Tập San Tân Đại Việt – Số 2/2019
Mục Lục
Lê Minh Nguyên: Bài học dựa vào người cộng sản để đấu tranh dân chủ
Phan Văn Song: Lá thư đầu năm Kỷ Hợi: Năm cuối cùng của một nước còn tý gì Việt Nam
Thanh Thủy: Tham luận 130 Cảm Nghĩ Thời Cuộc và Những Điều Trăn Trở
Nguyễn Bá Lộc: Bắc Hàn theo mô hình kinh tế Việt Nam
Trần Nguyên / Người Xứ Bưởi: Hi hữu: Trước Hội Nghị Thượng Đỉnh Mỹ & Bắc Hàn kỳ 2 tại VN
Đào Văn Bình: Nhật Ký Biển Đông:
– Venezuela- Một Syria Thứ Hai?
– Chính Trị Thái Lan Bất Ổn
Trọng Đạt: Con hùm xám Nguyễn Chí Thanh
James Kraska/ Phan Văn Song dịch: Cách Trung Cộng khai thác kẽ hở trong luật quốc tế để hùng bá ở Đông Á
HQ Phạm Quốc Nam: Sau 45 năm nhìn lại hải chiến Hoàng Sa 1974: Những điều ít người biết
Trần Trung Đạo: Đặng Tiểu Bình Trong Chiến Tranh Biên Giới Việt Trung 1979
Nhữ Đình Hùng: Thơ Cảm tác
Nguyễn Hùng: Mười ‘tiết lộ’ về Cuộc chiến Việt Trung 1979
Nguyễn Hiến Lê & Giản Chi: Hàn Phi Tử Chương 7 – Thuật
Nguyễn Thị Cỏ May: Bùa Ngải Trở Lại Việt Nam
Từ Thức:
– Tin nóng: Sẽ đóng cửa các BOT trên toàn lãnh thổ?
– CHUYỆN LẠ: Sống bằng lương
– Chống Tàu thật hay giả?
– Đểu cáng
– Thán phục và miệt thị
Minh Hòa: Tôi đi thăm chồng ‘cải tạo’
Phùng Thành Chủng: Bà Tôi
Bài học dựa vào người cộng sản để đấu tranh dân chủ – Lê Minh Nguyên
Ngày Thứ Tư 20/2 bà Nguyễn Thị Bình, nhân danh Chủ Tịch Quỹ Văn Hoá Phan Châu Trinh ký văn thư thông báo về việc Quỹ Văn Hoá Phan Châu Trinh chấm dứt hoạt động.
Bà không nêu lý do cụ thể tại sao mà chỉ nói mù mờ là “do một số điều kiện khách quan”. Nhưng dù vậy, ta cũng thấy được nó không phải là lý do chủ quan hay nội bộ muốn như vậy. Do đó nó được hiểu là Đảng CSVN không cho phép hoạt động và ép giải tán (http://bit.ly/2tyzDGE).
Điều khôi hài của Quỹ này là muốn thăng tiến dân chủ nhưng khi làm thì châm chọc như có ý vinh danh ông Ngô Đình Nhu là danh nhân văn hoá.
Bà Bình là cán bộ cộng sản, truởng phái đoàn Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam, rồi Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam tham gia hội nghị 4 bên ở Paris 1968-1973. Sau chiến tranh các ngoại vi này bị giải tán và bà trở thành Phó Chủ Tịch Nước từ 1992-2002.
Chủ nghĩa Mác-Lê tuyệt đối cấm đối lập, nhất là đối lập có tổ chức dưới bất cứ dạng thức nào, dù là trên mạng như Hiến Chuơng 08 (Lưu Hiểu Ba) ở TQ hay Hội Anh Em Dân Chủ (Nguyễn Văn Đài) ở VN.
CSVN coi Quỹ Văn Hoá Phan Châu Trinh là một tổ chức chính trị do ông Chu Hảo cầm đầu. Nhóm này dựng bà CS Bình lên làm bình phong che chắn. Nhưng với người CS thì trở mặt là chuyện bình thường, nhất là khi Đảng đã ra sức ép, bà trở mặt ngay mà không cần thảo luận với những người trong tổ chức. Cho đến nay (25/2) nó vẫn chưa được công bố lên website của Quỹ (quyphanchautrinh.org), nhưng các báo lề phải như thanhnien, tuoitre, vnexpress… đều đã đăng.
Hồi cuối Tháng 10/2018, ông Chu Hảo, cựu thứ trưởng Khoa Học và Công Nghệ, giám đốc Nhà Xuất Bản Tri thức, công bố thư “từ bỏ đảng CSVN” sau khi có tin Ủy Ban Kiểm Tra Trung Ương đề nghị kỷ luật ông. Ngay sau đó Đảng CSVN loan báo quyết định khai trừ ông vì tội “chống đối và tự diễn biến.” Ba tháng sau bà Bình lấy tư cách chủ tịch đơn phương cho ngừng hoạt động.
Ông Chu Hảo hôm Thứ Hai 25/2 trả lời phỏng vấn RFA có nói gỡ gạc rằng là do “sức khỏe của bà Nguyễn Thị Bình. Bà ấy năm nay đã trên 90 tuổi.” Ông “khẳng định là việc này chúng tôi làm hoàn toàn tự nguyện tự giác, trên cái cơ sở, điều kiện là không có người thay thế bà Bình, chứ không chịu sức ép của bất kỳ chính quyền hay ai cả.” Việc bị CSVN ép đóng cửa thì người bình thường cũng thấy, nhưng với đối lập trung thành thì “trăm lỗi tại tôi” (http://bit.ly/2tBblvF).
Trí thức trong nước nói chung và sĩ phu Bắc Hà nói riêng đều yếu đuối và hoạt động theo kiểu đối lập trung thành. Trong lá thư gởi TT Trump ngày 17/2, họ chỉ thể hiện lòng ái quốc muốn Mỹ giúp VN để ngăn chận TQ ở Biển Đông, hoàn toàn có lợi cho chế độ CSVN, không có một lời nào về kêu gọi can thiệp nhân quyền hay hỗ trợ phong trào dân chủ VN hay can thiệp cho tù nhân lương tâm (http://bit.ly/2tEcMcG).
Trí thức là lực lượng hướng dẫn quần chúng. Thiên An Môn thất bại, một phần là do giai tầng trí thức né tránh trách nhiệm trốn về thôn quê.
Người cộng sản có nói một tờ giấy trắng (hàm ý người chưa từng tham gia chính trị hay trẻ em) mà đem nhuộm đỏ thì nó hoàn toàn đỏ, còn tờ giấy xanh mà đem nhuộm đỏ thì nó còn lốm đốm xanh, tướng Nguyễn Bình trước khi theo họ đã từng theo Việt Quốc, nên sau khi xài xong họ triệu ông ta về Bắc và thông tin cho Pháp lộ trình để nhờ tay Pháp giết đi. Cùng đồng tiền này, một tờ giấy đỏ (bà Bình) mà đem nhuộm xanh thì nó còn lốm đốm đỏ, dựa vào người cộng sản để đấu tranh dân chủ thì không chết cũng bị thương.
Một ĐC của Đảng Tân Đại Việt có nói “Thuốc đắng đã tật”, và trí thức trong nuớc có lẽ đang cần nhiều thuốc đắng.
Lá thư đầu năm Kỷ Hợi: Năm cuối cùng của một nước còn tý gì Việt Nam.
2020: Việt Nam Hán Hóa
Việt Nam Cộng Sản, Ngày Quốc Hận
Việt Nam Hán Thuộc, Ngàn Năm Quốc Hận.
TS. Phan Văn Song
«Un mensonge répété dix fois reste un mensonge; répété dix mille fois il devient une vérité – Một sự láo khoét lập mười lần là một đều láo, lập ngàn lần biến thành một sự thật» – Joseph Goebbels 1897-1945
Kính thưa quý thân hữu,
Năm nay, 2019, Kỷ Hợi, là năm cuối cùng của một đất nước còn tý gì Việt Nam, trước khi bọn Cộng Sản đương quyền bán nước trao toàn bộ quê cha đất tổ của chúng ta cho Tàu, đúng hẹn với Hiệp Ước Thành Đô. Xin phép đôi lời đầu năm nầy, được chia sẻ cùng quý thân hữu nỗi đau mất quê cha đất tổ nầy !
Mai nầy, 2020 : Nước Việt Nam chúng ta sẽ là tỉnh Việt Nam của Nước Tàu. Công dân Việt Nam trong nước sẽ là Công dân Tàu, sắc tộc Việt. Bà con chúng ta sẽ « sua hỏa dù – nói hoa ngữ» – tiếng việt chỉ sẽ là ngôn ngữ địa phương thôi.
Muốn thoát nạn Hán hóa : Chỉ có Chống Tàu Diệt Việt Cộng !
Ngay bây giờ : Toàn Dân phải đồng loạt đứng lên Cứu Nước.
Chỉ còn một Năm nay thôi!
Ngày 30 tháng Tư năm 1975, đất nước và thể chế Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa đã bị thua, và xóa bỏ, chúng ta đã phải bỏ nước ra đi tỵ nạn lưu lạc bốn phương làm lại cuộc đời, tuy nhiên, trong nước, tuy do Việt Cộng cầm quyền, người dân Việt vẫn còn, dân tộc Việt vẫn còn, tiếng Việt vẫn còn. Chúng ta chỉ một ngày Quốc Hận ! Năm tới Việt Nam sẽ bị Tàu Thuộc, Hán thuộc, mất nước, mất dân, mất tiếng nói, mất cả…
Quốc Hận Việt Cộng ngàn đời Quốc Hận Bắc Thuộc!
Ngày Quốc Hận sẽ là Năm Quốc Hận .
Thưa quý thân hữu
1/ Ngày 30 tháng Tư 1975, Ngày Mất Việt Nam Tự Do !:
a. Truyền Thông Láo đã đánh bại Chánh Nghĩa :
– 30 tháng Tư 1975, toàn dư luận thế giới, từ dân chúng Huê kỳ do ảnh hưởng bọn phản chiến phái tả tuyên truyền đã đành, mà đến cả cộng đồng Tây phương, đầy mặc cảm với cái tội lỗi rằng họ là hậu duệ của những người bóc lột dân các xứ nghèo chậm tiến, hết châu Phi với nô lệ lại đến châu Á thuộc địa ; tất cả đều thở phào, vui mừng, nhẹ nhàng nghĩ rằng từ nay, họ, những người Âu Mỹ đã hết trách nhiệm ! Làm như chiến tranh Việt Nam là một gánh nặng cho lương tâm họ vậy ?
