Ai đứng chung với Việt Cộng trong vụ giàn khoan?
Xã luận bán nguyệt san Tự do Ngôn luận số 195 (15-05-2014)
Vụ Trung Quốc ngang nhiên mang giàn khoan Hải Dương 981 vào khu vực đặc quyền kinh tế của Việt Nam quả đã gây một chú ý lớn lao trên toàn thế giới, nhất là một phản ứng mạnh mẽ cho người Việt quốc nội lẫn hải ngoại. Xét cách bình thường, nhà cầm quyền VN có thể thấy đây rõ ràng là một hình thức xâm lăng đất nước, ăn cướp trắng trợn tài nguyên quốc gia. Và quả thật Hà Nội đã có phản ứng.
Phản ứng trước tiên là cho một lực lượng nhỏ cảnh sát biển ra bắc loa kêu gọi Giàn khoan có 80 tàu hộ tống phải rút đi (dù Bộ Chính trị và có thể cả hải quân đã biết từ vài tháng trước là Giàn khoan đang từ từ đi vào lãnh hải nước Việt), thứ đến là họp báo quốc tế với sự chủ trì của phát ngôn nhân bộ ngoại giao (thay vì ngoại trưởng) và một phó tư lệnh phó lực lượng cảnh sát biển (thay vì bộ trưởng Quốc phòng hay đô đốc hải quân) với điệp khúc muôn thuở: “VN có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý khẳng định chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa…”; còn tại Sài Gòn thì sở ngoại vụ mời tổng lãnh sự Trung Quốc đến để phản đối (thay vì Bộ ngoại giao triệu đại sứ Tàu tại Hà Nội). Cho tới hôm nay, lãnh đạo cao cấp nhất trong Bộ chính trị hoàn toàn im tiếng trước toàn dân và toàn đảng. Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng trong diễn văn khai mạc hội nghị Trung ương 9 khóa 11 vào ngày 8 tháng 5, vẫn không hề đá động tới Trung Quốc (như từ bao năm nay ông vẫn luôn cho Biển Đông chẳng có vấn đề gì mới). Riêng Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thì có lên tiếng kết án Trung Quốc trong Hội nghị ASEAN 24 tại Myanmar nhưng đó là trước chính giới nước ngoài. Ngoại trưởng Phạm Bình Minh, theo báo đảng cho biết, vào ngày 06-05 có điện đàm với ủy viên quốc vụ Tàu cộng là Dương Khiết Trì, nhưng người ta chẳng biết nội dung cuộc điện đàm đó ra sao. (Ngoài ra nhân dân còn thắc mắc về cái điện thoại không dây cắm mà ngoại trưởng sử dụng -loại đặc biệt chăng?). Tất cả đều cho thấy một thái độ hoàn toàn bất xứng của hàng lãnh đạo chính trị.
Chưa hết, người ta lại thấy hình ảnh những chiếc tàu Việt Nam bị tàu Trung Quốc uy hiếp bằng tông thẳng vào mạn hoặc xịt vòi rồng vào thân đến nỗi phải chạy loanh quanh như đàn vịt với tất cả sự tức giận khôn cùng nhưng đồng thời cũng với sự kềm chế đầy nhẫn nhục. Tiếp đến, trong cuộc xuống đường đông đảo của nhân dân hôm 11-05 với tất cả khí thế hào hùng và lòng căm phẫn tột độ, nhà cầm quyền lại cho đám công an, viên chức, đoàn viên, dư luận viên, cả côn đồ đầu gấu biểu tình song hành trong động thái hoặc hết sức bạc nhược (như đoàn thanh niên CS tại nhà hát lớn SG chỉ biết ngồi hát những bài về HCM, các viên chức chỉ trương những khẩu hiệu phản đối cầm chừng, kêu gọi bảo vệ đảng, đồng hành cùng đảng và nhà nước…) hoặc hết sức hung hãn (như xông vào đoàn dân, cướp lấy những băng rôn khẩu hiệu tố cáo nhà nước hèn yếu, tẩy chay chính quyền nô bộc, đòi trả tự do cho những người chống Trung Quốc đang phải giam cầm… nghĩa là bất cứ khẩu hiệu nào bị cho là “nhạy cảm”).
