Tin Biển Đông – 22/07/2019
Mỹ quan ngại trước ‘sự áp bức’ của TQ ở Biển Đông
Mỹ cho rằng việc Trung Quốc can thiệp hoạt động khai thác dầu khí lâu nay ở Biển Đông có thể gây bất ổn an ninh năng lượng trong khu vực.
Trong thông cáo với tiêu đề “Sự áp bức của Trung Quốc với hoạt động dầu khí trên Biển Đông”, Bộ Ngoại giao Mỹ ngày 20/7 cho biết Washington quan ngại trước những báo cáo về việc Bắc Kinh có hành vi can thiệp hoạt động khai thác dầu khí trong khu vực, bao gồm hoạt động thăm dò và khai thác lâu nay của Việt Nam.
Thông cáo nhấn mạnh “hành động lặp đi lặp lại” của Trung Quốc nhằm vào hoạt động phát triển dầu khí ngoài khơi “đe dọa an ninh năng lượng khu vực, đồng thời làm suy yếu thị trường năng lượng Ấn Độ – Thái Binh Dương tự do và cởi mở”.
Theo Bộ Ngoại giao Mỹ, Ngoại trưởng Mike Pompeo hồi đầu năm từng lưu ý rằng “bằng cách ngăn chặn sự phát triển ở Biển Đông thông qua các biện pháp cưỡng chế, Trung Quốc đã ngăn các quốc gia ASEAN tiếp cận nguồn dự trữ năng lượng có thể phục hồi trị giá 2,5 nghìn tỷ USD”.
“Việc Trung Quốc cải tạo và quân sự hóa các tiền đồn đang tranh chấp ở Biển Đông, bên cạnh những nỗ lực khác nhằm tuyên bố chủ quyền bất hợp pháp trên Biển Đông, trong đó có việc sử dụng dân quân biển để gây sức ép, cưỡng chế và đe dọa các quốc gia khác, đang làm suy yếu hòa bình và ổn định của khu vực”, thông cáo nêu rõ.
“Mỹ kiên quyết phản đối hành vi cưỡng chế và đe dọa từ bất kỳ bên nào nhằm khẳng định yêu sách lãnh thổ cũng như hàng hải của mình”, thông cáo có đoạn. “Trung Quốc cần kiềm chế tham gia vào những hoạt động khiêu khích và gây bất ổn này”.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng hôm 19/7 cho biết nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 của Trung Quốc trong những ngày qua đã có hành vi vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía Nam Biển Đông.
Bà Hằng nêu rõ đây là vùng biển hoàn toàn của Việt Nam, được xác định theo đúng các quy định của Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 mà Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên.
Việt Nam đã tiếp xúc nhiều lần với phía Trung Quốc ở các kênh khác nhau, trao công hàm phản đối, kiên quyết yêu cầu chấm dứt ngay các hành vi vi phạm, rút toàn bộ tàu ra khỏi vùng biển Việt Nam, tôn trọng quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam vì quan hệ hai nước và ổn định, hòa bình ở khu vực.
Các lực lượng chức năng trên biển của Việt Nam tiếp tục triển khai nhiều biện pháp phù hợp thực thi chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán một cách hòa bình, đúng pháp luật nhằm bảo vệ vùng biển Việt Nam, theo người phát ngôn.
Theo quy định của Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS), quốc gia ven biển có các quyền chủ quyền về việc thăm dò, bảo tồn và quản lý các tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên sinh vật hoặc không sinh vật của vùng nước đáy biển, của đáy biển và vùng đất dưới đáy biển cũng như những hoạt động khác nhằm thăm dò, khai thác vì mục đích kinh tế trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý tính từ đường cơ sở.
Đối với thềm lục địa, quốc gia ven biển thực hiện các quyền chủ quyền về mặt thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên. Đây là đặc quyền của quốc gia ven biển nên không ai có quyền tiến hành các hoạt động như vậy nếu không có sự thỏa thuận của quốc gia đó.
http://biendong.net/bi-n-nong/29409-my-quan-ngai-truoc-su-ap-buc-cua-tq-o-bien-dong.html
Tư Chính:
Hành động của tàu Trung Quốc theo AMTI
Vụ việc xẩy ra từ đầu tháng Bảy, nhưng mãi đến ngày 19/07/2019, bộ Ngoại Giao Việt Nam mới chính thức lên tiếng phản đối đích danh Trung Quốc về việc cho tàu vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam tại khu vực Bãi Tư Chính (Vanguard Bank) gần Trường Sa (Biển Đông), vừa khảo sát địa chất, vừa cản trở công việc thăm dò của Việt Nam.
Phản ứng được xem là mạnh bạo của Hà Nội đã được đưa ra ba hôm sau khi cơ quan Sáng Kiến Minh Bạch Hàng Hải Châu Á (AMTI), thuộc Trung Tâm Nghiên Cứu Chiến Lược và Quốc Tế (CSIS), trụ sở tại Washington, ngày 16/07, đã công bố một báo cáo nêu chi tiết các hoạt động bất chấp luật lệ quốc tế của tàu Trung Quốc tại khu vực Bãi Tư Chính.
Bản báo cáo mang tựa đề « Trung Quốc sẵn sàng gây bùng nổ trên vấn đề tài nguyên khí đốt với Việt Nam và Malaysia » đã nêu bật hành vi khiêu khích của tàu hải cảnh Trung Quốc, trong vòng 6 tuần lễ đã hai lần xuống Biển Đông quấy phá công việc khai thác dầu khí của Malaysia rồi Việt Nam. Vào cùng một thời điểm, Bắc Kinh cũng phái một chiếc tàu của họ đến vùng biển ngoài khơi bờ biển Việt Nam để khảo sát địa chấn, tìm dầu khí.
Theo AMTI, hành động của Trung Quốc có nguy cơ tạo ra va chạm giữa đội tàu hải cảnh và dân quân biển tháp tùng chiếc tàu khảo sát Trung Quốc với nhóm tàu chấp pháp của Việt Nam được phái đến nơi.