– 30 tháng Tư năm 1975, chiến tranh Việt Nam ngưng hẳn tiếng súng. Thiên hạ trên thế giới vui mừng reo hò. Mừng quá, đến phải biếu không cái giải thưởng Nobel Hòa Bình, cho hai thằng đồ tể, con buôn Kissinger và Lê Đức Thọ, đã bán rẻ vận mệnh của trên 20 triệu đồng bào miền Nam Việt Nam đã hy sanh xương máu ba thế hệ để làm nhiệm vụ quốc tế là giữ vững lằn ranh Quốc Cộng, không cho làn sóng Đỏ tràn xuống miền Nam Đông Nam Á. Từ ngày ấy, bao nhiêu tang tóc chia rẻ do những cuộc di tản khổng lồ của dân tộc Việt Nam ; khác chi những cuộc di tản lịch sử của các dân tộc Arméniens, Do Thái , … xưa kia vậy. – 30 tháng Tư năm 1975, dân chúng phương Tây, từ Âu qua đến Mỹ, từ những nhà chánh trị lỗi lạc đến thường dân, đều một dạ thở phào nhẹ nhỏm tự kháu nhau: thôi, vĩnh viễn, sẽ hết rồi, sẽ không còn nữa, sẽ không thấy nữa, những hình ảnh chiến sự Việt Nam trên những màn hình TV làm bận trí mỗi bửa cơm trưa, mỗi bửa cơm tối của gia đình. Thôi hết rồi, từ nay sẽ không còn thấy những hình ảnh loại cô bé Kim Cúc trần truồng, vừa khóc vừa chạy trên con lộ chiến tranh, hay hình ảnh Thiếu tướng Loan xử bắn tên Việt Cộng … Đây, chúng tôi hạn chế, chỉ nói đến hai tấm hình được giải thưởng báo chí thôi ! Chúng tôi sẽ không dám và không kể những hình ảnh của những cảnh dội bom napalm, những hình ảnh rất mỹ thuật chụp bóng đen những đoàn trực thăng UH1 bay trên nền trời rực đỏ của hoàng hôn hay bình mình – cách trình bày đoàn trực thăng bay đen trên nền trời đỏ ví như một bầy quạ đen – rất mỹ thuật ấy đã tạo những ấn tượng « phản chiến » rất «chống chiến tranh» của ngành truyền thông báo chí phái tả âu mỹ. Sau nầy, cả ngành điện ảnh Huê kỳ cũng lạm dụng những hình ảnh như vậy, cũng chỉ để «mạ lỵ, đả phá chiến tranh Việt Nam nhìn từ phía Huê kỳ và Tây phương»: Bộ phim Apocalypse Now – với những hình ảnh đầy biểu tượng tiêu cực «chống chiến tranh» như đoàn trực thăng, với tiếng cánh quạt xé gió và bản nhạc Walkyries của Richard Wagner, hay bộ phim Full Metal Jacket với những cảnh ngô nghê, kịch cợm, mạ lỵ quân đội trong quân trường Thủy quân Lục chiến Huê kỳ, hay đoạn đánh nhau ở Huế – tả cảnh chỉ một cô du kích trẻ Việt Cộng mà cầm châm cả một toán Thủy quân Lục chiến Mỹ.
Thật đúng vậy, chính giới truyền thông báo chí Mỹ và phương Tây đã đánh bại quân đội đồng minh và quân lực Việt Nam Cộng Hòa!
b. Nhưng tất cả thế giới đều bị lầm, tất cả thế giới đều bị gạt.
Chỉ trong vòng vài ngay sau, cả thế giới ngã ngữa ra mới biết rằng bị thằng bé con Việt Cộng với bộ máy tuyên truyền Komintern – Cộng sản quốc tế đã lường gạt dư luận toàn cầu. Nhưng cũng có một điều rất lạ là người Tây phương tuy bị gạt họ vẫn tiếp tục có một cái nhìn rất bất công đối với chế độ Việt Nam Cộng Hòa chúng ta. Ấy cũng do tàng tích của bộ máy tuyên truyền «thân Cộng Tây phương» dựng lên một huyền thoại bất công xuất phát bởi giới truyền thông phái tả Âu Mỹ.
2/ Một huyền thoại dựng trên sự láo khoét lường gạt dư luận :
a. Phái hữu tư bản, thủ cựu vs Phái tả xã hội cấp tiến
Ôi sức mạnh của báo chí, ôi sức mạnh của tuyên truyền của thông tin. Từ sau Thế chiến 2, bổng nhiên có một phong trào, như một con bệnh, một con rắn độc, một con virus, một nọc độc, một bệnh truyền nhiểm, đưa những giòng suy nghĩ, tạo một giòng tư tưởng, một não trạng mới, «gọi là phái tả – la gauche» – theo một định nghĩa dùng ở xứ Pháp – đầu độc giới truyền thông trí thức âu châu. Sau Thế chiến 2 những danh từ như Dân tộc, như Quốc gia biến thành những danh từ, những thành kiến đại kỵ … ghê tởm, nghe rợn tóc gáy. Chỉ vì ác quỷ Hitler ra lý thuyết Quốc gia – Xã hội (National – Socialisme, gọi tắt là Nazisme) nên những phong trào, những tư tưởng thiên Quốc gia Dân tộc đều bị đánh giá là tiêu cực, là thủ cựu. Mà cũng lạ ! Nationalisme Dân tộc là thiên hữu là tiêu cực, nhưng socialisme lại là thiên tả là tích cực !
Tại sao một thái độ chánh trị hay kinh tế bảo tổn văn hóa dân tộc, bảo tồn những giá trị lịch sử, những giá trị truyền thống mà lại cho là thủ cựu, tiêu cực? Và bổng nhiên thiên hạ, dư luận toàn thế giới, không hẹn, mà đều đi đến kết luận, đánh giá là làn sóng chánh trị phái hữu với tinh thần bảo tồn, bảo vệ tinh thần dân tộc là tiêu cực và thủ cựu. Và phe Cộng sản chủ nghĩa, phe xã hội chủ nghĩa, phe phái tả, tự nhiên được hưởng, được đánh giá là «cấp tiến», là văn mình, là thông thoáng, cởi mở. Một cách tự nhiên, phe xã hội, phe cấp tiến là phe yêu chuông quốc tế, và biến thành một phong trào quốc tế – internationalisme !
Và vì cả thiên hạ thế giới hiểu lầm như vậy, nên khi những người dân Việt Nam chúng ta lựa chọn một đất nước lấy tên Quốc gia Việt Nam, với một nền chánh trị và một hướng chánh trị đứng phía bảo vệ một nền văn hóa cổ truyền, một nền luân lý có nguồn có gốc, có lịch sử do tổ tiên và cha ông ta truyền lại, vá với một nền đạo đức tử tể, chúng ta bổng nhiên ở phía wrong side, sai quấy! Khi Quốc gia Việt Nam ra đời, chúng ta mặc dù được một số quốc gia tiên tiến trên thế giới nhìn nhận, chế độ chúng ta vẫn bị một nhóm trí thức tự cho mình là cấp tiến và một nhóm truyền thông báo chí cấp tiến «không tán thành ủng hộ ».
Quốc gia Việt Nam ra đời với một văn kiện ngoại giao quốc tế, với những ký kết bang giao quốc tế vẫn bị đả phá! Trái lại nhóm cướp chánh quyền, tự xưng, tự biên, tự diễn, không kèn không trống, dùng khủng bố để trị dân, dùng đấu tố để cầm quyền, chận sông cấm chợ lại được nhóm tuyên truyền quốc tế Komintern ủng hộ cổ vũ đưa lên hàng quốc tế !!
– Sau khi đất nước bị chia đôi, khi quân đội đồng minh do Huê kỳ lãnh đạo đến với Việt Nam Cộng Hòa, để giúp chúng ta xây dựng một nền dân chủ tiên tiến kiểu tây phương, một nền kinh tế thị trường kiểu tư bản, giúp chúng ta xây dựng và bảo tồn một nền văn hóa dân tộc cổ truyền đạo Việt, biết trọng Đạo Trời biết Ơn Đất Nước, biết cầu biết nguyện chư tôn chư giáo, biết nhường trên nhịn dưới tôn ti trật tự, biết Ơn Cha quý Nghĩa Mẹ, biết thờ Ông bà cúng Tổ tiên. Họ giúp chúng ta có quân đội, có vũ khí để giữ nhà giữ cửa giữ vững giang sơn bờ cỏi miền Nam, và giúp chúng ta Chống Cộng, trang bị huấn luyện quân đội chúng ta … đều bị – kể cả thế giới đồng minh – nhóm tuyên truyền, thông tin thế giới – dẫn đầu là trí thức phái tả – tố cáo như những đoàn quân đi xâm chiếm lãnh thổ Việt Nam, và chúng ta, dân chúng miền Nam Việt Nam là một nạn nhơn !
– Trái lại, Quân đội Cộng sản, khi đánh giặc thì dùng chiến thuật biển người, thí chốt, thí quân ; khi thắng trận, thì dùng khủng bố, đấu tố khát máu để trừng trị dân vùng bị chiếm đóng – không người Việt miền Nam nào mà không quên 5 000 nạn nhơn vô tội bị thàm sát vào Tết Mậu Thân ở Huế ! – khi chiếm đóng thì dùng đấu tố gieo nỗi sợ, dùng cướp bóc, dùng tịch thu, dùng quốc hữu tài sản, kiểm kê tài sản, dùng cải cách ruộng đất, mồm nói để san bằng, tạo công bằng công lý cho giai cấp, như thực tế để thanh toán những kẻ, những người, có tý tiền tài, tư hữu … Quân đội nhơn dân Cộng sản đi đến đâu cũng đều sống bám vào dân, ăn bám vào dân, và buộc dân phải nuôi quân mình … Ở Pháp, thời Vua Louis XIV, thế kỷ thứ 17, để buộc người dân Tin Lành bỏ Đạo, trở về với Quốc Giáo là Thiên Chúa Giáo La mã, Nhà Vua dùng đạo quân dragons -kỵ binh của nhà Vua, đến các làng Tin Lành, đóng quân trong nhà dân, ăn bám, sống bám, sống cùng, ở cùng, ăn, cùng có khi có cả cảnh hảm hiếp con gái, vợ chủ nhà … cho đến khi nào dân làng chán quá, hay sợ quá phải bỏ đạo … Nạn ấy gọi là dragonnades.
– Quý vị thử so sánh : Các bạn có bao giờ thấy trong các quân đội Cộng sản, từ quân đội Hồng quân Liên Sô, qua đến quân đội Nhân dân Trung Cộng, và quân đội Việt Cộng làm gì có truyền thống đem theo một Bệnh viện dã chiến để chửa bệnh cho dân, hay đem lương thực để viện trợ, cứu trợ đồng bào chiếm đóng, hay nạn nhơn chiến tranh đâu ? Trái với truyền thống quân đội Việt Nam Cộng Hòa, hay quân đội Huê kỳ hay quân đội các đồng minh Huê Kỳ ở Việt Nam thời ấy? Khi đi hành quân, khi đến chiếm đóng, kiểm soát một vùng lạ, luôn luôn có một chương trình nhơn đạo, cứu trợ hay chửa bệnh , chích ngừa cho dân trong vùng? Quân Cộng sản, vì là quân đội nhơn dân, sống tam cùng – cùng ăn, cùng ở, cùng sống : thực sự là ăn – bám – vào dân , ngủ – bám – vào dân, đi đến đâu buộc người dân ở đấy phải nuôi quân. Quân đội ở nhà dân, quân đội ngủ nhà dân, ăn nhà dân, nào là mẹ nuôi, nào là em nuôi, chị nuôi, và nếu cần cả hộ lý nữa, nghĩa là quân đội có quyền « sung công, quốc hữu cả VỢ dân – Vợ người, bất kể ĐỊCH hay BẠN.
Thế mà phe Quốc Gia Cộng Hòa chúng ta vẫn bị mang tiếng là quân xâm chiếm.
Và thật là Bất công ! Tuyên truyền đã láo khoét mà quảng bá cũng bất công.
b. Quảng bá bất công : Hình ảnh Chiến tranh vs Tỵ nạn
– Bất công trong cách thức quảng bá các hình ảnh, các phóng sự: không một hình ảnh nào mô tả những cuộc tỵ nạn, lánh nạn Cộng sản, được nhận giải thưởng. Những hình ảnh tơi tả của những đoàn người dân miền Nam Việt Nam. Chúng ta vì quân đội ta thiếu tiếp tế, thiếu đạn, không giữ được căn cứ, phải bắt buộc di tản, tản cư, … Những cuộc tản cư, chạy nạn chiến tranh và nạn Cộng sản, đều trong máu lửa vì pháo, vì đạn của Cộng quân rồn rập bắn theo – đại lộ kinh hoàng Quảng Trị-Huế năm 1972 ; cuộc Đông Du gian khổ trên quốc lộ 19 từ Pleiku về Qui nhơn, vượt Sông Ba tháng 3/năm 1975 – Làm sao quên được ?
