Tin Biển Đông – 27/06/2019
Biển Đông: Mỹ – TQ ngày càng căng thẳng?
Các động thái quân sự gần đây của Trung Quốc đang hé lộ những toan tính của họ đối với khu vực quan trọng này.
Mới đây, ít nhất bốn chiến đấu cơ J-10 của Trung Quốc (TQ) bị phát hiện triển khai đến đảo Phú Lâm, thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam mà nước này chiếm đóng phi pháp, theo ảnh vệ tinh được đài CNN công bố.
Động thái này của TQ diễn ra cùng thời điểm một số cuộc tập trận của hải quân các nước Mỹ, Nhật Bản, Việt Nam, Ấn Độ và trong bối cảnh Chủ tịch Tập Cận Bình và Tổng thống Donald Trump sắp gặp nhau bên lề Hội nghị thượng đỉnh nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới (G20) diễn ra tại Osaka, Nhật Bản.
Ông Ben Ho, chuyên gia phân tích thuộc Trường Quốc tế học S. Rajaratnam tại Singapore, nhận định “có thể còn nhiều chiếc nữa nằm trong nhà chứa” và rằng dựa vào việc các máy bay không trang bị bình nhiên liệu bổ sung, nhiều khả năng số J-10 nói trên “đã được lên kế hoạch để lưu lại dài ngày trên đảo”. Đây là lần đầu tiên dòng chiến đấu cơ này được triển khai đến biển Đông.
Chiến lược của Trung Quốc
Trả lời Hoàn Cầu Thời Báo, chuyên gia về lĩnh vực phòng không Fu Qianshao lớn tiếng cho rằng hành động triển khai chiến đấu cơ của Bắc Kinh “hoàn toàn đầy đủ pháp lý” và “nằm trong lãnh thổ” nước này. “Quân đội TQ cần triển khai chiến đấu cơ đến các sân bay quân sự để bảo vệ chủ quyền biển đảo và không phận. Đây là điều bình thường… TQ cần chiến đấu cơ để giữ hòa bình và ổn định khu vực biển Đông” – ông Fu nói.
Theo cựu sĩ quan không quân hoàng gia Úc Peter Layton, số J-10 được triển khai nhiều khả năng là đang nằm trong giai đoạn diễn tập bước đầu để chuẩn bị cho “sự hình thành vùng nhận diện phòng không (ADIZ)” mà nước này tuyên bố từ năm 2016. Nếu được thiết lập, các máy bay đều phải khai báo trước với chính quyền Bắc Kinh nếu muốn bay qua biển Đông. “Họ đang muốn cả thế giới nhìn thấy chúng. Nếu không, họ đã đưa chúng vào nhà chứa rồi. Họ đang muốn chúng ta nhận thấy thông điệp gì?” – ông Layton nói.
Trong bài bình luận trên tạp chí Defense Connect, chuyên gia Stephen Kuper lưu ý TQ lâu nay luôn tìm cách chống lại sự hiện diện quân sự của Mỹ và đồng minh cả ở biển Đông lẫn khu vực rộng hơn là Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương.
Những nỗ lực này bao gồm việc xây dựng các nhóm tác chiến tàu sân bay nhằm “biểu dương sức mạnh”, phát triển các hạm đội tàu ngầm trang bị đạn đạo bao gồm những chiếc chạy bằng năng lượng hạt nhân và sử dụng năng lượng truyền thống. Không quân TQ thời gian gần đây cũng chú trọng nâng cấp các máy bay ném bom chiến thuật, chiến đấu cơ và hệ thống tên lửa hành trình.
Ông cho biết tất cả điều trên cộng lại sẽ tạo thành khung xương cho chiến lược phòng thủ chống xâm nhập/chống tiếp cận mà Bắc Kinh đang theo đuổi ở biển Đông.
Được các chuyên gia quân sự TQ đề ra sau khi chứng kiến quân đội Iraq thất thủ trong chiến tranh vùng Vịnh năm 1991, chiến lược này tập trung chủ yếu vào việc vô hiệu hóa sức mạnh quân sự của Mỹ bằng cách hình thành nhiều lớp phòng thủ và ngăn chặn, phong tỏa đường không, đường biển thông qua sự kết hợp giữa hệ thống tên lửa phòng thủ hiệu quả và các đợt tấn công linh hoạt các cơ sở hậu cần của Mỹ trong khu vực nằm dưới tầm kiểm soát của các hệ thống trên. Đây cũng là lý do vì sao TQ đang đẩy nhanh tiến độ quân sự hóa và bồi đắp các đảo nhân tạo trên biển Đông nhằm biến chúng thành các căn cứ quân sự.