Tất cả sự nhịn nhục từ phía nhà cầm quyền như thế có kẻ cắt nghĩa như là một chiến thuật cần thiết để qua những hình ảnh như vậy, Hà Nội chứng minh với thế giới rằng VN chỉ là nạn nhân chứ không phải là những kẻ khiêu khích như Trung Quốc vu cáo tuyên truyền. Tính chất nạn nhân ấy cần một thời gian để tạo ấn tượng mạnh và sâu đủ hầu thu hút sự đồng cảm, và từ đó, sự ủng hộ của quốc tế. Thế nhưng, đó có phải là một chiến thuật nhất thời chăng? Hoàn toàn không! Ba Đình đã nhún nhường trước Trung Nam Hải với tất cả thái độ nô lệ mù quáng hơn cả nửa thế kỷ rồi, từ ngày Hồ Chí Minh nhận Mao Trạch Đông làm vị thầy bất khả ngộ, theo chính sách tàn bạo của y đối với nông dân và trí thức, từ ngày Phạm Văn Đồng nhanh nhẩu công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên Hoàng Sa và Trường Sa, từ ngày Tố Hữu kêu gọi toàn dân hãy thờ Mao chủ tịch bất diệt, từ ngày Lê Duẩn tiết lộ “ta đánh Mỹ là đánh cho Trung Quốc”, từ ngày Phạm Văn Đồng, Đỗ Mười, Nguyễn Văn Linh qua Thành Đô khấu đầu tạ tội vì đã theo Nga chống Tàu, từ ngày Nông Đức Mạnh sang Bắc Kinh cam kết mở cửa cho Tàu vào VN khai thác đủ loại, nhất là bauxite ở Tây nguyên, từ ngày bộ sậu lãnh đạo Hà Nội cam kết hợp tác chiến lược toàn diện với thiên triều Đại hán…. Thành ra phải nói đây là một chiến lược lâu dài, chủ trương nhất quán của đám lãnh đạo chính trị chưa bao giờ học được bài học lịch sử ngàn năm của đất nước, chưa bao giờ thấm nhuần khí phách của các anh hùng dân tộc, một chỉ mù quáng tin vào tình đồng chí cộng sản, sự cùng chung lý tưởng Mác-Lê, xác tín sự hữu hảo 16 chữ vàng, trong lúc đại đồng chí Bắc phương chỉ tìm cách ngoạm dần và nuốt chửng đất nước của tiểu đồng chí dại khờ ngu xuẩn.
Sự dại khờ ngu xuẩn ấy ngoài ra còn khiến Việt Nam không có đủ thiện chí và sáng suốt để xây dựng một quan hệ tin cậy, một liên minh chiến lược với các cường quốc dân chủ Tây phương, nhất là với Hoa Kỳ, nước duy nhất có khả năng giúp Việt Nam đương đầu với Trung Quốc (y như Nhật Bản, Đài Loan, Philippin đang làm, khiến Tàu không dám kéo giàn khoan vào lãnh hải nước của họ). Chơi với Mỹ, Hà Nội chỉ tìm cách đạt được cho mình những mối lợi kinh tế (WTO rồi TPP chẳng hạn), chỉ tính toán những trò tiểu xảo hèn hạ, như bắt dân làm con tin, bắt các nhà đối kháng làm con bài, khi nào Mỹ yêu sách về nhân quyền thì thả vài người xong lại bắt thêm nhiều người khác, nhốt vào túi dự trữ. Trên các phương tiện truyền thông nhà nước, thậm chí trên các diễn đàn chính thức của đảng, thỉnh thoảng Hoa Kỳ vẫn bị chửi bới, bị xem như thù địch, kẻ đứng đằng sau xúi giục cho âm mưu “diễn tiến hòa bình” (bài viết của các loa cao cấp trong công an và quân đội chẳng hạn). Chơi với các nước dân chủ Tây phương, nhất là Bắc Âu một thời ủng hộ CS, Hà Nội cũng chỉ dùng những trò khôn vặt để kiếm tiền mà thôi, chứ chưa bao giờ đáp ứng những đòi hỏi dân chủ mà họ mong cho dân Việt được hưởng và nước Việt được nhờ.
Có thể nói, bất chấp những tuyên truyền ầm ỹ, ai ai cũng thấy chưa bao giờ Việt Nam cô đơn như hiện nay. Thời kháng chiến chống Pháp, Hà Nội được Trung Quốc giúp đỡ; thời chiến tranh Nam Bắc, thì cả Trung Quốc lẫn Liên Xô hào phóng viện trợ; thời chiến tranh biên giới với Trung Quốc, Liên Xô trợ lực tận tình. Bây giờ thì hoàn toàn không. Lời kêu gào thống thiết của Nguyễn Tấn Dũng tại hội nghị ASEAN xin lên án Tàu chẳng được quốc gia thành viên nào lưu ý. Vài chính khách Mỹ có lên tiếng phản đối giùm VN nhưng chính phủ Mỹ thì hoàn toàn bỏ mặc VN đương đầu với Tàu cộng. Không rõ Ba Đình tới giờ này có thấm thía với chính sách “làm bạn của mọi người nhưng chẳng liên minh với ai” giữa cái thời đại mà chẳng những nước yếu cần dựa vào nước dân chủ mạnh mà các các nước dân chủ mạnh cũng cần liên kết với nhau để đương đầu với những thể chế độc tài đang trỗi dậy đe dọa nhân loại (như Nga của Putin và Tàu của Tập Cận Bình). Rõ ràng Việt Nam, hay đúng hơn, Việt Cộng, chẳng được ai trên thế giới thèm đứng chung với, bênh vực cho trong vụ giàn khoan này, trong vụ Tàu khai thác dầu ở lãnh hải Việt mà theo các chuyên gia thì không mấy có lợi về mặt kinh tế.
