Cách khôn ngoan để ‘chia rẽ’ Nga và Trung Quốc.
Những cây gậy của Mỹ, không phải củ cà rốt, đã làm gia tăng căng thẳng
giữa Trung Quốc và Nga trong Chiến tranh Lạnh và các chiến thuật gây
sức ép tương tự sẽ có hiệu quả ngày nay
ANDREW TAFFER Ngày 26 tháng 2 năm 2025

Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và Tổng thống Nga Vladimir
Putin chụp ảnh nhóm trong hội nghị thượng đỉnh G20 tại Osaka,
Nhật Bản, vào ngày 28 tháng 6 năm 2019.
Ảnh: Asia Times Files / AFP qua Getty / Dominique Jacovides
Vào tháng 10 năm 2024, ứng cử viên tổng thống khi đó là Donald
Trump đã nhận xét , “Một điều mà bạn không bao giờ muốn xảy ra là
bạn không bao giờ muốn Nga và Trung Quốc thống nhất… Tôi sẽ phải
chia rẽ họ, và tôi nghĩ tôi cũng có thể làm được điều đó. Tôi phải chia
rẽ họ.”
Hiện nay, động thái ngoại giao gần đây của Tổng thống Trump với Nga
và sự rạn nứt công khai giữa Washington và Kyiv có thể là bước đầu
tiên trong nỗ lực của Mỹ nhằm tạo khoảng cách giữa Moscow và Bắc
Kinh.
00:01
Với tất cả những nhược điểm của nó, ý tưởng hòa giải Nga để cai
nghiện Trung Quốc là hợp lý về mặt chiến lược. Nó sẽ giúp làm suy
yếu cái mà một số người gọi là ” liên minh bán phần ” giữa Bắc Kinh và
Moscow trong khi cho phép Washington tập trung sự chú ý và nguồn
lực vào sự cạnh tranh với Trung Quốc.
Đây sẽ là sự đảo ngược của thành tựu Chiến tranh Lạnh của Henry
Kissinger khi ông tạo điều kiện cho sự xích lại gần với Bắc Kinh vào
đầu những năm 1970 để cô lập Moscow. Tuy nhiên, các điều kiện hiện
tại khiến khả năng thành công trong việc tạo ra sự chia rẽ giữa Trung
Quốc và Nga trở nên thấp và chi phí cho việc cố gắng trở nên cao.
Một cách tiếp cận thay thế – một cách tiếp cận bắt nguồn từ lịch sử và
gây áp lực ngày càng tăng lên cả Mátxcơva và Bắc Kinh – sẽ tăng cơ
hội thành công và giảm chi phí liên quan.
Bất chấp những điều gây khó chịu trong mối quan hệ, Nga sẽ không dễ
dàng từ bỏ những lợi ích mà Trung Quốc mang lại. Ngoài việc là đối
tác quốc phòng có năng lực nhất của Moscow và là đối tác thương mại
hàng đầu, Bắc Kinh còn chia sẻ sự thù địch về mặt ý thức hệ với
phương Tây, giúp phương Tây phi đô la hóa các giao dịch quốc tế để
trốn tránh lệnh trừng phạt, chia sẻ bí quyết giám sát và kiểm duyệt, và
cung cấp một “hậu phương” an toàn dọc theo biên giới đất liền chung
của họ.
Hơn nữa, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và Tổng thống Nga
Vladimir Putin có mối quan hệ cá nhân bền chặt khác thường . Và
trong khi xung đột ở Ukraine đã làm sâu sắc thêm sự phụ thuộc của
Nga vào Trung Quốc, thì cả hai đã củng cố mối quan hệ kể từ giữa
những năm 1980 và là đối tác thân thiết trước khi Nga xâm lược
Crimea năm 2014.
Tuy nhiên, Washington vẫn có nhiều điều để đề nghị với Moscow tại
bàn đàm phán: có thể gây sức ép buộc Ukraine từ bỏ lãnh thổ và chấp
nhận lệnh ngừng bắn, có thể ngăn cản Kyiv gia nhập NATO và có thể
dỡ bỏ lệnh trừng phạt kinh tế đối với Nga.
Tuy nhiên, nếu không có sự tái triển khai viện trợ quân sự của phương
Tây cho Ukraine, vị thế của Nga trên chiến trường về cơ bản đảm bảo
rằng họ sẽ giữ được lãnh thổ Ukraine mà mình chiếm đóng và Kiev sẽ
không thể gia nhập NATO.
Moscow cũng không có khả năng thế chấp mối quan hệ của mình với
Bắc Kinh để đổi lấy việc nới lỏng lệnh trừng phạt. Nếu Nga sẵn sàng
tách mình khỏi Trung Quốc, họ có thể sẽ yêu cầu những nhượng bộ
tốn kém không thể chịu đựng được – ví dụ, tổ chức lại cấu trúc an ninh
của châu Âu theo cách gây tổn hại đến NATO.
Đây là lý do tại sao một số người cho rằng việc tạo ra sự chia rẽ giữa
Trung Quốc và Nga chắc chắn sẽ thất bại và thậm chí không nên thử.
Tuy nhiên, ngược lại với trực giác, một cách tiếp cận đối đầu hơn có
thể giúp Washington định vị tốt hơn để xa lánh Moscow khỏi Bắc Kinh
trong dài hạn và với chi phí thấp hơn.
Chính những cây gậy của Mỹ – chứ không phải củ cà rốt – đã góp phần
làm trầm trọng thêm căng thẳng giữa Trung Quốc và Nga trong những
năm Chiến tranh Lạnh trước khi Kissinger khai thác sự chia rẽ của họ.