Thật đúng là « Một cuộc bỏ phiếu bằng chân không tiền khoáng hậu trong lịch sử Việt Nam ! » – không nhớ nhà báo nào đã đặt tên cho những cuộc chạy nạn Công sản vào những tháng 2, 3 và Tư năm 1975 ?
Xin quý thân hữu cố nhớ dùm xem : Có hình ảnh nào, có bài phóng sự nào, của những cuộc di tản của những tháng ấy, của dân chúng miền Nam chúng ta, nhận được một giải thưởng báo chí quốc tế nào không ?
Mà các hình ảnh, các phóng sự tỵ nạn có kém chi các hình ảnh chiến tranh trước đó vài năm? Cũng hãi hùng có kém chi chiến tranh, cũng chết cũng chóc, cũng máu, cũng lửa, có khác chi chiến tranh? Nếu với chiến tranh, có lửa cháy, có bom rơi, có đạn réo, có người chết, có phá hoại, có tàn phá; thì hình ảnh những cảnh tỵ nạn, tuy không ồn ào bằng, tuy chỉ trong im lặng, không có tiếng la không có tiếng rên không có tiếng khóc, vì đoàn người tuyệt vọng đã khóc hết nước mắt, đã gào hết cả hơi. sức đã tàn, thân đã kiệt … Hoặc giả, có chăng ? Có những hình ảnh về sau nầy, sau rất lâu, lâu lắm, sau cả những ngày, sau cả những năm, sau cả những tháng của ngày 30 thánh tư, những cảnh của những đoàn người lén lút ra đi, vượt biên, vượt biển, thì cũng chẳng có bức hình chụp nào, và cũng chẳng một giải thưởng nào cả!!.
Thật tình mà nói, thân phận người dân trong khói lửa chiến tranh, hay trong hỗn độn chạy nạn thì cũng như nhau ! Cũng trơ cũng trụi, cũng mình trần, chân đất, cũng mất cũng mát ! Nhưng trước ngày 30 tháng tư, trong khói lửa chiến tranh, chạy nạn chiến tranh người dân còn nhiều hy vọng, có thể mong đi đến trạm cứu trợ, gặp quân nhà, thương binh còn mong gặp đồng đội, còn có xe của quân nhà, còn có Hồng Thập Tự, có y tá, có bệnh viện, trực thăng, xe cấp cứu …. Nhưng trái lại, sau ngày ấy, sau ngày 30 tháng tư 1975, khi vượt biển tỵ nạn, nếu nam giới có thể bị giết, nữ giới còn có khi bị hảm hiếp, đôi khi bị cướp, bị bỏ lại, hay bị bắt đi làm điếm hay nô lệ tình dục bọn cướp biển …nhưng tất cả đều có thể bị chìm xuồng, đắm tàu chết đuối…
Cũng có vài hình ảnh thuyền nhơn – boat people cũng đã để lại vài dấu ấn, gây một tý ấn tượng, tạo một biểu tượng, một cảm xúc… như hình ảnh một chiếc ghe đầy nhóc người trước khi được cứu ! Nhưng chiếc hình ảnh đầy ấn tượng kia, tuy gây một hình ảnh thương xót ấy, trái lại là một bức hình đầy sự vui mừng, tràn trề hy vọng ! Vì chiếc ghe, chiếc thuyền nào mà được chụp hình là chiếc ghe, chiếc thuyền ấy đã đến bến an toàn, sắp được cứu thoát, và những thuyền nhơn sẽ được cứu vớt, được tỵ nạn, và ngày nay, các đàn con các đàn cháu thế hệ 2, thế hệ 3 đã nên người, thành công. Nhưng còn những chiếc ghe, những chiếc thuyền không được chụp hình ? Không ai thấy, không ai vớt ? …
3/ 30 tháng Tư năm 1975 : Ngày Quốc Hận
– Quốc Hận thay ! Khi những ngày sau 30 tháng Tư ấy, khi đã hết đánh nhau rồi, trong những giờ những ngày mà thế giới, mà thiên hạ ca tụng, bảo là đã hòa bình rồi ; gia đình, thiên hạ, lối xóm, cũng bảo nhau là hòa bình rồi ; và mọi người trong nước cả Bắc lẫn Nam cũng bảo nhau là hòa bình rồi ; cả cái thằng khốn nạn thắng trận, nay nó là Nhà Nước, nay nó là Nhà Cầm quyền, nay nó là thằng Quản trị đất nước mình, nó cũng bảo là hòa bình rồi. Nay, không còn tiếng súng nữa, và không còn chuyện chết chóc nữa ! Và cũng đã hết rồi, nay không còn cái chuyện : « … Tôi có người yêu, chết trận Plei Me, … vừa chết đêm qua …hay Đồng Xoài, Bình Giả .. » hay “Chết nghẹt ngào dọc theo biên giới … “ của một Trịnh Công Sơn phản chiến, trốn lính đau khổ sốt ruột, vì thấy bạn bè mình có « người yêu chết trận »…
Thế nhưng tại sao vẫn tiếp tục nói những chuyện hận thù, hết « ngụy » đến phản động », bắt chồng đi tù, bắt vợ con đi kinh tế mới, đuổi người miền Nam ra rừng, cướp nhà cướp của… ? Tại sao hòa bình rồi mà phải, bỏ nhà bỏ của, vượt biên kiếm sống… trong lúc xưa kia, chiến tranh lại bám trụ xây dựng non sông đất nước ? Và hòa bình rồi mà vẫn ngày ngày người người tiếp tục chết vì vượt biên, chết vì đi tù, chết vì đi kinh tế mới ?… trên 40 năm rồi tôi vẫn như như in vào đầu vào tim ! Quốc Hận !
– Quốc Hận khi chẳng thấy một tên Trịnh Công Sơn nào, hay một tên du ca phản chiến nào, dám khóc cho những ai có những người yêu “ Chết ở Biển Đông … chết ở Đảo hoang Pulau nào đó… hay bị hảm bị hiếp, trên những nẻo đường cũng dọc theo biên giới.” !
– Quốc Hận và càng Quốc Hận, khi không thấy có một bài hát nào khóc cho những ai đã “ Chết ở trại tù đày dọc theo biên giới, chết ở Cổng Trời, ở Long Giao, Suối Máu, Hàm tân… Chết tại những T20, những Z30… và chôn nằm cạnh nhau trên đồi Fanta !
Không ai làm bài thơ không ai làm bài hát cho những người yêu đã chết nầy cả
Thay Lời Kết :
Quốc Hận 75 mở đầu cho Quốc Hận 2020
Hán Thuộc Vĩnh Viễn
Chúng tôi không bao giờ quên những hình ảnh dân chúng chen lấn hỗn loạn tranh nhau tìm phương tiện hay những ngõ ngách để thoát hiểm : từ leo rào vào Sứ quán Mỹ, đến chen chúc trú ngụ tại Bệnh Viện Grall, hy vọng được núp bóng cái dù Pháp, qua đến những hình ảnh những đoàn người tỵ nạn, trên đường số 9 từ Pleiku về Biển Đông, từ Huế xuôi Nam, hay những chiếc đầu ngụp lặn lội ra biển để mong được các thuyền ghe cứu vớt… Chúng tôi chia sẻ cùng quý thân hữu ý nghĩa Ngày Quốc Hận để tưởng tượng năm sau 2020, cũng sẽ có những hình ảnh như xưa !
Hồi Nhơn Sơn, ra Tết Kỷ Hợi
Vui cười
Một cô gái đang tắm thì có tiếng gõ cửa
– Có ai ở nhà không?
– Ai đấy
– Tôi là anh mù hàng xóm đây
Cô gái nghĩ:
– Thôi khỏi mặc đồ, anh ta mù mà
Cô gái ra mở cửa: – Tìm tui chi thế?
– Cô chúc mừng tui đi
Cô gái: cái gì ?
– Tui đã mổ mắt thành công, giờ mắt tui sáng rồi!
Tham luận 130: Cảm Nghĩ Thời Cuộc và Những Điều Trăn Trở – Thanh Thủy (15/02/2019)
Qua bài diễn văn trước đọc trước Lưỡng Viện Quốc Hội Hoa Kỳ ngày 05/02/2019 của Tổng thống Mỹ Donald Trump, người viết xin được có những nhận định như sau:
1.- Cảm tưởng: Tt.Donald Trump là một vị nguyên thủ quốc gia thật sự có lòng yêu nước, dám nói và dám làm những gì mà ông quyết tâm theo đuổi, mục đích duy nhứt là vì quyền lợi của dân tộc Mỹ, của đất nước Mỹ. Điều nầy, trước đây ít có một vị nguyên thủ quốc gia nào làm được như vậy, phần đông là chỉ nói để kiếm phiếu, nhưng không làm được vì nhiều lý do, nhứt là sợ mình không đủ khả năng, hoặc không dám lộng hiểm làm những việc lớn lao như vậy vì sợ thất bại sẽ nguy hại đến địa vị lãnh đạo của mình hoặc không đủ tiên kiến để có thể đối phó với những hệ quả của những việc làm đó.
2.- Những luận điệu trái chiều: Nhiều người lấy lý do là ông Tt.Trump chỉ vì quyền lợi của nước Mỹ trên hết mà có thể trở thành vô nhân đạo, vô cảm với bên ngoài, cho nên ra sức chống đối về những việc làm vì quyền lợi tối hậu cho nước Mỹ của ông, điển hình như những vụ chống đối về việc xây bức tường biên giới Mỹ-Mễ để ngăn chận làn sóng di dân Caravan ào ạt từ Nam Mỹ vào, sửa đổi luật di dân, chống đối việc trục xuất những người di dân lậu vào Mỹ và những thành phần bất hảo có tiền án hoặc hiện đang thọ án.
Giả sử như những vị chống đối đó là người Mỹ hoặc không phải là người Mỹ, nếu họ ở vị trí lãnh đạo quốc gia của họ một cách chân chánh thì họ làm việc cho ai? Làm việc cho đất nước của họ hay vì nhân danh đạo đức hảo huyền mà đành chịu hy sinh quyển lợi của dân tộc mình cho những quốc gia khác? Nếu là người Việt Nam chân chánh, thanh liêm, thật lòng yêu nước, khi được lãnh đạo quốc gia Việt Nam thì dĩ nhiên họ phải đặt quyền lợi của dân tộc Việt Nam, đất nước Việt Nam trên hết là điều dĩ nhiên.
Không làm việc cho dân tộc mình mà chỉ chăm lo phục vụ cho ngoại bang, chỉ có những kẻ vì quyền lợi cá nhân hoặc vì quyền lợi của phe nhóm bị, người đời phê phán là buôn dân bán nước, lịch sử kết tội là phản quốc, muôn đời không thể gội rữa được.
Trong vấn đề bang giao quốc tế, quốc gia nào cũng vậy, việc ai thì nấy lo, những người lãnh đạo chân chánh bao giờ cũng làm việc vì nhu cầu lợi ích của quốc gia họ, vấn đề ý thức hệ, nhân đạo với bên ngoài chỉ là số lẻ vì không ai chịu hy sinh quyền lợi của dân tộc mình cho dân tộc khác hưởng cả. Bởi vậy, trong vấn đề bang giao quốc tế, ai cũng thuộc nằm lòng câu nói mà có lẽ muôn đời bất hủ:” Không có tình bạn muôn đời và cũng không có kẻ thù muôn kiếp”. Quả vậy, một khi vấn đề quyền lợi với nhau xoay chiều thì tình bạn hay kẻ thù cũng đều phải bị biến đổi theo, ít hay nhiều tùy việc.
