. Trong số những lý do khiến cho cách tiếp cận này đến nay vẫn không có hiệu quả (cho dù một số sự nhượng bộ mà ông Trump đã hứa hoàn toàn có khả năng thực hiện được), thì lý do nổi trội nhất là Bình Nhưỡng chống lại việc đi theo bất kỳ lời khuyên nào từ bên ngoài, vì sợ rằng chúng sẽ đưa chế độ Bắc Hàn tới chỗ chết.
Kết quả là giờ đây chính phủ của ông Trump một mình đối mặt với những sự lựa chọn khó khăn giống như các vị tiền nhiệm của ông, ngoại trừ chuyện ông Trump đặt cược quá lớn vào vấn đề này và Bắc Hàn đã đi xa hơn trên con đường phát triển vũ khí hạt nhân.
Đã đến lúc Washington (có sự tham vấn chặt chẽ với các đồng minh Nam Hàn và Nhật Bản) nên thừa nhận rằng Bắc Hàn có một khả năng vũ khí hạt nhân khiêm tốn, và Hoa Kỳ nên thay đổi mục tiêu, từ giải trừ vũ khí hạt nhân sang phòng ngừa việc sử dụng và phổ biến rộng rãi hơn cái khả năng mới này.
Quan hệ Hoa Kỳ-Trung Quốc đang đầy rẫy vấn đề khó và sẽ tiếp tục như vậy trong một tương lai nhìn thấy được. Hoa Kỳ không còn đứng ở vị trí có thể thúc ép Trung Quốc để buộc nước này phải hợp tác. Mọi sự thay đổi chính sách ở Bắc Kinh phải được mang ra thương thảo và trong những vụ thương thảo này Washington phải tìm được sự cân bằng quyền lực và lợi ích.
David M Lampton (*)
Người dịch: Huỳnh Hoa – East Asia Forum
(*) David M Lampton là giáo sư và giám đốc trung tâm nghiên cứu Trung Quốc tại trường nghiên cứu quốc tế cao cấp thuộc đại học Johns Hopkins. Cuốn sách mới gần đây của ông là “Following the Leader: Ruling China, from Deng Xiaoping to Xi Jinping” (Đi theo lãnh tụ: Cai trị Trung Quốc từ Đặng Tiểu Bình tới Tập Cận Bình).
(Viet-studies)
http://www.tintuchangngayonline.com/2017/12/david-lampton-can-bang-loi-ich-my-trung.html