Trong khi đối mặt với Liên Xô ở Châu Âu và Trung Đông, chính quyền
Dwight Eisenhower đã áp dụng chính sách cứng rắn đối với Trung
Quốc.
Nó cam kết bảo vệ Đài Loan, duy trì lệnh cấm vận thương mại đối với
Bắc Kinh và khuyến khích Quốc dân đảng ở Đài Loan tiến hành các
cuộc tấn công vào đại lục. Áp lực quân sự và kinh tế của Hoa Kỳ đã
buộc Trung Quốc phải đưa ra những yêu cầu ngày càng lớn hơn đối
với Liên Xô mà Liên Xô không thể đáp ứng và điều này đã gây ra sự
phẫn nộ ở Moscow.
Chính sách gây sức ép của Eisenhower cũng góp phần phơi bày và làm
trầm trọng thêm các lợi ích khác biệt của Trung Quốc và Nga đối với
Đài Loan. Năm 1958, nhà lãnh đạo Trung Quốc Mao Trạch Đông đã
khởi xướng một cuộc khủng hoảng về Đài Loan một phần vì thất vọng
với cam kết quốc phòng của Washington đối với hòn đảo này.
Hành động của Bắc Kinh, khiêu khích những lời đe dọa hạt nhân gián
tiếp của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc, đã khiến Moscow tức giận và lo
ngại . Liên Xô lo sợ sẽ bị mắc kẹt trong một cuộc chiến tranh hạt nhân
với Washington vì Đài Loan, điều mà Moscow không mấy quan tâm.
Cuộc khủng hoảng đã khiến nhà lãnh đạo Nga Nikita Khrushchev
phải suy nghĩ lại về mối quan hệ của Nga với Trung Quốc, bao gồm cả
sự khôn ngoan trong việc cung cấp viện trợ quân sự cho Bắc Kinh.
Khi cuộc khủng hoảng diễn ra, Moscow bắt đầu trì hoãn việc chuyển
giao công nghệ hạt nhân cho Bắc Kinh, và năm sau, họ đã hoàn toàn từ
bỏ việc cung cấp nguyên mẫu vũ khí hạt nhân. Đến năm 1960, Liên Xô
đã rút toàn bộ chuyên gia khỏi Trung Quốc và sự chia rẽ Trung-Xô đã
diễn ra.
Ngày nay, áp lực của Hoa Kỳ đối với cả hai quốc gia này nhằm mục
đích làm trầm trọng thêm những lợi ích vốn đã khác biệt của họ ở
Ukraine.
Điều này sẽ bao gồm việc hòa giải với Kyiv và tăng gấp đôi viện trợ
quân sự cho nước này trong khi đe dọa tăng cường các hình phạt kinh
tế đối với Bắc Kinh không chỉ vì cung cấp các vật tư có mục đích sử
dụng kép giúp thúc đẩy cỗ máy chiến tranh của Moscow mà còn vì bán
các hàng hóa dân sự giúp giảm thiểu thiệt hại do chiến tranh gây ra
cho xã hội Nga.
Trump thậm chí có thể áp thuế đối với hàng nhập khẩu của Trung
Quốc phụ thuộc vào việc giảm đáng kể xuất khẩu sang Nga. Làm như
vậy sẽ làm tăng nhu cầu viện trợ vật chất của Nga trong khi khiến
Trung Quốc miễn cưỡng cung cấp hơn.
Trong khi xung đột ở Ukraine đã trở thành mối quan tâm sống còn đối
với Putin, thì đối với Trung Quốc, nó lại là – giống như Khrushchev đã
xem Đài Loan – một mối phiền toái. Bắc Kinh có lợi ích trong việc giúp
Nga tránh thất bại, nhưng lại không muốn phải chịu những chi phí lớn
thay mặt cho Moscow.
Đây là lý do tại sao Trung Quốc phần lớn kiềm chế cung cấp viện trợ
vũ khí sát thương, cấm các tàu chở dầu của Nga bị trừng phạt khỏi các
cảng lớn và thiết lập những cách mới để trốn tránh lệnh trừng phạt
của Hoa Kỳ, đặc biệt là đối với các tổ chức tài chính của nước này .
Áp lực ngày càng tăng đối với Trung Quốc và Nga sẽ tạo ra sự căng
thẳng giữa hai bên có thể được khai thác sau này tại bàn đàm phán.
Một nước Nga đối mặt với quân đội Ukraine được cung cấp đầy đủ và
không bị ràng buộc và ngày càng phẫn nộ với Trung Quốc vì đã từ chối
viện trợ quan trọng vẫn sẽ cần những nhượng bộ để cai nghiện Bắc
Kinh.
Nhưng những nhượng bộ cần thiết sẽ ít hơn, ít quan trọng hơn và dễ
chấp nhận hơn. Và chúng có thể tạo ra loại lợi ích chiến lược vượt trội
trong cuộc cạnh tranh của Washington với Bắc Kinh giống như sự xích
lại gần của Kissinger đã làm trong cuộc cạnh tranh với Liên Xô vào thế
kỷ trước.
Andrew Taffer là nghiên cứu viên tại Trung tâm Nghiên cứu các vấn đề
quân sự Trung Quốc tại Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc gia thuộc Đại
học Quốc phòng Hoa Kỳ. Bài luận này thể hiện quan điểm cá nhân của ông
chứ không phải quan điểm của Đại học Quốc phòng Hoa Kỳ, Bộ Quốc
phòng Hoa Kỳ hoặc chính phủ Hoa Kỳ.
Hoàng Đình Khuê – Chuyển ngữ.
Ngày 26 tháng 2 năm 2025