Trước năm 1975, vì quyền lợi của Mỹ, chủ trương ngăn chận sự phát triễn của Cộng sản Nga Tàu tràn xuống vùng Đông Nam Á, nên Mỹ dùng Việt Nam làm tiền đồn chống Cộng, kéo theo các quốc gia đồng minh như Úc, Tân Tây Lan, Đại Hàn, Thái Lan và Phi Luật Tân nhập cuộc, đưa quân vào Việt Nam để tiếp sức cho đất nước chúng ta chống lại sự bành trướng của Cộng sản Nga Tàu. Các quốc gia đồng minh nầy đều được hưởng lợi nhiều về kinh tế do Mỹ ban phát. Từ khi sau khi TT.Mỹ Richard Nixon sang thăm Bắc Kinh năm 1972, do chánh sách thay đổ trật tự toàn cầu hóa, trọng tâm quyền lợi của Mỹ không còn ở Đông Nam Á nữa, cho nên Mỹ bỏ rơi Việt Nam, các quốc gia đồng minh nói trên không còn được Mỹ ban phát quyền lợi về chiến tranh Việt Nam nữa, nên hầu hết cũng đều quay lưng với Việt Nam, lập bang giao cấp Đại sứ với Việt cộng ngay sau đó. Dễ thấy nhứt là:
a.- Đồng minh Đại Hàn: Sau khi ồ ạt rút quân, họ bỏ lại các doanh trại trên những chổ đóng quân phủ những lớp mìn dầy đặc trên những khu vực rộng lớn xung quanh mà không hề bàn giao bất cứ họa đồ nào có ghi những hệ thống của các ổ mìn trên những khu vực rộng lớn đó cho quân lực Việt Nam Cộng Hòa để chúng ta biết đường mà tháo gở. Hệ quả là sau đó một thời gian, nhiều thường dân và súc vật như trâu bò vào ăn cỏ bị tử vong vì sự quay lưng vô nhân đạo nầy của quân nhân Đại Hàn.
Trên các ngọn đồi, đĩnh núi trải dài từ Bình Định đến tận Phan Thiết là nơi trấn đống của sư đoàn Thanh Long Đại Hàn, nơi nào cũng đầy mìn, Tiểu đoàn Công binh Chiến Đấu của Việt Nam Cộng Hòa phải thành lập các nhóm chuyên môn để đi gở mìn tại những nơi đó. Phải biết rằng những nơi đó hiện đã bị bỏ hoang nên cỏ dại mọc cao và đầy, và sau nhiều cơn mưa, nước trên núi trút xuống, một số mìn bị trôi dạt đi nơi khác và các cọc chuẩn cũng không còn, cho nên chuyện tìm mìn để gở không phải là chuyện dễ dàng và rất khó để có thể tránh được những sơ xuất xãy ra và dĩ nhiên khi đã sơ xuất xãy ra trong bãi mìn thì không làm sao tránh được những thiệt hại về nhân mạng. Càng nghĩ lại càng cảm thấy rất buồn lòng về một đồng minh của mình.
Nhưng dầu sao đó cũng còn là chuyện nhỏ, điều đáng nói hơn là trên quốc lộ 7B, đoạn đường ngắn và an toàn khởi điểm từ nơi sông Ba đổi tên thành sông Đà Rằng dẫn đến Tuy Hòa, nơi do một đơn vị của sư đoàn Đại Hàn trấn giữ trước kia, các bãi mìn vẫn còn nguyên vẹn, đoàn quân triệt thoái của Quân Đoàn 2 không thể vượt qua được, cho nên Công binh Chiến Đấu đã phải mất nhiều ngày để bắt cầu nổi cho đoàn quân vượt sông để chuyễn sang hương lộ 436 nhỏ hẹp, không có mìn nhưng đầy dẫy những ổ phục kích. Những ổ phục
kính nầy tuy dữ dằn, nhưng đã bị quân ta nhổ không mấy khó khăn, điều đáng nói là trong mấy ngày đoàn quân dân triệt thoái chờ đợi Công binh bắt cầu để vượt sông thì mấy sư đoàn Việt cộng đuổi theo kịp đến nơi và chúng ra tay tàn sát quân và dân lành một cách vô cùng khủng khiếp. Đoàn quân chờ đợi vượt sông bị tan nát, bao nhiêu chục ngàn quân dân vô tội đã bỏ xác một cách oan uổng tại nơi đây, một phần lớn cũng vì sự tắc trách không thương tiếc của quân đội đồng minh Đại Hàn mà sanh ra thảm họa lớn, góp phần cho những hệ lụy kéo dài cho đến ngày 30/4/1975 chúng ta mất nước.
b.- Đồng minh Thái Lan: Đồng minh Thái Lan cũng chẳng có gì khá hơn, đã ngoãnh mặt, để cho bọn cướp biển tự do thao túng, cướp bốc, hãm hại tàn bạo những thuyền nhân Việt Nam trên đường vượt thoát khỏi bàn tay tàn bạo của bạo quyền Việt cộng. Những chuyến tàu vượt biên ra khơi vào hải phận quốc tế về đêm đều sẽ gặp ngay những tàu đánh cá Thái Lan đèn đuốt rực rỡ, dàn hàng trùng trùng ngoài khơi và chúng nhanh chóng trở thành những bọn cướp hung bạo, cướp của, giết người vô cùng tàn bạo, rất nhiều thuyền vượt biên từ năm 1979 cho đến nay vẫn còn bặt tâm, có nghĩa là những người đó không còn một ai sống sót vì sau khi bị cướp, chúng đâm cho chìm thuyền và giết tất cả những người trên đó.
Đó là những điển hình chứng minh cho câu nói: “Không có tình bạn muôn đời” trong sự bang giao quốc tế.
Bởi vậy, khó mà trách ai được khi họ quay lưng lại với mình khi mình trở thành đối tác không có lợi gì cho họ, điều đáng tiếc là những sự quay lưng nầy diễn ra một cách bình thuờng hay tàn nhẫn đến mức độ chua cay như Mỹ và Đại Hàn, Thái Lan đối với Việt Nam Cộng Hòa năm 1975 như đã dẫn chứng ở đoạn trên. Bởi vậy, trong sự bang giao quốc tế, điều quan trọng có thể nói là :”Hồn ai nấy giữ”, và tìm sự công bằng trong sự giao thương với nhau để các bên đều cùng được hưởng những quyền lợi sòng phẳng.
3.- Thấy dễ nhưng không phải dễ làm: Tuy nhiên, nói thì dễ, nhưng trên thực tế không phải dễ làm, nhứt là đối với những quốc gia nhỏ bé, nghèo nàn và lạc hậu, họ luôn luôn bị những nước lớn, giàu mạnh hơn luôn tìm cách chèn ép, uy hiếp để chiếm cứ lãnh thổ, cướp đoạt tài nguyên mang lợi ích tối đa về cho họ với châm ngôn: “Bây chết mặc bây, Tiền thầy bỏ túi” trường hợp như Trung Cộng hiện nay đối với những quốc gia toàn vùng Á Châu, Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương, Phi Châu và Nam Mỹ…trong khi đó thì Luật Quốc Tế không có cơ quan nào chế tài họ được, ngoại trừ Liên Hiệp Quốc, nhưng tổ chức nầy thì bất lực, Toà Án Trọng Tài Quốc Tế La Hay (The Hague-Hòa Lan) xữ vụ Tổng thống Benigno Aquino Phi Luật Tân kiện Trung Cộng và Phi Luật Tân thắng kiện, nhưng Trung Cộng chẳng những không thi hành mà còn tiếp tục xây dựng những cơ sở quân sự trên những đảo nhân tạo mà họ cưỡng chiếm, ngang nhiên tự vạch đường lưỡi bò chin đoạn để chiếm đoạt hơn 90% trên biển Đông, từ mấy năm nay, ai làm gì được họ? trong khi những quốc gia nghèo nàn, lạc hậu bị áp bức chỉ còn biết xuôi tay và nhu nhược giống như cá nằm trên thớt, nhắm mắt chờ nhận những lưỡi dao oan nghiệt, rõ ràng như những quốc gia hiện đang vướng mắc vào những bẫy nợ được Trung Cộng giăng ra, đành chịu mất lãnh thổ vì không cách nào trả nợ nổi.
4.- Biện pháp chế tài: Muốn chế tài những nước lớn, giàu mạnh mà không tuân thủ luật quốc tế, chỉ còn cách là dùng đến những phương tiện nhẹ như là cấm vận, còn nặng là giải pháp chiến tranh thì mới có thể giải quyết được vấn đề. Điều nầy chỉ có Mỹ là quốc gia hùng mạnh hơn Trung Cộng nhiều mới có thể làm được. Giả sử như vào lúc nầy mà sức mạnh quân sự của Trung Cộng gần bằng Mỹ, hoặc là Mỹ không có quyền lợi gì ở đây thì chắc chắn là Mỹ sẽ không dạy gì xen vào chuyện của nước khác.
May cho những nước nhược tiểu là gặp phải họ Tập là tay hiếu chiến, ngang ngược, mặc dù sức chưa đủ so với Mỹ nhưng vì háo thắng, không tự lượng sức mình, không có viễn kiến mà muốn nhanh chóng “Thâu tóm thiên hạ” nên bị Mỹ làm cho chồn chân. Điều may mắn nữa là gặp ông Tổng thống Mỹ Donald Trump, là một dị nhân, dám nói, dám làm vì quyền lợi cho nước Mỹ khiến cho họ Tập phải nhiều phen điêu đứng.
5.- Bản lãnh của một dị nhân:Một số người chỉ trích Tt.Trump ăn nói khi vầy khi khác, không có tư cách và không xứng đáng là người lãnh đạo quốc gia, thực tế có lẽ không phải vậy mà đó mới chính là những hỏa mù rồi bất ngờ tung những ngọn “đòn sát thủ” khiến đối phương không kịp đón đở, hoặc không đón đở nổi.
Thế giới hiện có ba dị nhân tiêu biểu là Kim Chánh Ân, Duterte và Donald Trump. Trước đây, họ Kim ra oai liên tiếp phóng thử nghiệm hỏa tiễn hạt nhân, luôn miệng hăm dọa san bằng nước Mỹ, nhấn chìm Nhựt Bổn, Duterte nhục mạ cựu TT Mỹ Obama luôn cả Đức Giáo Hoàng, xua đuổi đồng minh Mỹ quay lưng sang chơi với Trung Cộng. Tất cả những quốc gia liên hệ chỉ có những phản ứng yếu ớt, chiếu lệ vì lịch sự nhưng thật ra là sợ hãi.
Nhưng từ khi ông Donald Trump lên làm Tổng thống Mỹ thì không có dị nhân nào còn dám lớn tiếng nữa vì bị áp đảo, trong khi đó thì Nhựt, Úc, Tân Tây Lan, Ấn Độ, Anh, Pháp…chụp lấy cơ hội nhảy vào hợp tác với Mỹ, đồng thời lưỡng viện quốc hội Mỹ đồng lòng với Tổng thống Trump xem Trung Cộng là kẻ thù số một của Mỹ, cần phải thanh toán. Điều nầy chỉ có dị nhân Donald Trump mới làm được thì sao lại có một số người cho ông là bất xứng? Thiên kiến hay cảm nghĩ sai lầm về một dị nhân thiên tài? Người viết không có lý do gì để ca ngợi cá nhơn ông Trump vì ông chỉ làm việc cho nước Mỹ, nhưng chánh sách chống Trung Cộng của ông thật có lợi cho công cuộc đấu tranh của dân tộc Việt Nam nhằm để lật đổ chế độ độc tài toàn
trị và bán nước của bạo quyền Việt cộng. Đó là điều mà chúng ta cần phải cổ võ thay vì hùa theo những nhóm truyền thông vô bổ và những nhóm nhu cầu lợi ích riêng mà bất kễ việc đúng sai.