Đối với các chuyên gia Mỹ, tình hình cho thấy thái độ nước đôi của Trung Quốc : một mặt thì kiên quyết ngăn chặn các hoạt động dầu khí đơn phương mới của các nước láng giềng ở bất cứ nơi nào nằm bên trong trong đường chín đoạn mà họ dùng để yêu sách chủ quyền ở Biển Đông, đồng thời sẵn sàng tự mình tìm kiếm và khai thác dầu khí trong vùng biển tranh chấp.
Trung tâm nghiên cứu Mỹ đã căn cứ trên các dữ liệu công khai của Hệ Thống Nhận Dạng Tự Động (AIS) – ghi lại tín hiệu của các tàu thuyền trên 300 tấn hoạt động trên đại dương – để phác họa lại hoạt động của chiếc tàu hải cảnh Trung Quốc mang ký hiệu Haijing 35111, thủ phạm chính của các hành vi khiêu khích nhắm vào Malaysia và đặc biệt là Việt Nam trong những ngày qua.
Theo AMTI, sau khi hoành hành trong tháng Năm tại vùng biền gần cụm bãi cạn Luconia, ngoài khơi bờ biển bang Sarawak của Malaysia, phá rối hoạt động của giàn khoan Sapura Esperanza của nước láng giềng Đông Nam Á, và có nhiều hành vi cực kỳ khiêu khích đối với tàu tiếp tế của Malaysia, chiếc Haijing 35111 đã quay về cảng ở Hải Nam, nghỉ ngơi trong vài ngày vào cuối tháng Năm, trước khi trở xuống phía nam một lần nữa để quấy phá Việt Nam.
Kể từ ngày 16/06, chiếc tàu hải cảnh Trung Quốc đã tuần tra một vùng cách bờ biển phía đông nam Việt Nam khoảng 190 hải lý, tập trung ở khu vực có lô dầu khí 06.1, nằm ở phía tây bắc của Bãi Tư Chính ( Vanguard Bank), trên thềm lục địa Việt Nam. Lô này cách đảo Trường Sa Lớn do Việt Nam kiểm soát 172 hải lý, và nằm bên trong đường chín đoạn của Trung Quốc.
Lô dầu khí này rất quan trọng đối với dự án Nam Côn Sơn của Việt Nam, được BP và ConocoPhillips phát triển vào đầu những năm 2000, với mục tiêu vận chuyển khí đốt bằng đường ống vào đất liền. Hiện nay, khí đốt tự nhiên đến từ mỏ Lan Đô ở lô 06.1 cung cấp tới 10% tổng nhu cầu năng lượng của Việt Nam.
Tập đoàn Nga Rosneft đã trở thành nhà điều hành chính của lô này vào năm 2013 sau khi mua lại phần hùn của TNK-BP. Vào tháng 5 năm 2018, Rosneft đã ký hợp đồng thuê giàn khoan Hakuryu-5 của Công ty Khoan Dò Nhật Bản Japan Drilling Company, để khoan một giếng sản xuất mới tại một mỏ thứ hai ở lô 06.1.
Theo ghi nhận của AMTI, bộ Ngoại Giao Trung Quốc đã lên tiếng cảnh cáo rằng « không một quốc gia, tổ chức, công ty hay cá nhân nào được phép hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí trong vùng biển thuộc thẩm quyền của Trung Quốc, mà không có sự cho phép của chính phủ Trung Quốc ».
Bắc Kinh đòi « các bên liên quan phải tôn trọng một cách nghiêm túc các quyền chủ quyền và quyền tài phán của Trung Quốc và không làm bất cứ điều gì có thể ảnh hưởng đến quan hệ song phương và hòa bình và ổn định khu vực. »
Lời cảnh cáo này được đưa ra sau hai sự cố vào tháng 7/2017 và tháng 8/2018, khi những đe dọa của Trung Quốc đã buộc được Việt Nam phải hủy bỏ công việc khoan dò tại các lô dầu khí gần đấy vốn được giao cho tập đoàn dầu khí Tây Ban Nha Repsol.
Thế nhưng, lần này Rosneft có dấu hiệu không nao núng và vẫn tiếp tục công việc khoan dò tại Lan Đô và một mỏ khác gọi là Phong Lan Dại thuộc Lô 06.1. Vào tháng 5 năm 2019, Rosneft đã ký hợp đồng với Hakuryu-5 để khoan một giếng khác ở lô 06.1. Hình ảnh vệ tinh xác nhận rằng giàn khoan đã hoạt động vào ngày 18 tháng 5.
Hành động đe dọa của tàu hải cảnh Trung Quốc Haijing 35111
Trước việc Việt Nam và Rosneft coi thường cảnh cáo của mình, Trung Quốc đã bắt đầu chiến dịch sách nhiễu.
Theo AMTI, tín hiệu AIS cho thấy hai tàu tiếp tế của Việt Nam là Sea Meadow 29 và Crest Argus 5 đã thường xuyên đi lại giữa Vũng Tàu và Lô 06.1 kể từ tháng 5 để phục vụ giàn khoan Hakuryu-5. Sử dụng lại chiến thuật sách nhiễu như đã từng dùng với giàn khoan Sapura Esperanza của Malaysia trước đó, tàu Haijing 35111 đã có những thao tác mang tính đe dọa gần các tàu Việt Nam này trong một nỗ lực rõ ràng để uy hiếp các chiếc tàu này. Một ví dụ : Ngày ngày 2 tháng 7, khi tàu Việt Nam rời giàn khoan Hakuryu-5, thì chiếc Haijing 35111 đã chạy xen vào giữa hai chiếc tàu này với tốc độ cao, chỉ cách tàu Việt Nam khoảng 100 mét, và cách giàn khoan chưa đến nửa hải lý.
Tàu hải cảnh Trung Quốc 35111 vẫn tiếp tục hoạt động xung quanh giàn khoan Hakuryu-5, được biết là có thời hạn hợp đồng từ 60 đến 90 ngày. Điều đó cho thấy là Trung Quốc vẫn chưa hoàn thành mục tiêu mong muốn, và công việc khoan dò vẫn có dấu hiệu tiếp tục, mặc dù việc các hoạt động đó có bị cản trở hay không vẫn chưa được biết.