“Việc triển khai các chiến đấu cơ J-10 của TQ đến đảo Phú Lâm sẽ cho phép nước này mở rộng hơn quyền kiểm soát của họ đối với không phận biển Đông. Vì (nếu không giữ được) Phú Lâm, vốn cho phép kiểm soát phòng không đối với các máy bay từ đảo Hải Nam (nơi đặt căn cứ của Hạm đội Nam Hải), TQ sẽ không thể tiến hành chiếm quần đảo Trường Sa và thách thức lợi ích của Việt Nam” – ông Kuper nói.
Cựu ngoại trưởng Philippines Albert Del Rosario hôm 25-6 cho biết TQ đang trì hoãn hoàn tất đàm phán Bộ quy tắc ứng xử trên biển Đông (COC) nhằm tìm thời gian “xây dựng các đảo nhân tạo” ở biển Đông.
Những hành động của Mỹ
“Nếu thật sự nổ ra một cuộc chiến giữa Mỹ và Iran, tôi cho rằng những quốc gia như TQ sẽ có những hành động lợi dụng một nước Mỹ đang mất tập trung và hành động của TQ sẽ bắt đầu từ biển Đông ” – chuyên gia Malcolm Davis thuộc Viện Nghiên cứu chính sách chiến lược Úc dự đoán.
Bắt đầu từ nhiệm kỳ của Tổng thống Donald Trump, hải quân Mỹ đã tổ chức 11 cuộc tuần tra ở khu vực biển Đông nhằm thực thi các chiến dịch tự do hàng hải (FONOP). Các chiến dịch này được đánh giá là nhằm đương đầu với cái mà Mỹ gọi là hoạt động ngăn cản tự do di chuyển ở khu vực này của TQ. Dưới thời Tổng thống tiền nhiệm Barack Obama, các tàu chiến Mỹ chỉ di chuyển đến biển Đông sáu lần trong suốt tám năm cầm quyền của ông.
Tờ South China Morning Post dẫn lời Thiếu tá Tim Gorman thuộc Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ khẳng định những chiến dịch này là nhằm “thách thức những tuyên bố chủ quyền hàng hải phi lý và duy trì hoạt động tiếp cận các vùng biển được luật pháp quốc tế quy định.
Tất cả hoạt động của hải quân Mỹ đều tuân thủ luật pháp quốc tế cũng như khẳng định Mỹ sẽ bay, đi qua và hoạt động ở bất cứ đâu mà luật pháp quốc tế cho phép” và cho biết hải quân Mỹ vẫn sẽ tiếp tục thực thi FONOP thường xuyên trong tương lai.
Trung Quốc kỳ vọng gì ở J-10?
Theo tạp chí National Interest, chiến đấu cơ J-10 là nỗ lực đầu tiên của TQ nhằm phát triển tiêm kích thế hệ thứ tư nhằm đối trọng với các máy bay F-15C Eagle và F-16 Falcon của Mỹ, máy bay Su-27 Flanker và MiG-29 Fulcrum của Nga.
Kể từ khi được biên chế, tiêm kích này luôn có tên trong danh mục chiến đấu của không quân TQ, giúp nước này có được phi đội tiêm kích thế hệ thứ tư đa năng với chi phí sản xuất và vận hành thấp. Phiên bản mới nhất của dòng chiến đấu cơ này là J-10C được đưa vào sử dụng năm 2017. Hiện chưa rõ phiên bản J-10 nào đã được triển khai ra đảo Phú Lâm.
http://biendong.net/bi-n-nong/28970-bien-dong-my-tq-ngay-cang-cang-thang.html
Tình hình Biển Đông diễn biến phức tạp,
nhiều hoạt động đơn phương phi pháp
Trả lời phỏng vấn tờ The Nation, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc nận định tình hình Biển Đông đang diễn biến phức tạp, gây xói mòn lòng tin, không có lợi cho nỗ lực đối thoại, hòa bình, ổn định ở khu vực.