6.- Vài điều suy nghĩ: Mình là nước nhược tiểu, tự mình đã hơn bốn chục năm qua luôn kiên trì tranh đấu chống Cộng mà không đạt được những thành quả mong muốn, chỉ vì không có quốc gia Tây phương nào đủ sức để trợ giúp, chỉ có Mỹ đủ sức nhưng vì quyền lợi giao thương với Trung Cộng quá lớn nên liên tiếp mấy đời Tổng thống Mỹ đều nhận định sai lầm về sự trổi dậy của con cọp Trung Cộng nên nhắm mắt để cho Trung Cộng thao túng và lợi dụng để trở nên giàu mạnh từ lúc nghèo nàn, không có gì trong tay cho đến nay đã trở thành chủ nợ khắp nơi trên thế giới kễ cả Mỹ, rồi bất kễ luật pháp quốc tế, ngang nhiên đi xâm chiếm biển đảo Hoàng sa, Trường sa của Việt Nam và tự mình vẽ đường lưỡi bò chín đoạn tự nhận trên 90% biển Đông là của họ mà không có quốc gia nào trong vùng có thể tự dám lên tiếng đối kháng ngoại trừ cựu Tt.Phi Luật Tân Benigno Aquino, một vị Tổng thống anh hùng, sau khi hoàn toàn thất bại trong mọi nổ lực ngoại giao, nên cuối cùng đã phải làm đơn kiện Trung Cộng ra Tòa Án Trọng Tài Quốc Tế, nhưng rũi một điều là ông nầy đã mãn nhiệm kỳ trước khi có những phán quyết của Tòa Trọng Tài Quốc Tế, nếu không thì tình thế có thể có nhiều biến đổi ở biển Đông, không giống như tình hình thao túng trắng trợn của Trung Cộng trong mấy năm qua, cho đến khi ông Donald Trump, một dị nhân đầy bản lãnh của Mỹ lên làm Tổng thống, đã thấy rõ âm mưu của con cọp Trung Cộng, mấy thập niên qua đã làm thiệt hại cho cho nền kinh tế Mỹ quá nhiều, vì vậy, ông và tập đoàn lãnh đạo quốc gia Mỹ quyết tâm xóa sổ tất cả những sai lầm của những vị tiền nhiệm trước để làm lại tất cả hầu cứu nước Mỹ được hùng mạnh trở lại, cho nên chánh sách của ông xem như hoàn toàn trái ngược với chánh sách ươn hèn của những vị tiền nhiệm, điều quan trọng là ông xem Trung Cộng không là bạn mà là kẻ thù mà Mỹ cần phải tiêu diệt, chẳng những thế mà ông còn lên án những quốc gia vẫn còn theo chế độ Cộng sản, khiến cho dân tộc của họ trở thành nghèo nàn và lạc hậu, mất tự do, không có nhân quyền tối thiểu của con người, không xứng đáng đề cho họ tồn tại. Đó là thông điệp rõ ràng cho những ai còn mơ tưởng đến thiên đàng của Chủ Nghĩa Xã Hội.
Điều nầy đã biểu lộ ngay lập tức ở quốc gia Venezuella hiện nay, đã chứng tỏ sự quyết tâm của Hoa Kỳ đối với những quốc gia còn theo đuổi chế độ Cộng sản tàn bạo nầy. Riêng Việt Nam, Mỹ chưa đụng đến vì tối thiểu có hai lý do: Mỹ đang rất cần Việt Nam để làm vị trí chiến lược quan trọng để chống Trung Cộng và người Việt Nam bản chất rất anh hùng, đã nhiều phen oanh liệt đánh bại quân Tàu để giải phóng quê hương, ông đã gởi riêng cho bạo quyền Việt Nam một thông điệp khi ca tụng Hai Bà Trưng nhân dịp ông ghé thăm Việt Nam vào năm 2017, sự biểu lộ chắc hẳn không ngoài hàm ý đó.
7.- Những điều trăn trở: Bài diễn văn của Tổng thống Donald Trump đọc trước Lưỡng Viện Quốc Hội Hoa Kỳ ngày 05/02/2019 đã xác định rõ ràng về chánh sách của ông làm cho nước Mỹ, nhứt là chánh sách chế tài, trừng phạt Trung Cộng có ảnh hưởng và lợi thế cho công cuộc tranh đấu của dân tộc Việt Nam mà tập thể Người Việt Hải Ngoại chúng ta cần phải nương theo để tranh đấu cho dân tộc mình vừa để tránh được hiễm họa xâm lăng của bọn người Đại Hán vừa xóa sổ luôn chế độ Cộng sản Việt Nam để mang thanh bình, tự do và ấm no cho dân tộc. Điều nầy thật đáng cho chúng ta suy nghĩ và sáng suốt điều chĩnh đường lối đấu tranh của mình sao cho thích hợp và dễ thành công.
Chúng ta tranh đấu cho đất nước chúng ta và ông Trump tranh đấu cho đất nước Mỹ, cho nên điều quan trọng là chúng ta luôn cảnh giác theo mọi biến chuyễn về phía Mỹ để kịp thời xoay chuyễn công cuộc tranh đấu của chúng ta sao cho thích hợp chớ không phải chỉ biết nhắm mắt, a dua và bám đuôi. Trong binh pháp, người xưa có nhắc nhở một câu để đời cho hậu thế về điều nầy mà chúng ta luôn luôn cần phải khắc cốt ghi tâm, câu nói:”Thế Chiến Quốc, Thế Xuân Thu, Gặp thời thế, thế thời phải thế”.
Riêng thời điểm nầy của Tổng thống Mỹ Donald Trump là thời điểm thích hợp nhứt mà chúng ta hằng mong đợi. Chúng ta đừng để cho lỡ dịp vì dịp may khó trở lại lần thứ hai.
Thanh Thủy (15/02/2019)
Vui cười
Một chàng thanh niên rất trẻ rất đẹp trai cưới một bà rất giầu và rất… già..
Sau tiệc cưới, chú rể trẻ và bà dâu già đi hưởng tuần trăng mật.
Đêm đầu tiên, cô dâu và chú rể động phòng.
Ai cũng chợt lo cho bà già, e rằng chàng rể đang tuổi sung măn sẽ khiến cụ bà không chết thì cũng…lết.
Sáng hôm sau, mọi người nhận được hung tin: Chú rể trẻ lăn đùng ra chết lúc trời vừa hừng sáng.
Mọi người ai cũng quá đổi ngạc nhiên, không ai chịu tin cho đến lúc tận mắt nhìn chàng trai nằm thẳng cẳng!
Gia đình chàng trai quyết định nhờ một hội đồng bác sĩ rất giỏi khám nghiệm, tìm lý do.
Chỉ sau 1 giờ làm việc, hội đồng bác sĩ đồng thanh kết luận:
“Chết do ngộ độc sau khi uống sữa quá hạn!”
Bắc Hàn theo mô hình kinh tế Việt Nam – Nguyễn Bá Lộc
Như chúng ta biết cuộc hợp thượng đỉnh có tánh cách lịch sử và đặc biệt giữa TT Trump của Hoa kỳ (US) và CT Kim của Bắc Hàn (BH) sẽ xảy ra 2 ngày 27-28 tháng hai nầy tại Việt Nam. Đây là họp thượng đỉnh lần thứ hai giữa hai nhà lảnh đạo. Mục tiêu chánh là giải bỏ chương trình nguyên tử của BH, và đổi lại US hứa sẽ bỏ trừng phạt kinh tế và giúp cho BH phục hồi và phát triển kinh tế. Với tình hình kinh tế quá bi đát và tình hình thế giới có nhiều phức tạp, BH có thể phải thay đổi sách lược và tìm ra sinh lộ.
Trong mấy ngày qua, có tin tức là CT Kim Jong Un có suy nghĩ muốn theo mô hình kinh tế VN. Về phía Hoa kỳ , ông ngoại trưởng Pompeo cũng ủng hộ BH theo kiểu VN. Một mô thức kinh tế dung hợp, “kinh tế thị trường định hướng XHCN”, nửa kinh tế tự do nửa XHCN.Mục đích chánh yếu là giải quyết sự sụp đổ kinh tế mà chế độ vẫn tồn tại. Đó là con đường CSVN đã đi và có kết quả trên một số mặt.
1.Tại sao Bắc Hàn chọn mô hình kinh tế VN
Các lý do BH chọn mô hình kinh tế VN có thể tóm tắt như sau:
*Ý muốn và sự cần thiết phải thay đổi của CT Kim.
Trong quá khứ Chủ tịch BH cha Kim Jong Un cũng có vài thay đổi, bớt cứng rắng. CT Kim có chút cầu tiến để giải thoát bế tắc. Nhứt là trong tình hình và thế trận quốc tế hiện nay với nhiều biến chuyển. TQ và Nga không còn đủ mạnh để cứu BH.
Trừng phạt kinh tế của US và LHQ chẳng những làm cho kinh tế BH gần như phá sản , mà còn tác dụng tai hại cho các nước hậu thuẩn BH.
Về tư duy đảng CS BH phải suy nghĩ cứ tiếp tục theo con đường XHCN để tiến lên CSCN là ảo tưởng. Nền kinh tế XHCN thuần túy, hoàn toàn phá sản. Các nước CS đã sụp đỗ hoặc đã biến thể. Chánh sách cô lập và chỉ trông cậy vài nước là đi trên con đường cụt.
Thực tế kinh tế BH hiện nay bị sụp đổ, ngay so sánh với chính mình của 20 năm trước, và so sánh với các nước Á châu thì BH thua xa. Trong lúc BH cũng có tiềm năng kinh tế khá.
Về mặt quốc tế, thì US, Nhụt , Nam Hàn .. hứa sẽ giúp đở kinh tế BH nếu thỏa thuận giải quyết được vấn đề nguyên tử và an ninh vùng.
Hoàn cảnh của BH ngày nay gần giống như VN hồi 1986. Sau 30 năm, VN thoát qua sự sụp đổ kinh tế XHCN và có một số kết quả. VN mở rộng hội nhập toàn cầu , có nhiều quốc gia đối tác, có nhiều cơ quan quốc tế giúp để. Đó là thực tế CT Kim thấy được.
2.Tóm lược mô hình kinh tế Việt Nam
Theo như trên thì rất có thể BH chọn mô hình đại loại như VN. Dù có nhiều điểm giống nhau giữa hai nước, nhưng cũng có một số khác biệt khách quan cũng như chủ quan.
Chúng tôi tóm tắt một số điểm chánh của mô hình VN, kết quả tốt cũng như các trở lực rất nghiêm trọng của chánh sách kinh tế nầy.
* Chủ trương và đường lối đổi mới
Các điểm chánh của “đổi mới”:
Chấp nhận kinh tế thị trường, hay tự do hóa các lảnh vực Thương mại, công nghiệp, Nông nghiệp, Ngân hàng, xuất nhập cảng thì có số hạn chế. Nguyên tắc chánh yếu củ kinh tế thị trường là do cung cầu quyết định. Chánh quyền can thiệp rất hạn chế. Nhưng mô thức VN chỉ có 50% theo thị trường. Còn 50% quan trọng, cớt lõi, vẫn do đảng và Chánh quyền quyết định.