Cách hành xử của tàu Trung Quốc cũng bộc lộ giá trị của các đảo nhân tạo của Bắc Kinh đối với chiến thuật tấn công kiểu « vùng xám » của Trung Quốc tại Biển Đông. Sau khi tuần tra quanh lô 06.1 trong gần một tháng, chiếc Haijing 35111 đã ghé tiền đồn Trung Quốc tại Đá Chữ Thập (Fiery Cross Reef) từ ngày 12 đến 14 tháng 7, có lẽ là để được tiếp tế, trước khi quay trở lại vị trí gần giàn khoan Hakuryu-5.
Trung Quốc tăng sức ép
Không chỉ cho tàu hải cảnh sách nhiễu Việt Nam, vào ngày 3 tháng 7, chiếc Hải Dương Địa Chất 8 (Haiyang Dizhi 8), một tàu khảo sát thuộc sở hữu của cơ quan Khảo Sát Địa Chất Trung Quốc do chính phủ điều hành, đã bắt đầu khảo sát một khu vực rộng lớn dưới đáy biển ở phía đông bắc Lô 06.1.
Các hoạt động của con tàu khảo sát này đã được giáo sư Ryan Martinson thuộc Trường Hải Chiến Hoa Kỳ và nhiều người khác theo dõi gần như từng bước, và công bố trên các mạng xã hội.
Tàu Hải Dương Địa Chất 8 đang thực hiện một cuộc khảo sát dầu khí trên hai lô mà Trung Quốc gọi là Riji 03 và Riji 27. Vào năm 2012, Trung Quốc đã vạch ra những lô đó và bảy lô khác ngoài khơi Việt Nam rồi gọi thầu nước ngoài, nhưng đến nay không có ai tham gia.
Thời gian Trung Quốc tiến hành khảo sát hai lô dầu khí nói trên có thể là một sự trùng hợp ngẫu nhiên, nhưng có rất nhiều khả năng là công việc này đã được quyết định nhằm trừng phạt Việt Nam vì đã cho phép Rosneft khoan dò tại Lô 06.1.
Trong cả hai trường hợp, theo AMTI, hành động của Trung Quốc đều mang tính chất cực kỳ khiêu khích. vì cả hai lô này rõ ràng nằm sâu bên trong vùng 200 hải lý của Việt Nam. Cuộc khảo sát đang được Trung Quốc tiến hành ở một khu vực cách đảo Trường Sa Lớn 180 hải lý. Các lô này cũng nằm ngay ở phía bắc Nhà Giàn DK-1 mà Việt Nam kiểm soát nằm trên thềm lục địa ở phía tây nam quần đảo Trường Sa.
Trung Quốc đã cho bảo vệ tàu khảo sát của họ một cách chặt chẽ, với ít nhất là bốn tàu hải cảnh hộ tống. Tàu Haijing 37111 và hai tàu hải cảnh khác không rõ số hiệu đã đi theo chiếc Hải Dương Địa Chất 8 kể từ ngày 3 tháng Bảy. Còn có ít nhất một chiếc tàu dân quân biển được nhận diện trong đoàn tàu hộ tống : chiếc Quỳnh Tam Sa (Qiong Sansha) Yu 00114. Tín hiệu AIS của chiếc tàu này đã được truyền đi ngày 13/07 từ khu vực mà tàu Hải Dương Địa Chất 8 đang hoạt đông.
Phản ứng của Việt Nam
Việt Nam đã đối phó với hoạt động khảo sát của Trung Quốc bằng cách gửi các tàu chấp pháp của mình đến nơi theo dõi chiếc Hải Dương Địa Chất 8.
Có ít nhất hai tàu kiểm ngư KN 468 và KN 472, rời Vịnh Cam Ranh để đến nơi theo dõi tàu khảo sát kể từ ngày 4 tháng 7. Tín hiệu AIS cho thấy tàu khảo sát Trung Quốc tiếp tục hoạt động, được đoàn tàu hải cảnh hộ tống bao quanh và đẩy lùi các chiếc tàu Việt Nam cố xông vào ngăn chặn.
AMTI cảnh báo : Tình hình tại cả Lô 06.1 lẫn chung quanh khu vực Trung Quốc khảo sát dầu khí rất khó lường và nguy hiểm. Do việc hai bên đang đối đầu nhau và không ngần ngại có hành vi khiêu khích, rõ ràng là đang có nguy cơ một vụ va chạm vô tình có thể dẫn đến leo thang.
Cho dù những sự cố kể trên diễn biến ra sao, các hành động của Trung Quốc ngoài khơi cả Malaysia lẫn Việt Nam kể từ tháng Năm cho thấy là Bắc Kinh ngày càng sẵn sàng sử dụng biện pháp cưỡng ép và đe dọa dùng vũ lực để ngăn chặn các hoạt động dầu khí của các nước láng giềng, ngay cả khi bản thân Trung Quốc cũng tự mình theo đuổi hoạt động thăm dò năng lượng tại vùng biển tranh chấp.
Bãi Tư Chính: Tại sao Trung Quốc
“đánh” Việt Nam vào lúc này?
Năm năm sau cơn sốt 2014, khi việc Trung Quốc đem giàn khoan Hải Dương 981 vào cắm trong vùng thềm lục địa của Việt Nam làm dấy lên cả một phong trào phản đối quyết liệt từ phía Việt Nam, từ tháng Sáu vừa qua, Bắc Kinh lại bất ngờ gây sự trở lại với Việt Nam, lần này bằng cách cho tàu khảo sát Hải Dương Địa Chất 8, được cả một đoàn tàu hải cảnh và tàu dân quân biển hộ tống, tiến vào khảo sát một khu vực rộng lớn nằm sâu bên trong vùng thềm lục địa của Việt Nam, ngoài khơi bờ biển phía nam Việt Nam
Không những thế một chiếc tàu hải cảnh Trung Quốc còn liên tục chạy đến khiêu khích và sách nhiễu công việc khai thác dầu khí của Việt Nam tại một vùng mỏ cũng ở trong vùng thềm lục địa mà Việt Nam đã khai thác từ lâu.
