Biển Đông: Học giả TQ nói VN có thể nhượng bộ chủ quyền Hoàng Sa cho Bắc Kinh
Trong bài xã luận bằng tiếng Trung dài gần 20 trang, giáo sư Triệu Úy Hoa cho rằng các lãnh đạo Việt Nam nghĩ rằng Việt Nam có thể nhượng bộ Trung Quốc để đạt được các thỏa thuận.
Ông Triệu viết rằng đã có một thỏa thuận tồn tại trong suy nghĩ của các lãnh đạo Việt Nam: Nếu Trung Quốc hứa không dùng vũ lực để chiếm các đảo ở Trường Sa do Việt Nam kiểm soát, thì Việt Nam sẽ không đề cập đến chủ quyền Hoàng Sa hoặc sẽ không sử dụng Hoa Kỳ để can thiệp vào tranh chấp Việt-Trung.
Nói cách khác, ông Triệu cho rằng Việt Nam có khả năng nhượng bộ chủ quyền tại Hoàng Sa để củng cố vị trí tại Trường Sa; đồng thời nhượng bộ một cách có giới hạn ở Trường Sa liên quan đến đường phân định vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) từ đường bờ biển của VN.
Ông Triệu cũng nghĩ rằng ‘Việt Nam sẽ không kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế’ mà chỉ “dùng chủ đề này như một công cụ để đe dọa, gây áp lực lên Trung Quốc”.
Về quan hệ với Mỹ, ông Triệu phân tích các phát biểu của các tướng Việt Nam và kết luận rằng: Các lãnh đạo Việt Nam tin “Mỹ chỉ dùng Việt Nam và sẽ không từ bỏ các chính sách lật đổ của mình đối với Việt Nam. Các học giả Việt Nam thân cận với giới ra quyết định tin rằng sự trỗi dậy của Trung Quốc là không thể ngăn cản”. Và rằng các lãnh đạo Việt Nam ‘không có niềm tin ở Mỹ’, mà tin rằng Mỹ nhiều khả năng sẽ trao đổi lợi ích với Trung Quốc sau khi Bắc Kinh đáp ứng các yêu cầu cơ bản về ‘tự do hàng hải’ ở Biển Đông, phản bội Việt Nam, và thừa nhận các đòi hỏi về chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông.
Ông Triệu chỉ ra rằng các lãnh đạo Việt Nam tin rằng nếu Việt Nam hoàn toàn đi theo Mỹ, Việt Nam sẽ trở thành nạn nhân trong trò chơi quyền lực giữa Mỹ và Trung Quốc. Do đó lựa chọn tốt nhất cho Việt Nam là duy trì thế cân bằng với Trung Quốc và Hoa Kỳ.
Ông Triệu cũng cho rằng trước năm 1975, Việt Nam hoàn toàn thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa, quần đảo Hoàng Sa và các vùng nước xung quanh, dù ông không đưa ra bằng chứng nào.
Bên cạnh đó, giáo sư Triệu dành nhiều trang mô tả các thay đổi mới trong chính sách Biển Đông của Việt Nam kể từ khi ông Nguyễn Phú Trọng lên nắm quyền năm 2011 như sau:
- Việt Nam khẳng định rằng Hoàng Sa, Trường Sa là các đảo đá không thích hợp cho con người sinh sống, do đó không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa (Năm 1977, trong “Tuyên bố của Việt Nam về lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa”, Việt Nam tuyên bố rằng mình có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa).
- Việt Nam thu hẹp diện tích vùng biển trong yêu sách tài phán của mình trên Biển Đông
- Việt Nam nỗ lực tìm kiếm sự đồng thuận với các nước Đông Nam Á có cùng yêu sách trên Biển Đông
- Việt Nam cố gắng không nói rõ quan điểm của mình về các tàu quân sự của nước ngoài đi qua khu vực tranh chấp trên Biển Đông
Đặc biệt, ông Triệu chỉ ra sự thay đổi trong thái độ của Việt Nam đối với ‘Việt Nam Cộng Hòa’ (VNCH)- không còn gọi đây là ‘chế độ con rối Sài Gòn’ – bởi vì cần dùng các hoạt động của VNCH trước năm 1975 để phục vụ cho các yêu sách chủ quyền hiện thời của CNXHCNVN.
Khả năng nhượng bộ chủ quyền?
Trao đổi với BBC News Tiếng Việt, Giáo sư Carl Thayer từ Úc nói rằng dựa trên cơ sở của việc ông từng tham dự 75 hội nghị và hội thảo quốc tế về Biển Đông ở 20 quốc gia kể từ năm 2009, đồng thời gặp và tổ chức nhiều cuộc thảo luận với các học giả Trung Quốc, ông cho rằng quan điểm của giáo sư Triệu Úy Hoa về khả năng Việt Nam nhượng bộ chủ quyền Hoàng Sa cho Trung Quốc ‘chỉ là thiểu số’.