Theo Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, việc duy trì hòa bình, an ninh, ổn định ở khu vực là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển bền vững, thịnh vượng của các quốc gia, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay các thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống đang trở nên nối cộm, xuất hiện nhiều điểm nóng đe dọa hòa bình, ổn định khu vực và thế giới. Việt Nam luôn duy trì quan điểm rằng mọi vấn đề phải được xử lý bằng các biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế và sẽ tiếp tục đóng góp vào các nỗ lực chung mà ASEAN đang đóng góp giải quyết như các vấn đề liên quan tới Biển Đông, phi hạt nhân hóa trên bán đảo Triều Tiên, tội phạm xuyên quốc gia.
Về vấn đề Biển Đông, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc ghi nhận những phát triển tích cực ban đầu trong việc đàm phán xây dựng Bộ quy tắc COC giữa ASEAN và Trung Quốc. Mặc dù vậy, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho rằng tình hình vùng biển này vẫn đang diễn biến hết sức phức tạp mà nổi lên là các hoạt động đơn phương phi pháp, bồi đắp đất thay đổi nguyên trạng, quân sự hóa, va chạm gây nguy hiểm cho ngư dân; khẳng định đây là thực trạng rất đáng quan ngại gây xói mòn lòng tin, không có lợi cho nỗ lực đối thoại và duy trì hòa bình ổn định ở khu vực. Do đó, các nước ASEAN phải giữ vững lập trường về Biển Đông; các bên cần kiềm chế, không làm phức tạp thêm tình hình, không quân sự hoá, giải quyết hoà bình các tranh chấp trên cơ sở luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982), thực hiện nghiêm chỉnh, đầy đủ Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC), nỗ lực xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở biển Đông (COC) hiệu lực, hiệu quả, phù hợp luật pháp quốc tế và được cộng đồng quốc tế ủng hộ.
Trước đó, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh cũng đưa ra những nhận định tương tự khi cho rằng tình hình Biển Đông đang diễn biến phức tạp. Theo ông Phạm Bình Minh, các bên cần nỗ lực hơn nữa duy trì đối thoại và hợp tác vì hoà bình, ổn định, an ninh, an toàn hảng hải và hàng không trên Biển Đông, đề cao tự kiềm chế, tránh những hành động đơn phương, trong đó có quân sự hoá Biển Đông, ảnh hưởng tới lòng tin trong khu vực; nhấn mạnh trong nỗ lực xây dựng COC hiệu lực và hiệu quả, ASEAN và Trung Quốc cần hợp tác bảo đảm môi trường thuận lợi cho đàm phán thành công; đề nghị đẩy mạnh hợp tác trong các khuôn khổ của ASEAN trong ứng phó với những thách thức trên biển như nạn đánh bắt cá trái phép, rác thải biển, các bên liên quan cần kiềm chế, tránh
các hành động có thể dẫn đến tính toán sai lầm, nỗ lực thực hiện đầy đủ DOC và phấn đấu xây dựng COC hiệu lực, hiệu quả, phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS.
Tuyên bố của giới chức Việt Nam được đưa ra trong bối cảnh: (i) Trung Quốc đẩy mạnh các hoạt động quân sự phi pháp trong khu vực Biển Đông. Lực lượng hải quân, không quân của Trung Quốc liên tục tiến hành các hoạt động tập trận bắn đạn thật phi pháp ở trên cả quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa (thuộc chủ quyền của Việt Nam), bãi cạn Scarborought/Hoàng Nham. Bắc Kinh huy động nhiều phương tiện, khí tài quân sự hiện đại như tàu sân bay Liêu Ninh, tàu khu trục trang bị tên lửa đạn đạo, tên lửa hành trình, tàu ngầm hạt nhân, tàu tiếp tế quân sự, máy bay ném bom chiến lược H-6K, máy bay chiến đấu, máy bay cảnh báo thế hệ mới KJ-500… (ii) Trung Quốc còn thường xuyên điều các lực lượng chấp pháp tuần tra trái phép trên Biển Đông. Theo đó, Trung Quốc thường xuyên huy động lực lượng chức năng như Hải