Câu hỏi mà nhiều nhà quan sát đặt ra là tại sao Trung Quốc lại gây sự với Việt Nam vào lúc này, tức là lúc mà quan hệ hai bên đang bình thường hóa trở lại. Trả lời phỏng vấn của Ban Việt Ngữ RFI, chuyên gia Carl Thayer, giáo sư danh dự tại Học Viện Quốc Phòng Úc thuộc trường Đại Học New South Wales, cho rằng tùy theo cấp thẩm quyền tại Trung Quốc đã ra lệnh tấn công Việt Nam, nguyên do có thể khác nhau.
Việc cho triển khai tàu khảo sát Hải Dương Địa Chất 8 xuống Biển Đông, theo giáo sư Thayer, có thể là quyết định của cấp điều hành công việc thường nhật, xuất phát từ lý do thương mại. Năm 2012, tập đoàn Dầu Khí Hải Dương Quốc Gia Trung Quốc (CNOOC) đã quy định một số lô khai thác dầu khí nằm bên trong đường chín đoạn của Trung Quốc, chồng chéo với các lô dầu khí của Việt Nam trong khu vực. Cho đến nay, không có công ty dầu khí nước ngoài nào đáp ứng lời gọi thầu của CNOOC.
Tưởng lầm rằng Việt Nam sẽ tiếp tục lùi như trong vụ Repsol
Vào tháng 7 năm 2017 và tháng 3 năm 2018, Việt Nam đã lùi bước trước sức ép của Trung Quốc và đình chỉ hoạt động thăm dò dầu khí tại hai lô trong khu vực Bãi Tư Chính. Theo giáo sư Thayer, rất có thể là các quan chức dầu khí Trung Quốc đã kết luận rằng họ có thể yên tâm tận dụng tình trạng này. Chỉ có hai tàu hải cảnh Trung Quốc hộ tống tàu khảo sát, trái ngược với tám mươi chiếc hoặc nhiều hơn nữa tháp tùng giàn khoan Hải Dương 981 vào vùng biển tranh chấp vào năm 2014…
Tổ chức Sáng Kiến Minh Bạch Hàng Hải Châu Á AMTI cho rằng Trung Quốc tìm cách “trừng phạt” Việt Nam vì đã bật đèn xanh cho chi nhánh tại Việt Nam của tập đoàn Nga Rosneft tiếp tục thăm dò tại lô 06.1. Tuy nhiên, theo giáo sư Thayer, cho đến giờ, giả thuyết này vẫn chỉ là suy đoán, vì chưa được bằng chứng công khai nào xác nhận.
Hành động của Trung Quốc tại khu vực Bãi Tư Chính cũng có thể là kết quả của một tính toán chiến lược ở cấp cao. Theo giáo sư Thayer, trong trường hợp này, có thể cho rằng “Trung Quốc đang tìm cách chống lại thái độ quyết đoán mới của Mỹ bằng cách gây áp lực lên các quốc gia trong khu vực để Hoa Kỳ hụt chân”.
Lý do chiến lược : Ép Việt Nam để phá Mỹ
Thái độ quyết đoán mới của Hoa Kỳ được thể hiện qua việc tăng cường các chiến dịch tuần tra vì tự do hàng hải, tăng cường sự hiện diện và các chuyến tuần tra của oanh tạc cơ, của tàu hải quân, và bán vũ khí cho Đài Loan. Ngoài ra, Ngoại trưởng Mike Pompeo đã xác nhận rằng Hiệp Ước Phòng Thủ Hỗ Tương năm 1951 với Philippines bao gồm Biển Đông trong phạm vi áp dụng, trong lúc một đô đốc Mỹ cao cấp tuyên bố rằng một cuộc tấn công của dân quân biển Trung Quốc sẽ được coi là một cuộc tấn công bằng lực lượng Hải Quân.
Kể từ khi công bố Chiến Lược Ấn Độ-Thái Bình Dương vào giữa năm nay, Hoa Kỳ đã ưu tiên nhiều hơn cho việc tranh thủ Việt Nam làm đối tác an ninh. Một số nguồn tin quân sự và ngoại giao đã cho biết riêng là Hoa Kỳ đã đề nghị với Việt Nam nâng cấp quan hệ song phương từ hàng đối tác toàn diện lên hàng đối tác chiến lược và Việt Nam đã đồng ý cho hàng không mẫu hạm Mỹ ghé cảng Việt Nam hàng năm.
Nhìn dưới góc độ chiến lược, thì có vẻ như là Trung Quốc đang sử dụng áp lực ở mức độ thấp đối với Việt Nam để phá hoại những nỗ lực của Hoa Kỳ muốn hình thành mạng lưới các đồng minh và đối tác chiến lược trong khu vực để đối phó với Trung Quốc.
Dụng tâm chiến lược kể trên được thấy trong phản ứng gay gắt của Bắc Kinh vào hôm nay, 22/07, sau khi bị Washington công khai vạch mặt chỉ tên về hành vi« bức hiếp » các láng giềng, đặc biệt là Việt Nam, trên vấn đề khai thác dầu khí ở Biển Đông.
Phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Trung Quốc đã lên án Mỹ vu khống Trung Quốc, đồng thời nhắc lại lập luận cố hữu của Bắc Kinh là Hoa Kỳ và « nhiều thế lực bên ngoài » khác cố tình khuấy động tình hình Biển Đông, phá hoại các « cố gắng của Trung Quốc và các nước ASEAN đang giải quyết bất đồng bằng đối thoại » để duy trì hòa bình và ổn định tại Biển Đông.
