Anh-Hùng Sau Trận Chiến – Thanh Thủy
Chén tân-khổ (1) nhấp ngon mùi chính-khí
Viên đạn đồng hun mát tấm trung-can
Hùng-khí thay những bậc anh-hùng !
Gương thủ-tiết ngàn đời lưu thiên-cổ
Ngày tai-biến não-nùng chung cả nước
Tháng tư đen rờn-rợn khí âm-u
Máu xương rơi tan-tác khắp nẽo đời
Hồn tử-sĩ lung-linh ngàn mây bạc
Anh nằm đó, oai-linh hồn sông núi
Có mây ngàn, gió hú quyện tinh-anh
Hạt sương khuya phủ kín bụi phong-trần
Anh an-nghĩ, ngàn thu đành vĩnh-biệt
Đường đi tới chông-gai, anh có biết ?
Máu còn rơi, xương còn đổ khắp muôn nơi
Quê-hương ta sẽ tan-nát, rã-rời
Dưới nanh vuốt bạo-tàn loài giặc đỏ.
Hận mất nước, toàn dân rơi lệ máu
Hận sinh-ly, uất-khí ngất trời mây
Hận tang-thương, hận mất kiếp làm người
Hận giặc nước tham-tàn và hung-bạo
Gương các anh và bao nhiêu người đi trước
Là linh-hồn của cuộc chiến tiếp theo sau
Nhân dân ta vốn dòng máu anh-hào
Không khuất-phục trước cường quyền, bạo-ngược
Rồi mai đây ta sẽ xây thành, dựng lại nước
Ánh vinh-quang tỏa rạng khắp trời Nam
Cờ vàng bay rực-rỡ khắp quan-san
Ba dòng máu muôn đời oai-linh, hùng-dũng
Thanh Thủy
Chú-thích: Chén tân-khổ là chén thuốc độc. Nguyên-văn câu sau: Ngọn quang-minh hun mát tám trung-can. Ngọn quang-minh, tác giả viết đổi lại là Viên đạn đồng cho thích hợp với hoàn-cảnh của ngày 30/4/75. Hai câu thơ nầy ca-tụng hai vị anh hùng Võ-Tánh và Ngô-Tùng-Châu đã tuẫn-tiết khi thành mất.