Chấp nhận cơ cấu kinh tế với nhiều thành phần. Cho tư doanh được phép hoạt động. Nhưng ở VN tới nay quốc doanh được xào nấu và có vai trò chủ đạo.
Khuyến khích đầu tư ngoại quốc (FDI). VN có có luật FDI khá rộng rải, dần dần cải thiện môi trường đầu tư, để thu hút doanh nhân ngoại quốc từ khắp nơi vào. Đây là điểm chánh yếu.
Tối đa hóa xuất cảng. VN mở rộng hội nhập vào thị trường quốc tế. Mua bán với trên 100 nước và ký 17 HĐ Mậu dịch tự do với các nước có nền kinh tế quan trọng.
Khai thác tiềm năng kinh tế của mình, là nhân công rẽ , dầu mõ, khoáng sản , địa lý kinh tế , Sự cần cù của người dân.
*Một số kết quả của đổi mới kinh tế.
Tổng quát , theo con số chánh quyền và chỉ nhìn bề ngoài thi kinh tế VN đạt được khá:
Tỷ suất phát triển cao trong vòng 10 năm, 7.5- 8%. Tuy nhiên kinh tế bị suy giảm còn 5.2- 5.4% trong khoảng thời gian 2009-2014. Hai năm nay lên lại 6.8-7%.
Lợi tức đầu người tăng từ $200 (1986) lên $2000 (2018)
Lúa gạo gia tăng mạnh từ lúc thiếu ăn của những năm 1976-1986 vọt lên xuất cảng gạo 4-5 triệu tấn/năm, đứng hạng ba thế giới. FDI gia tăng trung bình từ 10-12% /năm. 65% trị giá hàng xuất cảng là từ các công ty FDI. Có rất nhiều nước đến đầu tư ở VN.
Xuất cảng tăng nhanh và liên tục tư khi mở rộng ra thế giới. Trung bình tăng 8-12%/năm. Cá hàng hóa chủ lực là linh kiện điện tử, quần áo may mặc, thủy sản, dầu lửa nông sản. Thị trường lớn nhứt của VN là Hoa kỳ, Âu châu , Nhựt và TQ.
Kinh tế đối ngoại đóng vai trò chủ yếu cho nền kinh tế VN. Vì kinh tế đối nội quá yếu.
Hạ tầng cơ sở được xây dựng nhiều nhờ chánh yếu là viện trợ từ ngoại quốc như Nhựt, Nam Hàn, Trung quốc, Úc, Pháp , Đức..Với tiền nợ ngoại quốc trên 50 tỷ mk. Chưa kể công nợ quá lớn vay từ trong nước.
Mãi lực dân chúng gia tăng, đặc biệt tầng lớp trung lưu thấp.
*Trở lực và tai họa kinh tế nghiêm trọng tồn tại
Dù chánh sách, pháp chế và quản lý nền kinh tế VN có cải sửa dần theo nhu cầu và theo yêu cầu của cơ quan quốc tế , của các quốc gia quan trọng có bang giao với VN, nhưng cho tới nay , sau hơn 30 năm thay đổi, nền kinh tế vẫn còn nhiều bế tắc , nhiều cản trở căn bản rất nghiêm trọng, khó tiến tới sự bền vững. Đó là:
VN không theo đúng nền kinh tế thị trường thực sự. Nghĩa là không có dân chủ tự do trong các khâu quan trọng : tài chánh, viện trợ, dự án lớn. Không có minh bạch, không công bằng. Không tuân thủ nhiều luật lệ quốc tế như luật Lao động, sự độc lập Tòa án..
Bộ máy công quyền cồng kềnh, không có hiệu năng tối thiểu. Rất phí phạm, đầy dẫy sự lạm quyền và lợi dụng chức vụ.
Đảng và bộ máy công quyền là cản trở lớn cho sự phát triển. Về vận hành kinh tế thì quá độc tài , quá độc đoán. Chánh quyền tự biên trong việc xử dụng và chiếm đoạt tài nguyên, cấu kết với nhóm lợi ích, là giai tầng tư bản đỏ rất giàu và rất quyền lực, gây thiệt hại to lớn cho nền kinh tế, bất công và đau khỗ cho người dân cô thế.
Thảm nhũng tại VN là một trong 10 quốc gia có tham nhũng nhứt thế giới. Sự chiếm đoạt của dân của nước gần như có tính cách công khai, có hệ thống, cách cưởng bách ở mức độ kinh khủng và không có cách nào giải quyết được.
Trở ngại quan trọng khác là kinh tế VN lệ thuộc quá nhiều vào TQ trên nhiều phương diện gây thiệt hại rất lớn cho dất nước.
Cho nên dù có ít tiến bộ, nhưng kinh tế VN/XHCN không thể đạt tới được sự bền vững công bầng như những quốc gia đã tiến bộ bình thường và vững chắc.
3.Tóm tắt kinh tế Bắc Hàn hiện nay
Để xem BH có thể áp dụng mô hình kinh tế VN như thế nào trước hết cần thấy kinh tế BH hiện nay ra sao, tan nát tới mức nào, hy vọng sẽ có những tiến bộ trên lảnh vực nào, động lực và yếu tố thúc đẩy nào từ trong và ngoài.
*Tổng quan kinh tế
Trong gần 70 năm chế độ CS, BH theo đuổi mô hính kinh tế XHCN. Từ khi lên cầm quyền (2012) CT Kim Jong Un có vài cải cách nhỏ về kinh tế. Nhưng không thành công.Vì không có sự thay đổi lớn và thích hợp.
Kế hoạch 7 năm đầu tiên (1960-1967) với nhiều tham vọng đặt nặng kỹ nghệ hóa, bị thất bại. Đến kế hoạch 7 năm thứ ba (1987-1993) kinh tế có khá chút nhờ chủ trương mở rộng kinh tế đối ngoại. Nhưng cơ bản vẫn là nền kinh tế chỉ huy. Tình hình rong nước BH làm nhiều doanh nhân ngoại quốc không dám vào, trừ TQ. TQ là nước bảo trở và hậu thuẩn chánh và tuyệt đối cho BH.
Vài chỉ số kinh tế Năm 2016 (theo Wikipedia):
GDP $28.5 tỷ mỹ kim. Lợi tức đầu người khoảng 1,300 mỹ kim. Mười năm trước BH khoảng 2,000 mỹ kim.
Tỷ suất phát triển: -3.5%. (2016). Tức là gần như sụp dưới hố.
Thất nghiệp : 25.6% của lực lượng lao động, 14 triệu người.
Xuất cảng : 2,985 tỷ. Hàng xuất cảng chánh yếu là : khoáng sản, tơ sợi, hàng chế biến, thủy sản. Nước nhập cảng chánh là TQ với 87%.
Nhập cảng:Tổng số $3,752 tỷ (2016), nhập siêu $767 tỷ.
Nhập hàng từ TQ tới 90%tổng số. Còn lại rất ít từ Ấn độ, Thái lan.
Viện trợ ngoại quốc chánh yếu cũng từ TQ. Nga chỉ giúp về quốc phòng. Tới 2012 nợ ngoại quốc của BH là 20 tỷ mk.
*Các khó khăn lớn của kinh tế BH
Kinh tế bị kiệt quệ vì hai nguyên nhân chánh là mô hình kinh tế XHCN thuần túy và sự trừng phạt kinh tế vì sự ngoan cố và chương trình nguyên tử khá nguy hiểm của BH đối với khu vực mà có thể thế giới.
Theo nhà nghiên cứu TS Mitsuhiro Mimura thuộc viện nghiên cứu Japan, Economic Research Institute for Northeast Asia thì BH là một nước nghèo nhứt thế giới”.
Trừng phạt và bao vây kinh tế BH là mạnh nhứt lớn nhứt trong lịch sử. Và hậu quả rất nghiêm trọng:
Dân bị đói. Theo ước tính của cơ quan nghiên cứu National Interest thì có tới 40% dân thiếu ăn.
Kinh tế phát triển với mức âm. TQ cũng bị chế tài vì không tuân lịnh cấm vận BH.
*Mục tiêu và con đường của đổi mới kinh tế BH
Trước tình trạng quá đen tối của BH, CT Kim phải tìm một giải quyết. Nếu không sẽ sụp đỗ. Trong tình hình thế giới hiện nay, khi CSCN không còn giá trị nào. Các nước CS còn lại đã tự diễn biến , tự thay đổi để tồn tại , thì không lý do nào cứ khư khư ôm XHCN và chống d961 quốc tư bản , khi nửa phần dân chúng của một Hàn quốc càng ngày càng kiệt huệ.
Con đường đi tới là: Phải có kế hoạch kinh tế mới. Phải giải tỏa cấm vận. Phải Hội nhập toàn cầu cách mở rộng.
Mục tiêu cụ thể là: Chấm dứt nạn đói. Mời gọi đầu tư ngoại quốc từ nhiều quốc gia, chớ không phải chi có TQ. Giải quyết thất nghiệp. Gia tăng xuất cảng. Cầu viện từ Hoa kỳ , Nhựt, Nam Hàn không khó khăn nếu cam kết và chứng tỏ thực sự từ bỏ vũ khí nguyên tử.Nếu US và Nhựt bật đèn xanh thì Ngân hàng thế giới , Ngân hàng Phát triển Á châu đi theo cấp nhiều viện trợ.Về phương diện tinh thần , BH phải thay đổi suy nghĩ. Đó là nỗi sợ có ngày đất nước được thống nhứt với chiến thắng của Nam Hàn. Sợ US và Nhựt bổn tung ra nhiều áp lực BH không có cách nào đở nỗi dù có đàn anh TQ hậu thuẩn toàn diện.
Khó khăn và thuận lợi cho BH
BH hiện nay có những khó khăn lớn gần gống VN hồi 1986. Sau 10 năm áp dụng kinh tế XHCN, kinh tế toàn nước sụp đổ gần toàn diện. Dân đói ngay tại đất nước trước đó có dư thừa gạo xuất cảng. Công nghiệp tan nát. Hạ tầng cơ sở tiêu tan không có tiền xây lại. Thất nghiệp trên 20%. Bị trừng phạt kinh tế và quốc tế tẩy chay. Lúc đó VNCS đưa khẩu hiệu “ đổi mới hay là chết.”. Dĩ nhiên con đường đi không dễ dàng.
Sự bắt đầu của đổi mới của VN một phần nhờ TQ có những bước đi trước đó 10 năm. Và sự gian manh của CSVN là lợi dụng mọi cơ hội và chánh sách để cũng cố đảng và và làm giàu cho đảng viên.
BH cũng có một số thuận lợi như : Có kinh nghiêm của TQ và VN. Người dân ĐH có khả năng có trình dộ, cần cù, cương quyết. BH có vị trí địa lý kinh tế tốt. Chánh trị trong nước ổn định (thu hút FDI, nhưng không có tự do nhân quyền bị kẹt về Mậu dịch tự do).Nếu BH xuống giọng và bỏ nguyên tử sẽ được quốc tế giúp đở.
Đó là những bài học những kinh nghiệm từ VN.
Về chiến lược thì CT Kim từ 2013 nhằm hai mục tiêu lớn, hay ưu tiên, mà ông tuyên bố lúc đó là xây dựng “quân sự quốc phòng” và sau đó là xây dựng “nền kinh tế XHCN” (theo tập san The National Interest). Quân sự với thành công về nguyên tử, nay tới xây dựng kinh tế.