Hoạt động cướp biển trên Biển Đông
đang ngày càng có nhiều diễn biến phức tạp
Biển Đông là một trong những vùng biển quan trọng, có các tuyến đường giao thông quan trọng nối liền Thái Bình Dương – Ấn Độ Dương, châu Âu – châu Á, Trung Đông – châu Á. Ngoài ra, trong khu vực Đông Nam Á có khoảng 536 cảng biển, trong đó có hai cảng vào loại lớn và hiện đại nhất thế giới là cảng Singapore và Hồng Công. Chính vì vậy, khu vực Biển Đông cũng là một trong những điểm nóng trên thế giới về nạn cướp biển.
Hiểu thế nào về cướp biển
Cướp biển được xác định không giống nhau bởi các tổ chức khác nhau. Theo Công ước ngăn chặn các hành vi trái pháp luật chống lại an toàn dẫn đường hàng hải (viết tắt SUA) thì định nghĩa rằng “cướp biển” là bao gồm bất kỳ sự cố nào liên quan đến bắt giữ tàu biển bằng vũ lực, hoặc bất kỳ hành vi nào gây nguy hiểm cho tàu bè, thuyền viên hay hàng hóa.
Mặt khác thì các tổ chức khác như Thỏa thuận hợp tác khu vực về chống vi phạm cướp biển và cướp có vũ trang chống lại tàu bè ở Châu Á (viết tắt ReCAAP), một thỏa thuận hợp tác liên chính phủ nhằm chống lại các sự cố hàng hải thì có quan điểm tách biệt giữa “cướp biển” từ “cướp có vũ trang chống tàu bè”.
Tình trạng cướp biển đang ngày càng bùng phát tại khu vực Biển Đông
Vấn nạn hải tặc là chuyện trầm kha ở khu vực Đông Nam Á. Theo một báo cáo của Cục hàng hải quốc tế (IMB) thì gần 60% sự cố hàng hải giữa năm 1993 và năm 2015 chủ yếu diễn ra ở đây với hơn 20%
các sự cố diễn ra chỉ tính riêng tại Indonesia. Ngược lại, cướp biển Somali (nổi tiếng thế giới bởi những vụ cướp chết chóc trong thập niên 2000) chỉ chiếm 17% các hoạt động cướp biển trong cùng kỳ.
Trước đây, số lượng các vụ việc gây ra do cướp biển châu Á chiếm đến 1/3 số lượng cướp tàu trên toàn thế giới, song cướp biển châu Á tuy ít được nói đến do chỉ có tính chất nhỏ lẻ như cướp tư trang, tài sản, hàng hóa nhỏ lẻ trên tàu. Tính chất phức tạp đã tăng lên đáng kể trong giai đoạn 2013-2015, trong đó cướp dầu ở khu vực eo biển Singapore và eo Malacca gây rất nhiều thiệt hại cho nhiều chủ tàu có tàu đi ngang qua đây. Theo IMB, năm 2014 xảy ra 245 vụ cướp biển, 181 vụ xảy ra ở châu Á; năm 2015, Đông Nam Á xảy ra 120 vụ cướp biển tấn công, chiếm gần 30% số vụ cướp biển toàn cầu, gây thiệt hại trung bình mỗi năm ít nhất 8,4 tỉ USD.
Từ năm 2016 đến nay, hoạt động của nhóm tội phạm cướp biển trên khu vực biển châu Á, nhất là ở những khu vực biển trọng điểm, tuyến hàng hải có xu hướng gia tăng và diễn biến ngày càng phức tạp. Theo số liệu thống kê, trong năm 2016 và 2 tháng đầu năm 2017, ở khu vực châu Á đã xảy ra 95 vụ cướp biển và cướp có vũ trang chống lại tàu thuyền. Trong đó, bọn cướp đã thực hiện thành công 83 vụ. Các vụ cướp biển thường diễn ra tại một số khu vực như quần đảo Anambas, Natuna, Mangkai, Subi Besar, Pulau Jemaja, Pulau Siantan, Pulau Matak thuộc Indonesia; eo biển Malacca; khu vực ngoài khơi Tioman, Pulau Aur, Đông Sabah thuộc Malaysia; khu vực biển thuộc Miền Nam Phillippines. Đến năm 2019, hải phận Đông Nam Á vẫn là khu vực dễ bị cướp nhất thế giới, nhưng tỷ lệ các vụ cướp đang suy giảm. Giữa 2 năm 2017 và 2018, tổng số lượng các sự cố được báo cáo đã giảm từ 102 vụ xuống còn 76 vụ, và đến năm 2019 cho thấy cướp biển có vẻ án binh bất động. Ở hải phận Indonesia, chỉ có 3 vụ tấn công trong 3 tháng đầu năm 2019, ít nhất trong một thập kỷ.
Thủ đoạn hoạt động
Theo số liệu điều tra không chính thống, hàng năm ở châu Á, 90% các sự cố hàng hải được báo cáo là những vụ cướp tàu bè có vũ trang – kết quả là ngư dân trang bị vũ khí nhảy lên tàu bè để kiếm laptop và điện thoại di động, hoặc là kết quả của những vụ cướp được đào tạo bởi những tên cướp biển lành nghề để thu về khoản lợi hàng triệu USD. So với các vùng biển khác thì vùng biển Đông Nam Á lại ít xảy ra các vụ bắt cóc, đòi tiền chuộc và giết người. Ngay cả khi cướp biển ở đây được trang bị vũ khí thì họ cũng hiếm làm ai đó bị thương.