“Nói cách khác, Triệu là nhà phân tích học thuật duy nhất mà tôi biết đã lập luận rằng Việt Nam sẽ từ bỏ yêu sách của mình đối với Hoàng Sa để đạt được thỏa hiệp với Trung Quốc về Trường Sa. Một đề xuất như vậy là không tưởng hiện nay tại Việt Nam.
Giới chức an ninh VN lo ngại bị Mỹ bán đứng, vì lợi ích quốc gia của Mỹ không giống với Việt Nam.
“Theo đánh giá của tôi, một thỏa hiệp lãnh thổ như Triệu đề xuất là không thể xảy ra. Dư luận trong nước ở Việt Nam về Trung Quốc liên quan tới vấn đề Biển Đông là rất tiêu cực. Theo tôi, bất kỳ nhà lãnh đạo Việt Nam nào chủ trương từ bỏ yêu sách Hoàng Sa sẽ bị coi là phản bội chủ quyền quốc gia.
“Đối với Trường Sa, Việt Nam sở hữu 21 thực thể địa lý nằm rải rác từ Bắc đến Nam của Biển Đông. Việt Nam không tuyên bố các thực thể này là đảo. Có vẻ như Việt Nam coi những thực thể này như những bãi đá nằm trong vùng lãnh hải 12 hải lý của Việt Nam.
“Việt Nam hoàn toàn bác bỏ yêu sách về chủ quyền của Trung Quốc dựa trên thuyết Tứ Sa, bao gồm cả Trường Sa.
“Khu vực duy nhất nơi Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam có liên quan là ở góc phần tư phía tây bắc của Biển Đông – nơi các EEZ của hai nước (Việt Nam tuyên bố chủ quyền tính từ đường bờ biển của mình và Trung Quốc tuyên bố chủ quyền từ đảo Hải Nam) chồng lên nhau.
“Theo tôi biết thì đã có sự chấp nhận không chính thức một đường ranh giới giả định giữa hai bên. Mỗi bên có thể thực hiện các hoạt động ở bên của mình và bên kia được tự do chỉ trích. Nhưng vấn đề chồng lấn này đến nay vẫn đang tồn tại.”
‘Việt Nam lo ngại bị Hoa Kỳ bán đứng’
Về mối hoài nghi của Việt Nam với Mỹ, GS Carl Thayer đồng ý với quan điểm của vị giáo sư Trung Quốc, dựa trên các cuộc trao đổi của ông với các sĩ quan cấp cao của quân đội Việt Nam, các quan chức an ninh và các nhà phân tích cao cấp của Việt Nam.
GS Carl Thayer nói với BBC News Tiếng Việt:
“Tất cả những người này đều lo ngại về việc bị Hoa Kỳ bán đứng vì lợi ích quốc gia của Mỹ không giống với Việt Nam. Tuy nhiên, vấn đề là những nhà phân tích này không muốn phụ thuộc quá nhiều vào Hoa Kỳ đến mức có thể bị bán đứng.
“Nhưng Việt Nam cũng nhìn nhận rằng Hoa Kỳ có lợi ích quốc gia trong việc ngăn cản Trung Quốc thực hiện bá quyền trên Biển Đông. Vì vậy, Việt Nam khuyến khích Hoa Kỳ vì lợi ích này mà đối trọng với Trung Quốc ở Biển Đông.
“Việt Nam hiểu rõ về sự trỗi dậy và tăng cường sức mạnh của Trung Quốc. Phản ứng của Việt Nam là phối hợp với Trung Quốc trên cơ sở “hợp tác và đấu tranh” cũng như phối hợp với các cường quốc khác – Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ấn Độ, Nga – để duy trì sự cân bằng.
“Việt Nam từ lâu đã có quan ngại về Hoa Kỳ và mong muốn thúc đẩy “diễn biến hòa bình” ở Việt Nam. Quan điểm này được các quan chức quốc phòng và an ninh cấp cao duy trì vì Hoa Kỳ ủng hộ nhân quyền, dân chủ và tự do tôn giáo. Trong khi chính quyền Trump bỏ qua tất cả những vấn đề này trong quan hệ với Việt Nam, Quốc hội Hoa Kỳ đã thông qua luật, chẳng hạn như Đạo luật Sáng kiến Tái đảm bảo Châu Á (ARIA), trong đó có các điều khoản về thúc đẩy dân chủ, nhân quyền và tự do tôn giáo.
“Mối quan ngại của Việt Nam được an ủi một phần bằng các thỏa thuận cấp cao với các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ để tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của nhau.”
‘VN khó có khả năng kiện TQ’
GS Carl Thayer cho biết Việt Nam đã có kế hoạch dự phòng để khởi kiện Trung Quốc từ năm 2013, hoặc có thể sớm hơn.
Dẫn chứng một vài vụ việc nghiêm trọng, như vụ Trung Quốc đưa giàn khoan HYSY 981 tới vùng biển của Việt Nam năm 2014 và đưa tàu thăm dò vào Bãi Tư Chính vào năm 2019, GS Carl Thayer nói rằng khi đó giới chức Việt Nam cho thấy triển vọng kiện Trung Quốc như một hình thức răn đe.