giám, Ngư chính, Cảnh sát Biển… tuần tra phi pháp trong khu vực. (iii) Trung Quốc ngang nhiên cải tạo đảo và quân sự hóa trên các đảo nhân tạo ở Biển Đông. Trung Quốc đã hoàn thành việc nạo vét và bồi đắp để tạo ra 7 thực thể nhân tạo mới tại quần đảo Trường Sa, tiến hành xây dựng các căn cứ quân sự trên các đảo nhân tạo. Theo tính toán của Tổ chức Sáng kiến minh bạch hàng hải châu Á (AMTI), các công trình này bao phủ một khu vực rộng khoảng 290.000m2, trên đá Chữ Thập, Subi và Vành Khăn thuộc quần đảo Trường Sa và đá Bắc, đá Cây và đá Tri Tôn thuộc quần đảo Hoàng Sa; tổng diện tích các công trình xây dựng trên Chữ Thập vào khoảng 110.000m2, bao gồm các nhà chứa máy bay lớn hơn dọc đường băng chính. (iv) Trung Quốc cũng tích cực thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu, khai thác tài nguyên thiên nhiên phi pháp trên Biển Đông. Tranh thủ khai thác trộm tài nguyên thiên nhiên trên Biển Đông (nhất là dầu khí, bằng cháy và hải sản) để thúc đẩy phát triển kinh tế trong nước là một trong những mục tiêu chiến lược hàng đầu của Trung Quốc. Bắc Kinh bỏ ngoài tai phán quyết của Tòa để tiến hành nhiều hoạt động khai thác trái phép như: Tập đoàn Dầu khí Trung Quốc (CNPC) tiến hành thăm dò, khai thác thành công băng cháy ở vùng biển cách Quảng Đông 320 km về phía Đông Nam; Tổng công ty Dầu khí quốc gia Trung Quốc (CNOOC) mời thầu phi pháp 22 lô dầu khí ở phía Bắc Biển Đông, các lô dầu khí được mời thầu có tổng diện tích lên đến 47.270 km2; hàng năm Trung Quốc đều đơn phương ra lệnh cấm đánh bắt cá (1/5-1/8) trên vùng biển Bột Hải, Hoàng Hải, Hoa Đông và Biển Đông.
Biển Đông : Hải quân Mỹ
cân nhắc trở lại căn cứ vịnh Subic
Hải quân Hoa Kỳ đang cân nhắc việc quay lại căn cứ cũ ở vịnh Subic, Philippines, nơi trước đây từng là cơ sở hậu cần cho quân đội Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, để phục vụ cho hạm đội Mỹ hoạt động ở khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương. Tờ Star and Stripes hôm 26/06/2019 cho biết như trên.
Nhà máy đóng tàu Hanjin Shipyard ở vịnh Subic đã được rao bán sau khi chủ sở hữu là Hanjin Philippines tuyên bố phá sản, với số nợ 900 triệu đô la. Ngay lập tức có hai công ty Trung Quốc muốn mua lại. Theo Star and Stripes, chính phủ Mỹ hiện đang xem xét khả năng thuê sử dụng cơ sở lớn thứ năm trên thế giới này làm nơi sửa chữa và bảo trì tàu chiến, đồng thời tránh để cảng này rơi vào tay Trung Quốc.
Một thuyền trưởng về hưu của Hải quân Mỹ nói với tờ báo, đây là « cơ hội bằng vàng để quay lại vịnh Subic » sau gần 30 năm vắng bóng. Trong thập niên 40, khi Hoa Kỳ và Philippines thương lượng về quan hệ liên minh, Trung Quốc chưa phải là mối đe dọa trên biển. Vào thời đó, chưa ai dự báo được các hành động hung hăng của Bắc Kinh nhằm bành trướng tại Biển Đông như hiện nay.
Nếu quay lại căn cứ ở vịnh Subic, Washington vừa ngăn chận được việc Bắc Kinh có thêm căn cứ quân sự trong khu vực, vừa rất thuận tiện cho các chiến hạm lớn của Mỹ không phải đến Trân Châu Cảng để bảo trì.
Theo Taiwan News, ngày càng nhiều người dân Philippines bất bình trước thái độ nhân nhượng quá mức của tổng thống Philippines trong tranh chấp chủ quyền trên biển với Trung Quốc, và việc Mỹ quay lại sẽ là thông tin tích cực đối với họ.
Trong chiến tranh Việt Nam, vịnh Subic là căn cứ hải quân của Hoa Kỳ. Sau sự kiện vịnh Bắc bộ, Subic trở thành căn cứ hậu cần của Đệ thất hạm đội với hoạt động rất tấp nập, có lúc phục vụ đến 47 chiến hạm, và khi Sài Gòn sụp đổ năm 1975, đã đón nhận hàng ngàn người Việt tị nạn. Mỹ chính thức rút khỏi vịnh Subic năm 1992.
http://vi.rfi.fr/chau-a/20190627-bien-dong-hai-quan-my-can-cu-vinh-subic