Khốn nạn hơn nữa, thê thảm hơn nữa, nhà cầm quyền Hà Nội còn cô đơn trong quan hệ với toàn dân Việt Nam. Từ hơn nửa thế kỷ nay, đảng Cộng sản chỉ coi nhân dân như con cái để sai khiến dạy bảo, như con ở để khai thác bóc lột, như con tin để mặc cả trao đổi với quốc tế hầu mưu lợi cho riêng đảng, và thậm chí có lúc như kẻ thù để tàn sát không nương tay (vụ Cải cách ruộng đất và vụ Công kích Mậu Thân chẳng hạn). Thập niên gần đây, đảng lại thẳng tay trấn áp một cách phũ phàng tàn bạo tất cả những con dân lên tiếng cảnh báo nguy cơ xâm lược của nhà nước Tàu (như Điếu Cày, Tạ Phong Tần, Phạm Thanh Nghiên, Nguyễn Xuân Nghĩa, Cù Huy Hà Vũ…), hay những oan dân lên tiếng phản kháng hành động cướp bóc của thương gia Tàu (như tại Vũng Áng, Cửa Việt, Bình Dương, Bình Thuận…). Vì sợ Trung Quốc, vì nợ Trung Quốc, hay vì muốn bênh vực cho Trung Quốc, nhà cầm quyền đã bao lần cho công an, côn đồ giang chân đạp thẳng vào mặt, giang tay đánh thẳng vào đầu những kẻ đi biểu tình chống Trung Quốc, đã bao lần cho đám trí nô ký sinh, bọn hacker ngu đần, lũ dư luận viên đầy tớ vung bút chửi tục, đê hèn vu khống, đánh tan phá sập hay ra luật cấm cản các blogger chân thành yêu nước, cổ vũ tự do dân chủ, cảnh báo nguy cơ mất nước về tay Tàu cộng. Đó là chưa kể Hà Nội còn hoàn toàn làm ngơ trước mọi ý kiến của các nhân sĩ trí thức, lãnh đạo tôn giáo về mối nguy Trung Quốc xâm nhập lũng đoạn Việt Nam về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, an ninh, quốc phòng… Còn đối với đồng bào hải ngoại thì Hà Nội chỉ có một mục tiêu duy nhất là moi tiền, là vỗ béo rồi làm thịt các Việt kiều khờ khạo về nước đầu tư. Tất cả đã khiến nhân dân xem nhà cầm quyền chỉ là một bọn nhu nhược hèn với giặc-ác với dân, hoặc gay gắt hơn, bọn mãi quốc cầu vinh, thái thú thời hiện đại…. Đây có lẽ là lý do thêm để Tàu cộng sấn tới, vì biết đằng sau đảng CS chẳng có sự hậu thuẫn nào của dân Việt, đúng như Tuyên bố chung lên án hành động xâm lược của Trung Quốc và thái độ nhu nhược của nhà nước VN của 13 tổ chức xã hội dân sự độc lập hôm 09-05: “Chính sách ngoại giao đầu gối” đó chẳng những không bao giờ khiến được 500 đại biểu quốc hội và gần 200 ủy viên trung ương đảng cầm súng ra mặt trận, mà còn khiến không mấy người dân tình nguyện đỡ đạn ở chốn tiền tuyến thay cho các nhóm lợi ích tham lam vốn chuẩn bị biến khỏi đất nước vào thời điểm Tổ quốc lâm nguy”.
Phải chăng ở cái thế vừa cô lập với dân chúng trong nước vừa cô lập với thế giới bên ngoài như vậy (do chính sách chuyên bóc lột nhân dân và chuyên lợi dụng quốc tế), nhà cầm quyền Việt Nam sau khi giả vờ cứng rắn một hồi (nhưng không đến độ kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế như Philippin hoặc dự trù phương án phản ứng quân sự dù mới mua vài tiềm thủy đĩnh…), lại tiếp tục cấm cản các cuộc xuống đường yêu nước, cho đó là gây mất ổn định (như “bằng chứng” các cuộc biểu tình bạo loạn đập phá tại Bình Dương mà dư luận cho là âm mưu thâm độc của nhà cầm quyền), lại tiếp tục nhẫn nhục chịu đựng để Trung Quốc muốn làm gì trên Biển Đông thì làm, miễn là quyền chức và tài sản của họ vẫn nguyên vẹn. Chẳng lẽ toàn dân lại cam tâm dung dưỡng cái chính đảng khốn nạn, cái nhà nước chết tiệt như thế?