4. Một vài suy nghĩ về trường hợp Bắc Hàn
Hiện nay BH có ba vấn đề chánh phải đối diện là: Bảo vệ sự tồn tại của chế độ CS như một một quốc gia độc tài tuyệt đối, vừa CS vừa Quân chủ cổ điển. Phát triển kinh tế theo kiểu nửa tự do nửa XHCN. Giải tỏa áp lực và phong tỏa kinh tế từ Hoa kỳ và Quốc tế. Tạm thời hòa hoản để có an ninh trong vùng. Con đường nào cũng đầy khó khăn và phải trả giá rất cao. Có lẽ không có con đường khác.
Duy trì chế độ XHCN/CSCN. CT Kim và đảng ác ôn của ông làm được việc nầy. Nhưng ý muốn giữ vĩnh viễn chưa chắc. Vì thế giới ngày nay rất khác 70 năm trước, nhứt là sau khi Sô viết và đông Âu sụp đổ. Và tinh thần Dân tộc dù bị chia lìa gần 70 năm. Nhu cầu thống nhứt vẫn còn đó.
Về mặt kinh tế. CT Kim phải có kế hoạch thay đổi mạnh. Đó là nhu cầu lớn thứ hai sau mục tiêu gia tăng sức mạnh quân sự đáng kể trên địa bàn thế giới. Như CT Kim Jong Un tuyên bố trước quốc dân hồi đầu năm 2013.
Trên bình diện quốc tế BH phải có sách lược mới. Phải đa phương hóa về ngoại giao và về kinh tế quốc tế.
Về tư duy, CT Kim và những người cầm quyền BH phải hiểu rõ về sức mạnh của mình, của người đở đầu là TQ , về các đối thủ của mình là US, Nhựt và Nam Hàn.
Về mô hình kinh tế VN. Sự tiến bộ đó chi thích hơp với nước CS còn sót lại như BH (đáng lẽ BH phải suy nghĩ và quyết định cách đây vài thập niên trước). Và những kết quả kinh tế VN đạt được chỉ có lợi cho đảng và đảng viên, thân hữu cán bộ. Tuyệt đại đa số người dân lành và đất nước bị tập đoàn CS cướp đoạt, theo luật pháp XHCN và đúng qui trình của chế độ. Điều nầy người dân BH sẽ trải qua và không có quyền có ý kiến nếu BH áp dụng mô hình nầy.
Chế độ XHCN ở đâu và thời nào cũng vậy.
Cali, 22 tháng 2 – 2019
Vui cười
Một bà sau khi cho tiền ông hành khất ở cuối nhà thờ liền hỏi,
“Sao ông ra nông nỗi này, vợ con ông đâu?”
“Thưa bà, vợ tôi chẳng may qua đời rồi ạ. Nếu vợ tôi còn thì tôi đâu đến nông nỗi này ạ”
Bà quay sang ông chồng,
“Thấy chưa, đàn bà là đảm đang lắm. Không có đàn bà là chỉ có nước đi ăn mày. Nhưng khi còn sống bà ấy làm gì hả ông?”
“Thưa nó đi ăn mày thay cho tôi ạ.”
Hi hữu: Trước Hội Nghị Thượng Đỉnh Mỹ & Bắc Hàn kỳ 2 tại VN – Trần Nguyên / Người Xứ Bưởi
I/ Một hành trình dài & vất vã cho phái đoàn Bắc Hàn?
Có lẽ hi hữu nhứt cho một Hội Nghị Thượng Đỉnh Quốc Tế là – trong thời đại hàng không bay chớp nhoáng – có một phái đoàn dùng phương tiện giao thông “thô sơ” bằng xe lửa để đi cả 4500 cây số kéo dài gần 3 ngày trời (thay vì chỉ cần bay khoảng 10 tiếng đồng hồ)
Bức hình dưới đây được chính thức do Thông Tấn Xã Bắc Hàn KCNA phổ biến đã cho thấy quả thực CT Kim Chánh Ân đã lên đường sang Việt Nam vào ngày thứ Bảy để dự cuộc họp thượng đỉnh lần thứ hai với TT Trump vào thứ tư tuần sau.
CT Kim Chánh Ân đã rời thủ đô Bình Nhưỡng vào khoảng 5 giờ chiều (0800 GMT) trong một đoàn tàu bọc thép để vượt 4500 cây số bằng xe lửa đi xuyên qua Trung Cộng đến Việt Nam.
Trên chuyến xe lửa bọc sắt này còn có nhiều thành viên của chính trị bộ và trung ương đảng tháp tùng theo
Đoàn tàu bọc sắt của Bắc Hàn dự trù sẽ dừng ở ga Đồng Đăng sát biên giới Việt Hoa, nơi phái đoàn Bắc Hàn sẽ đi 170 km về Hà Nội bằng xe hơi. Được biết tàu bọc sắt của Bắc Hàn có chở theo ít nhứt 2 xe hơi Mercedes loại đặc biệt chống đạn để chở lãnh tụ Bắc Hàn.
II/ Tại sao phái đoàn Bắc Hàn lại phải đi xe lửa cả gần 3 ngày trời ?
Sự kiện một lãnh tụ quốc gia trong thời đại hàng không bay chớp nhoáng mà vẫn phải dùng xe lửa đi cả 4500 cây số kéo dài gần 3 ngày trời (thay vì chỉ cần bay khoảng 10 tiếng đồng hồ) quả thực là chuyện hi hữu và một chút … buồn cười !
Rất có thể máy bay dành cho chánh quyền Bắc Hàn loại Iljuschin cũ kỷ (do Nga sản xuất) còn mệnh danh là “Air Force Un” đã bị trục trặc không thể bay xa với khoảng cách 4500 cây số. Cũng chính vì lý do này mà trong cuộc Hội Nghị Thượng Đỉnh lần thứ nhứt tại Singapore vào năm ngoái, phái đoàn Bắc Hàn phải đi máy bay Boeing 747 của Air China.
Vì vậy chúng ta không hề ngạc nhiên thấy phía Mỹ muốn họp tại Đà Nẳng để tiện bảo vệ an ninh cho TT Trump từ lực lượng Đệ Thất Hạm Đội và cuối cùng đành phải chiều lòng phía Bắc Hàn vì CT Kim Chánh Ân dùng xe lửa vào Hà Nội dễ dàng hơn.
III/ Tại sao Bắc Hàn lại muốn có Hội Nghị Thượng Đỉnh kỳ 2 ?
Nhìn lại từ cuộc Hội Nghị Thượng Đỉnh lần thứ nhứt tại Singapore cho tới nay cho thấy Bắc Hàn liên tiếp phải nhượng bộ rất nhiều điểm. Quan trọng nhứt trong đó là hoàn toàn ngưng thử hỏa tiền và thử bom nguyên tử, để mong mõi Hoa Kỳ bằng lòng “bật đèn xanh” cho Liên Hiệp Quốc bải bỏ cấm vận (xem Nguồn 1 phía dưới).
Nhưng lần này chính phủ Mỹ dưới quyền TT Trump hành động cứng rắn khác hẳn thời kỳ các Tổng Thống tiền nhiệm Clinton, Bush và Obama không để bị lường gạt qua thủ đoạn “mua chuộc nhỏ nhặt” và “hứa mà không làm” của Bắc Hàn. Cho nên biện pháp cấm vận vẫn duy trì và nhứt là lãnh vực về xăng nhớt đã khiến Bắc Hàn “dở sống
dở chết” đến nổi cuối cùng phải mong có Hội Nghị Thượng Đỉnh kỳ 2, mà TT Trump đã nhiều lần biểu lộ cho thấy phía Mỹ không cần phải vội vã.
Trong khi đó vừa qua Liên Hiệp Quốc công bố bức thư của đại diện Bắc Hàn cho biết hiện nay tại Bắc Hàn đang xảy ra nạn đói kém thiếu đến 1,4 tấn thực phẩm cho 25 triệu dân. Vì vậy cho nên chánh phủ Bắc Hàn phải ra lịnh tiết kiệm phân nửa khẩu phần ăn cho mổi đầu người (xem Nguồn 2).
Bên cạnh thiên tai, thì một trong nguyên nhân chính dẫn đến nạn đói là biện pháp cấm vận của Hoa Kỳ và Liên Hiệp Quốc. Chính vì vậy Bắc Hàn muốn có Hội Nghị Thượng Đỉnh lần thứ 2 để giải quyết đòn cấm vận quá hiệu quả trong thời gian gần một năm qua.
IV/ Tại sao Mỹ không cần vội vã có Hội Nghị Thượng Đỉnh kỳ 2 ?
Thái độ TT Trump cho thấy Mỹ không cần nôn nóng trước đề nghị muốn họp liền của Bắc Hàn. Lúc thì nói nào chờ xong bầu cử giữa kỳ vào tháng 11, sau đó nại cớ chờ xong vụ họp thượng đỉnh G20 với Tập Cận Bình vào tháng 12, rồi cuối cùng chờ giải quyết xong vụ shutdown và thông qua ngân sách 2019 kéo dài đến đầu tháng 2 mới quyết định họp Hội Nghị Thượng Đỉnh kỳ 2 vào cuối tháng 2 / 2019.
Lý do không cần phải vội vã là vì Mỹ đã thắng trong Hội Nghị Thượng Đỉnh lần thứ nhứt tại Singapor. Họ đã đạt được 3 điều rất quan trọng:
1) Bắc Hàn không dám thử hỏa tiền và thử bom nguyên tử nữa. Mà không thử hỏa tiển nhiều lần nữa thì loại tầm xa liên lục địa bắn tới Mỹ khó chính xác và không mang đầu đạn nguyên tử gây nguy hiểm thực sự cho Mỹ. Nếu như vậy thì Bắc Hàn không thể dám gây chiến trước bắn hỏa tiển qua Mỹ, họ vì sợ không trúng thì bị trả đủa có hậu quả Bắc Hàn tan tành trước hỏa tiển mang đầu đạn nguyên tử của Mỹ.
2) Đằng khác biện pháp cấm vận bao gồm cả xăng nhớt kéo dài càng lâu thì Bắc Hàn càng chết. Bức thư Bắc Hàn gửi cho Liên Hiệp Quốc báo động nạn đói cho thấy mưu kế “độc” của Mỹ.
3) Ngoài ra Mỹ chưa cần gấp gáp giải quyết rốt ráo xong vấn đề Bắc Hàn vì Nhựt, Nam Hàn (và có thể kể cả Trung Cộng) đều sợ Bắc Hàn có hỏa tiền tầm trung mang đầu đạn nguyên tử có thể bắn tới 2 quốc gia này. Thành ra cả Nhựt & Nam Hàn bắt buộc phải mua võ khí tối tân của Mỹ trong thời gian qua và sắp tới lên cả hàng trăm tỷ Mỹ kim.
Cuối cùng nhờ vậy, Mỹ càng có lý do đóng quân và lập căn cứ quân sự tại Nam Hàn và Nhựt để kiềm chế được Trung Cộng.
V/ Kết luận
Trong bài biên khảo “Tại sao lãnh tụ Bắc Hàn muốn gặp TT Trump? ” hồi tháng 3 / 2018 (xem Nguồn 3) chúng tôi có phân tích & tiên đoán rằng:
“TT Trump luôn luôn hãnh diện là truyền nhân của Cố TT Reagan, nên đã áp dụng hầu như toàn bộ chánh sách của ông này và nhờ đó đã gặt hái nhiều thành công ngay năm đầu.
Biết đâu TT Trump cũng theo phương cách “tháu cáy” của Cố TT Reagan để giải quyết hiểm hoạ Bắc Hàn mà từ mấy chục năm qua chưa có vị TT Mỹ nào làm được.”