Nhìn chung, các vụ cướp trên biển khu vực châu Á có phương thức, thủ đoạn hoạt động của bọn cướp thường là:
(1) Sử dụng từ 02 đến 04 tàu, xuồng loại nhỏ, có tốc độ cao (trên 25 hải lý/giờ) để tiếp cận, tấn công các tàu vận tải hành trình đơn lẻ trên biển;
(2) Chúng tiếp cận, leo lên và tấn công từ phía đuôi, hoặc hai bên mạn tàu;
(3) Chúng sử dụng vũ khí hạng nhẹ (súng tiểu liên, súng phóng lựu…) đe dọa, uy hiếp thuyền viên để đưa ra các yêu cầu về giảm tốc độ, hoặc dừng tàu để tiếp cận và leo lên. Khi sử dụng vũ khí, bọn cướp biển thường nhằm vào buồng lái, buồng ngủ, phòng Câu lạc bộ…;
(4) Trong mỗi vụ, chúng thường sử dụng từ 01 đến 02 tàu mẹ, tàu mẹ có thể là tàu biển, tàu thuyền buồm, tàu đánh cá. Tàu mẹ dùng để chứa hàng dự trữ, nhiên liệu và có thể vận chuyển các hàng hóa cướp được. Các xuồng nhỏ để tấn công thường được kéo theo phía đằng sau tàu mẹ;
(5) Để tấn công, leo lên tàu, bọn cướp thường sử dụng sào móc với thang dây dài và nhẹ, hoặc dây thừng để leo lên tàu. Khi đã lên được tàu, bọn chúng thường lên buồng lái để khống chế, kiểm soát hàng hải và thông tin trên tàu, yêu cầu cho tàu chạy chậm, hoặc dừng lại để cho đồng bọn tiếp tục leo lên tàu và khống chế toàn bộ thủy thủ đoàn, kiểm soát tàu, tổ chức cướp tàu, cướp hàng hóa vận chuyển trên tàu hoặc bắt cóc thuyền viên. Quá trình khống chế, kiểm soát tàu, nếu thuyền viên có hành vi chống đối, bọn biển sẵn sàng sử dụng vũ khí nóng để sát thương nhằm quyết tâm thực hiện hành vi cướp đến cùng.
Giải pháp đảm bảo an ninh phi truyền thống trên Biển Đông
Để bảo đảm hòa bình và ổn định trong khu vực, ngăn chặn và hạn chế tác động, ảnh hưởng của vấn đề an ninh phi truyền thống ở Biển Đông, nhất là ngăn ngừa các vụ cướp biển trong khu vực, thì các nước trong khu vực cần phải hợp tác chặt chẽ trong nhiều lĩnh vực, cụ thể:
Thứ nhất, các nước liên quan, nhất là các nước ven Biển Đông cần tăng cường hợp tác, tuần tra song phương, đa phương trong khu vực, trong đó tập trung vào việc chia sẻ thông tin, tình hình cướp biển và cướp có vũ trang; công tác huấn luyện, diễn tập, đào tạo nâng cao trình độ cho cán bộ trực tiếp thực hiện nhiệm vụ phòng, chống cướp biển và cướp có vũ trang chống lại tàu thuyền; thiết lập và duy trì hiệu quả hoạt động của các đường dây nóng giữa lực lượng thực thi pháp luật trên biển của mỗi nước;
thiết lập và tăng cường cơ chế tuần tra chung giữa lực lượng thực thi pháp luật trên biển của mỗi quốc gia ở các vùng biển giáp ranh…
Thứ hai, tăng cường sức mạnh lực lượng tuần duyên, cảnh sát biển, trang bị vũ khí hiện đại như súng máy, trực thăng chiến đấu hạng nhẹ; lắp đặt hệ thống giám sát bờ biển sử dụng radar, trang bị hệ thống nhận dạng tự động, cũng như nhiều thiết bị quản lý hiện đại khác… nhằm bảo đảm lực lượng thực thi pháp luật của mỗi quốc gia có đủ năng lực kiểm soát, kịp thời phát hiện, bắt giữ, xử lý các đối tượng có hành vi cướp biển và cướp có vũ trang.
Thứ ba, mỗi quốc gia trong khu vực cần chú trọng công tác tuyên truyền, phổ biến các phương thức, thủ đoạn hoạt động của bọn cướp biển và cướp có vũ trang chống lại tàu thuyền cho các doanh nghiệp và đội ngũ thuyền viên, nhất là thuyền viên các tàu vận tải. Đồng thời, có các khuyến cáo, chỉ dẫn về huấn luyện, các biện pháp phòng vệ, phương án thông tin liên lạc khẩn cấp khi bị cướp biển và cướp có vũ trang chống lại tàu thuyền tấn công…
Thứ tư, yêu cầu các chủ tàu trang bị hệ thống tự động nhận dạng (AIS); Hoàn thiện cơ chế phản ứng nhanh và cài đặt điểm an toàn xung quanh vùng biển Sabah, điểm nóng của tệ nạn cướp biển trong khu vực Biển Đông.
Thứ năm, hỗ trợ xây dựng, đào tạo lực lượng, diễn tập để nâng cao trình độ kỹ thuật, khả năng phối hợp chiến đấu.
Thứ sáu, các quốc gia hiện vẫn còn tồn tại các tổ chức khủng bố, tổ chức phiến quân cần tích cực, chủ động đề ra các biện pháp, chính sách phù hợp để kiểm soát, loại bỏ những tổ chức trên.
Thứ bảy,ASEAN và Trung Quốc cần thúc đẩy sớm thông qua Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) với những quy định mang tính ràng buộc và có những điều khoản về việc bảo vệ môi trường sinh thái ở Biển Đông. Ngoài ra, các nước cũng cần tích cực tham gia các cơ chế đối thoại khu vực và quốc tế để tăng cường, mở rộng hợp tác nội khối ASEAN và giữa ASEAN với các nước đối tác trong phòng chống thách thức an ninh phi truyền thống trên biển. Tăng cường Hội nghị, diễn đàn đối thoại của các Tư lệnh Hải quân, Không quân, Cảnh sát biển ASEAN… Đây là các kênh đối thoại tầm chiến lược để các nước ASEAN và ASEAN với các nước đối tác trao đổi quan điểm, tạo sự đồng thuận trong nhận thức; xác định cơ chế, chính sách hợp tác trong đối phó với các thách thức an ninh phi truyền thống nói chung và an ninh phi truyền thống trên biển nói riêng phù hợp với thông lệ quốc tế và mục tiêu phát triển của mỗi quốc gia.