Nhưng GS Carl Thayer cũng lưu ý rằng Việt Nam chỉ kiện được TQ trong vấn đề hiểu và áp dụng sai Công ước Luật Biển của Liên Hiệp Quốc năm 1982 (UNCLOS) chứ không kiện được về vấn đề chủ quyền. Bởi quy định của UNCLOS không giải quyết các tranh chấp chủ quyền, phân giới trên biển hoặc các hoạt động quân sự.
“Nếu Việt Nam khởi kiện, học theo Philippines, Việt Nam sẽ phải làm rõ các quyền của mình và tình trạng của các thực thể địa lý (các đảo, các bãi đá và các thực thể dưới mực thủy triều) ở Hoàng Sa (như Tòa Trọng tài năm 2016 đã quyết định về các thực thể địa lý ở Trường Sa).
“Cuối cùng, để khởi kiện, Việt Nam cần trình bày cụ thể một số sự cố lớn dẫn đến tranh chấp mà đã không thể giải quyết bằng tham vấn song phương với Trung Quốc.
“Trong hoàn cảnh hiện nay, rất khó có khả năng Việt Nam sẽ khởi kiện Trung Quốc” GS Carl Thayer nhận định.
Tuy vậy, GS Carl Thayer cho rằng việc Malaysia đệ trình yêu sách về thềm lục địa mở rộng ở phía bắc Biển Đông lên Liên Hiệp Quốc vào tháng 12/2019 đã mở ra khả năng hình thành một mặt trận pháp lý thống nhất có sự tham gia của Malaysia, Philippines, Việt Nam và Indonesia để phản đối các yêu sách của Trung Quốc về quyền lịch sử và quyền tài phán đối với vùng biển xung quanh Tứ Sa.
Thái độ của Việt Nam với VNCN ‘không thay đổi’
GS Carl Thayer cho rằng ông Triệu đã “không chính xác” khi khẳng định rằng Hà Nội đã thay đổi thái độ đối với VNCH để củng cố lập trường của mình ở Biển Đông.
Ông đưa ra các dẫn chứng lịch sử:
“Khi Việt Nam bị chia cắt hai miền Nam, Bắc vào năm 1954 dọc theo vĩ tuyến 17, chủ quyền đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Việt Nam Cộng hòa (VNCH) chứ không phải Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.”
“Khi Trung Quốc tấn công các lực lượng hải quân của VNCH ở Hoàng Sa vào tháng 1/1974, cả VNCH và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã chính thức phản đối.”
“Năm 1976, khi Việt Nam chính thức thống nhất, Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCN Việt Nam) nắm chủ quyền đối với vùng đất và vùng biển mà trước đây đã hình thành nên Nhà nước VNCH.”
“CHXHCNVN tự coi mình là quốc gia kế thừa và những tuyên bố chủ quyền của họ là dựa trên lịch sử từ thời chúa Nguyễn và nhà Nguyễn thường xuyên tổ chức các chuyến thăm lực lượng hải quân (Đội Hoàng Sa và Bắc Hải) nhằm kiểm soát Hoàng Sa và Trường Sa.”
“Sau năm 1991, khi Việt Nam và Trung Quốc bình thường hóa quan hệ, Biển Đông nổi lên như một vấn đề ngày gay gắt trong quan hệ song phương. Điều này dẫn đến sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc chống Trung Quốc ở Việt Nam và trong giới Việt kiều. Người Việt Hải ngoại cho rằng những quân nhân VNCH bị giết vào tháng Giêng năm 1974 tại Hoàng Sa là tử sĩ.”
“Ở Việt Nam, áp lực đã bùng lên trong việc công nhận những người lính Quân đội Nhân dân Việt Nam bị Trung Quốc giết vào tháng 3/1988 tại Gạc Ma, là những người tử vì đạo,” GS Carl Thayer nhận định.”
Ý kiến khác
Viết trên Twitter, nhà báo của BBC News, đồng thời là nhà nghiên cứu Biển Đông Bill Hayton nhìn nhận rằng bài nghiên cứu này được viết bởi một học giả tại một trường đại học cấp địa phương, đăng trên một tạp chí mở, chứ không phải là báo cáo tóm tắt của Bộ Chính trị Trung Quốc.
Tuy nhiên, “đây dường như là suy nghĩ chủ đạo của những người quan sát Biển Đông của Trung Quố”‘, ông Bill Hayton bình luận.
“Có những bóng gió cho thấy rằng có thể có một sự thỏa hiệp về lãnh thổ.”
“Nếu giới ra quyết định của Trung Quốc thực sự Việt Nam chỉ dọa chứ không dám kiện, thì việc Việt Nam đưa ra các giả thuyết về kiện tụng sẽ chẳng có nghĩa lý gì. Nó sẽ chẳng ảnh hưởng tí nào tới thái độ của Trung Quốc trên Biển Đông.”