Cướp biển tấn công tàu Hàn Quốc ở Biển Đông,
lấy giày và 13.000 đôla
Sáng sớm ngày 22/7, cướp biển tấn công một tàu chở hàng treo cờ Hàn Quốc trên Biển Đông, lấy đi hàng ngàn đôla tiền mặt và thậm chí cả giày của thuyền viên, Reuters dẫn nguồn tin từ nhà chức trách Hàn Quốc cho biết.
Hai người bị thương nhẹ sau khi bảy tên cướp biển xông lên tàu CK Bluebell và cuỗm đi 13.000 đôla và đồ đạc bao gồm điện thoại di động, quần áo và giày của thuyền viên gồm 22 người, các quan chức của Bộ Đại dương và Thủy sản Hàn Quốc cho biết.
Tàu chở hàng CK Bluebell đã di chuyển từ khu vực thả neo ở ngoài khơi Singapore vào chiều ngày 20/7 để đi về hướng đông bắc đến cảng Incheon của Hàn Quốc, theo dữ liệu hải trình Refinitiv Eikon.
Các quan chức Hàn Quốc cho biết, sau vụ cướp, con tàu vẫn di chuyển bình thường.
Vụ việc xảy ra gần Eo biển Singapore, một tuyến đường biển nhộn nhịp qua Indonesia, Malaysia và Singapore, hãng tin Hàn Quốc Yonhap cho biết.
Cơ quan Hàng hải và Cảng biển Singapore (MPA) cho biết rằng vụ việc không xảy ra trong lãnh hải của nước này.
“Tuần duyên Hàn Quốc thông báo cho MPA rằng vụ cướp xảy ra trên Biển Đông, gần quần đảo Anambas,” một phát ngôn viên của MPA nói.
Trong tháng này, Bộ Giao thông Vận tải Trung Quốc đã đưa ra cảnh báo về an ninh cho các tàu Trung Quốc ở Eo biển Malacca gần đó, giữa bán đảo Malay và đảo Sumatra của Indonesia.
Một quan chức Trung Quốc từ chối nêu lý do vì sao đưa ra cấp độ an ninh mới, nhưng nói rằng quyết định này là kết quả của cuộc nghiên cứu toàn diện, có tính đến tất cả các yếu tố.
TQ nói Mỹ và các thế lực bên ngoài
‘khuấy đảo’ vấn đề Biển Đông
Trung Quốc hôm thứ Hai nói bình luận của các quan chức Hoa Kỳ về vai trò của Trung Quốc tại Biển Đông là “vu khống”.
Trước đó, trong dịp cuối tuần, Mỹ đã lên tiếng về các tường thuật có nội dung nói Trung Quốc can thiệp vào các hoạt động dầu khí tại Biển Đông, bao gồm cả các hoạt động thăm dò, khai thác mà Việt Nam đã tiến hành từ lâu nay.
Dầu khí Biển Đông: Malaysia cũng bị TQ ‘ngăn trở’
Mỹ: TQ cần ‘dừng thái độ bắt nạt’ ở Biển Đông
Bãi Tư Chính và lô 06-01 từ góc nhìn Luật quốc tế
Bãi Tư Chính và lô 06-01: Rõ hơn về tàu Trung Quốc ‘quấy nhiễu’ Việt Nam
Bắc Kinh tuyên bố chủ quyền đối với phần lớn diện tích Biển Đông, nơi có tuyến giao thương trên biển quan trọng với lượng hàng hóa trị giá chừng 5 nghìn tỷ đô la qua lại mỗi năm.
Các nước khác cũng tuyên bố chủ quyền từng phần, với những diện tích lấn lên phần mà Bắc Kinh coi là của mình, gồm Brunei, Malaysia, Philippines, Đài Loan và Việt Nam.
Hôm thứ Bảy, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ nói: “Các hành động khiêu khích lặp đi lặp lại của Trung Quốc nhắm vào hoạt động dầu khí ngoài khơi của các quốc gia khác có tuyên bố chủ quyền tại Biển Đông đang đe dọa tới an ninh năng lượng khu vực và làm suy yếu thị trường năng lượng tự do và cởi mở tại Ấn Độ-Thái Bình Dương.”
Cố vấn an ninh quốc gia của Tổng thống Donald Trump, ông John Bolton, một nhân vật ‘diều hâu’, cũng viết trên Twitter rằng hành động “có tính áp bức của Trung Quốc” đối với các nước láng giềng Đông Nam Á là phản tác dụng và đe dọa tới hòa bình, ổn định khu vực.
Bình luận của ông John Bolton củng cố thêm cho các nhận xét trước đó của Ngoại trưởng Hoa Kỳ Mike Pompeo.
‘Không ai tin’
Tại Bắc Kinh, hôm 22/07/2019 phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng nói những bình luận như thế của hai quan chức cao cấp Mỹ là vô căn cứ.
Ông Cảnh Sảng nói thêm rằng Hoa Kỳ và “các thế lực bên ngoài” đang khuấy đảo vấn đề tại Biển Đông.
“Đây là sự vu khống chống lại các nỗ lực của Trung Quốc và các nước Đông Nam Á trong việc duy trì hòa bình và ổn định ở Biển Nam Trung Hoa (cách Trung Quốc gọi Biển Đông), và trong việc kiểm soát đúng đắn các bất đồng,” ông Cảnh Sảng nói tại buổi họp báo hôm thứ Hai.
“Các quốc gia và người dân trong khu vực sẽ không tin vào những lời lẽ của họ.”
“Chúng tôi thúc giục Hoa Kỳ hãy chấm dứt cách hành xử vô trách nhiệm đó, và tôn trọng các nỗ lực của Trung Quốc và các nước ASEAN trong việc giải quyết bất đồng thông qua đối thoại và hợp tác vị hòa bình và ổn định tại Biển Nam Trung Hoa.”
Đã xảy ra tình trạng đối đầu trong vài tuần qua giữa tàu thuyền của Việt Nam và Trung Quốc ở Bãi Tư chính thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Một nước khác thuộc Asean là Malaysia vừa mới đây cũng có hoạt động khai thác dầu khí trên thềm lục địa của họ bị “tàu Trung Quốc ngăn cản”.
Tờ South China Morning Post của Hong Kong hôm 17/7 cho hay, chiếc tàu Haijing (Hải Cảnh) 35111 trực thuộc Cảnh sát biển Trung Quốc, đã tuần tra xung quanh cụm bãi cạn Luconia phía nam quần đảo Trường Sa từ ngày 10 đến 27/5, gồm một lô dầu khí được cấp phép cho công ty Sarawak Shell.
Các diễn biến chính
3/7: Tàu thăm dò Hải dương 8 của Trung Quốc vào vùng biển gần rặng san hô gần Bãi Tư chính để “thực hiện khảo sát địa chất”
11/7: Nhiều báo quốc tế đưa tin về tình trang đối đầu của tàu Trung Quốc và tàu Việt Nam “tại địa điểm gần một lô dầu khí trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam”
12/7: Bộ Ngoại giao Trung Quốc không xác nhận việc có tình trạng đối đầu, nhưng nói Bắc Kinh “quyết tâm bảo vệ lợi ích của mình” ở Biển Đông
8-12/7: Chủ tịch Quốc hội Việt Nam Nguyễn Thị Kim Ngân thăm Trung Quốc. Chủ tịch Tập Cận Bình nói với bà Ngân: “Hai nước nên bảo vệ hòa bình và ổn định hàng hải bằng các hành động cụ thể”
16/7: Việt Nam lần đầu tiên lên tiếng: “Chủ trương của Việt Nam là kiên quyết đấu tranh bằng các biện pháp hòa bình.”
17/7: Trung Quốc yêu cầu Việt Nam “tôn trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán của Trung Quốc tại các vùng biển có liên quan” và “không có các hành động làm phức tạp tình hình”
19/7: Việt Nam tuyên bố nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 của Trung Quốc đã vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía nam Biển Đông
20/7: Hoa Kỳ nói hành động của Trung Quốc “đang đe dọa tới an ninh năng lượng khu vực và làm suy yếu thị trường năng lượng tự do và cởi mở tại Ấn Độ-Thái Bình Dương”. Mỹ yêu cầu Trung Quốc “dừng thái độ bắt nạt” đối với các nước trong khu vực
22/7: Trung Quốc nói Mỹ “vu khống”, và “không ai tin” những gì giới chức Mỹ nói về tình hình ở Biển Đông
https://www.bbc.com/vietnamese/world-49059609
Biển Đông nóng: Mỹ nói thẳng với TQ
Bộ Ngoại giao Mỹ chỉ trích Trung Quốc đang có “các hành động khiêu khích” và “gây bất ổn” tại vùng khai thác dầu khí của Việt Nam.
Ngày 20/7, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ Morgan Ortagus đã có những tuyên bố liên qua đến các hành động của Trung Quốc trong những ngày gần đây. Theo đó, Washington cho rằng đây là “sự cản trở các hoạt động khai thác và sản xuất dầu khí đã có từ lâu của Việt Nam”.
“Các hoạt động khiêu khích lặp đi lặp lại của Trung Quốc nhắm vào các hoạt động khai thác và thăm dò dầu khí xa bờ của các bên liên quan (ở Biển Đông) đã đe dọa an ninh năng lượng của khu vực và phá hoại một thị trường năng lượng tự do, rộng mở ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương”, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ khẳng định.
Bộ Ngoại giao Mỹ nhấn mạnh Trung Quốc trong thời gian gần đây đã có các hành độn như cải tạo và quân sự hóa các thực thể chiếm đóng trái phép, sử dụng lực lượng dân quân biển để bắt nạt, đe dọa các quốc gia khác “là hành động phá hoại hòa bình, an ninh khu vực”.
“Mỹ kiên quyết phản đối mạnh mẽ các hành động cưỡng ép và bắt nạt được thực hiện bởi bất kỳ bên nào tuyên bố chủ quyền. Trung Quốc nên ngừng ngay các thói bắt nạt nước khác và kiềm chế, tránh các hành động mang tính khiêu khích và gây bất ổn khu vực”, Bộ Ngoại giao Mỹ nhấn mạnh.
Bộ Ngoại giao Mỹ dẫn lại lời của Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo hồi đầu năm rằng “bằng cách ngăn việc phát triển ở biển Đông thông qua các biện pháp cưỡng bách, Trung Quốc ngăn các thành viên ASEAN tiếp cận trữ lượng năng lượng có thể khai thác trị giá hơn 2.500 tỷ USD”.
Bộ Ngoại giao Mỹ cũng nói rằng, việc Trung Quốc gia tăng sức ép đối với các thành viên ASEAN để họ chấp nhận các điều khoản có lợi cho Trung Quốc, như hạn chế quyền hợp tác của các quốc gia ASEAN với nước thứ ba hoặc công ty thứ ba, càng bộc lộ rõ ý định của Bắc Kinh trong việc kiểm soát tài nguyên dầu khí ở biển Đông.
“Việc Trung Quốc cải tạo và quân sự hóa các tiền đồn ở khu vực tranh chấp trên biển Đông, bao gồm sử dụng dân quân biển để đe dọa, cưỡng bách các quốc gia khác, làm xói mòn hòa bình và an ninh khu vực”, Bộ Ngoại giao Mỹ nhận định.
Cùng ngày, Cố vấn an ninh cấp cao John Bolton khẳng định, Trung Quốc đang đe dọa hòa bình và ổn định ở khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương qua các hành động cưỡng bức với cá nước Đông Nam Á.
“Tôn trọng chủ quyền và tự do hàng hải là nền tảng của tầm nhìn Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương mà Mỹ và ASEAN chia sẻ. Lối hành xử cưỡng bách của Trung Quốc đối với các nước láng giềng Đông Nam Á là phản tác dụng và đe dọa hòa bình, ổn định khu vực”, ông Bolton viết trên Twitter.
Tính tới thời điểm này, phía Bộ Ngoại giao Trung Quốc chưa có bình luận về vụ việc này.
http://biendong.net/bi-n-nong/29405-bien-dong-nong-my-noi-thang-voi-tq.html