Cách nay khoảng 40 năm với phương cách “đặc biệt tháu cáy” này TT Reagan đã “đánh & diệt” được cộng sãn Liên Xô (xem Nguồn 3) và nay Ban Tham Mưu TT Trump áp dụng triệt để khiến Bắc Hàn phải đến tham dự Hội Nghị Thượng Đỉnh kỳ 2 với tư thế “hạ phong” mà trong bức thư gửi “cầu khẩn” Liên Hiệp Quốc đã cho thấy rõ.
Thực ra biến chuyển chính trị luôn có bất ngờ. Chờ xem kỳ này hội nghị sẽ ra sao !
24 Tháng 02, 2019
Nguồn 1: TT Trump gặp CT Bắc Hàn: Ai thắng & Ai thua?
https://vietbao.com/a282071/tt-trump-gap-ct-bac-han-ai-thang-ai-thua-
Nguồn 2: Bắc Hàn cho LHQ biết hiện nay đang xảy ra nạn đói kém
https://www.reuters.com/article/us-northkorea-sanctions-un/north-korea-warns-of-food-crisis-slashes-rations-before-next-leaders-summit-idUSKCN1QA2X9?il=0
Nguồn 3: Phương cách “tháu cáy” của Cố TT Reagan để”đánh & diệt” được cộng sãn Liên Xô
https://vietbao.com/a273940/bi-an-lich-su-tai-sao-buc-tuong-berlin-bat-ngo-sup-do-
Nhật Ký Biển Đông:
Venezuela- Một Syria Thứ Hai?
Đào Văn Bình
Nhật Ký Biển Đông hai tuần cuối Tháng Giêng ghi nhận những biến chuyển quan trọng như sau:
Tình hình Hoa Kỳ:
-Yahoo News ngày 17/1/2019: “Một cậu bé 14 tuổi ở Temple, Arizona bị nghi ngờ là ăn trộm xe hơi, đã bị cảnh sát bắn chết vì mang một khẩu súng giả bắn đạn plastic.”
Đây là một trường hợp hết sức đau thương, nhưng thường xảy ra. Nếu bạn, con cháu bạn mang một cây súng giả, khi gặp cảnh sát, chắc chắn sẽ bị bắn chết bởi vì theo cảnh sát, không một ai có khả năng nhận ra súng thật hay súng giả (It is impossible to train someone on what is a real weapon and a fake weapon. It’s just impossible.). Để bảo vệ sinh mạng cho mình, tốt nhất là không bao giờ chơi súng giả. Đối với cảnh sát Hoa Kỳ, dù là trẻ em, không thể đùa nghịch bằng cách đưa cây súng giả hướng về phía cảnh sát. Thậm chí khi bạn quơ một con dao, khi cảnh sát bảo bạn bỏ xuống, nếu bạn không bỏ xuống, chắc chắn sẽ bị bắn chết như trường hợp cô Trần Thị Bích Câu ở San Jose năm 2003.
-WPVI Video (Philadelphia) ngày 19/1/2019: Theo cảnh sát Newark, Delaware, bốn trẻ vị thành niên từ 12 tới 14 tuổi đã hãm hiếp một cô gái tại nhà. Một trẻ vị thành niên đã đưa súng dọa cô bé gái là không được trình báo với cảnh sát.
Đây là cảnh hiếp dâm mà Miền Nam trước đây gọi là “bề hội đồng” không do băng đảng trộm cướp thực hiện mà do các trẻ vị thành niên đang còn ở tuổi “đánh đinh, đánh đáo”. Sự kiện thật kinh hoàng! Hoa Kỳ- một xã hội văn minh tột đỉnh, thường lên tiếng dạy dỗ nhân quyền, đạo đức cho toàn thể nhân loại, tưởng chừng như rất thanh bình, êm ả. Thế nhưng nó đang tiềm ẩn những ẩn số đáng sợ do sự suy đồi về luân lý, đạo đức và sự phát triển quá mức của quyền tự do cá nhân. Chúng ta phải làm sao đây? Cầu nguyện? Nhún vai rồi quên rồi buông trôi theo số phận? Hay cả nước phải tiến hành một cuộc cách mạng về luân lý, đạo đức và tập trung cứu nước Mỹ trước thay vì tối ngày cứ bao đồng lo chuyện thiên hạ?
-Yahoo News ngày 20/1/2019: “Người bồi phòng 48 tuổi bước vào căn phòng số 1830 thấy một tờ giấy treo ở lối đi, kèm theo tờ giấy là vài lời cám ơn và tiền trà nước (tip) cho bồi phòng. Bước vào bên trong người bồi phòng thấy hai người nằm chết. Đó là một người đàn ông 33 tuổi ở Queen, New York và một người đàn bà 30 tuổi ở Brooklyn, New York đã tự tử- chết do nghẹt thở. Dưới giường là một cuốn sách hướng dẫn một vài cách tự tử. Cùng nhau tự tử (suicide pacts) chiếm khoảng 1% số lượng tự tử. Trong năm 2017, khoàng 47,173 người Hoa Kỳ chết vì tự tử và có khoảng 1,300,000 người toan tính tự tử.”
Trong xã hội văn minh, giàu có và tưởng chừng như êm đềm, hạnh phúc nhất hành tinh này, với ngân sách quốc phòng lên tới 681.1 tỷ Mỹ Kim, câu chuyện xảy ra thật đáng buồn. Chúng ta không thể hiểu nổi tại sao những người vô gia cư sống lang thang, lây lất trên đường phố mà vẫn bám lấy cuộc sống, trong khi những người khác, còn lành lặn, còn ở tuổi thanh xuân lại lao đầu tự tử? Thế mới hay, trong cuộc đời này khổ đau nhiều hơn hạnh phúc và chúng ta hoàn toàn bất lực trong việc cứu giúp người khác. Liệu có thể bớt khoảng 100 tỷ Mỹ Kim trong ngân sách quốc phòng kia để cứu giúp những người đang khốn quẫn – về cả mặt vật chất lẫn tinh thần không? Chắc chắn câu trả lời là “không”. Chúng ta hoàn toàn bất lực!
-Reuters ngày 22/1/2019: “Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ đã cho phép Tổng Thống Donald Trump thi hành chính sách ngăn cấm một số người đổi giống (transgender) tham gia hoặc ở lại quân đội khi tòa này giữ lại phán quyết của tòa dưới ngăn chặn quyết định của tổng thống với lý do vi phạm hiến pháp.”
Quân đội phải hùng tráng, nam ra nam, nữ ra nữ. Cô/cậu giải phẫu, đổi giống từ đàn ông sang đàn bà liệu có phải là “nữ quân nhân” không? Và ngược lại, giải phẫu để đổi giống từ đàn bàn sang đàn ông, liệu có phải là “nam quân nhân” không? Cho ở chung với nhau như thế quân đội sẽ loạn và chẳng còn ra thể thống gì nữa. Con gà trống cưa cựa, xẻo mồng và cắt bỏ bộ phận sinh dục, liệu chúng ta có thể gọi đó là con gà mái được không? Chúng ta có thể gọi đó là “con gà trống dị hợm” hoặc “con gà trống quái thai” chứ không thể gọi đó là con gà mái được.
Tình hình thế giới:
-Bloomberg News ngày 20/1/2019: “Một số người thạo tin cho biết những viên chức trong bộ tham mưu của Ô. Trump đang sắp đặt kế hoạch cho cuộc họp thượng đỉnh thứ hai giữa Ô. Trump và Kim Jong Un tại Việt Nam. Vào ngày 18/1/2019, Tòa Bạch Ốc loan báo rằng hai ông sẽ gặp nhau vào cuối Tháng Hai sau cuộc họp với cố vấn cao cấp nhất của Bắc Triều Tiên Kim Jong Chol. Ô. Kim Jong Chol cũng đã hội kiến với Ngoại Trưởng Michael Pompeo (đọc là pom-peo).”
-Reuters ngày 22/1/2019: “Các nhà lập pháp Nam Triều tiên nói rằng Hoa Kỳ và Nam Triền Tiên đang chật vật để thu hẹp cách biệt về khoản tiền đóng góp cho chi phí duy trì số lượng lính Mỹ đóng tại đây sau khi Hoa Kỳ đòi hỏi tăng thêm 50%. Cho dù đã có mười phiên thảo luận từ Tháng Ba 2018, cả hai đồng minh đã không đạt được thỏa hiệp thay thế thỏa hiệp 2014 đã đáo hạn năm ngoái và đòi hỏi Nam Triều Tiên phải đóng góp 848 triệu Mỹ Kim cho khoảng 28,500 binh sĩ đóng tại đây.”
Thế mới hay, dù là đồng minh hay bạn bè thân thiết, vấn đề tiền bạc cũng phải sòng phẳng. Anh nhờ tôi đem binh sĩ tới đây để bảo vệ an ninh cho anh thì phải trả tiền tôi chứ. Có lẽ Nam Triều Tiên cũng nên từ từ ký kết thỏa ước hòa bình với Bắc Triều Tiên để khỏi nhờ vả lính Mỹ cho yên chuyện. Hơn thế nữa Ô. Trump cũng đã vài lần đe dọa rút quân ra khỏi đây.
Chiến Tranh Lạnh Mới:
-Bloomberg News ngày 16/1/2019: “Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ nói rằng bản án tử hình công dân Gia Nã Đại Robert Lloyd Schellenberg là quyết định chính trị và Ô. Justin Trudeau nói rằng các nhà ngoại giao hàng đầu gọi việc bắt giam hai công dân của Gia Nã Đại tạo đe dọa lên mọi quốc gia.” Theo AP, phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Trung Hoa Hoa Xuân Doanh nói rằng, “Tôi nghĩ rằng bộ ngoại giao của quý vị (Gia Nã Đại) đã vội vã và nói mà không suy nghĩ.” để phản ứng lại lời tuyên bố của Ô. Trudeau.” Còn theo Reuters, “Trung Hoa nói rằng họ không quan tâm một chút xíu nào về mối lo ngại của thế giới về bản án tử hình của công dân Gia Nã Đại buôn bán ma túy. Bà Hoa Xuân Doanh còn mỉa mai khi nói rằng đồng minh của Gia Nã Đại chỉ đếm trên mười đầu ngón tay và chẳng đại diện cho quan điểm của cộng đồng thế giới.” Ô. Trudeau đã gọi điện thoại cho một vài nhà lãnh đạo thế giới và nêu lo ngại của Gia Nã Đại về vấn đề này. Qua sự kiện chúng ta thấy Ô. Trudeau cố biến vấn đề riêng của Gia Nã Đại thành vấn đề quốc tế. Theo AFP ngày 21/1/2019, Bộ Trưởng Ngoại Giao Gia Nã Đại Chrystia Freeland đã nói chuyện với đại sứ Trung Hoa và xin khoan dung cho Robert Lloyd Schellenberg. Theo Reuters ngày 24/1/2019, có thể do lỡ lời hoặc đó là sự thực khi ông đại sứ Gia Nã Đại tại Trung Hoa nói rằng Hoa Lục có luận cứ tốt để chống lại lệnh dẫn độ của Hoa Kỳ. AP ngày 25/1/2019 cho biết ông đại sứ này thú nhận là đã lỡ lời nhưng cuối cùng cũng đã bị Ô. Trudeau cất chức.
-Reuters ngày 17/1/2019: “Một nhóm dân biểu lưỡng đảng của quốc hội Hoa Kỳ đã đệ trình một đạo luật cấm bán những linh kiện hay những bộ phận khác cho Công Ty Kỹ Thuật Huawei hoặc các công ty viễn thông khác như ZTE của Trung Hoa đã vi phạm lệnh cấm hay luật kiểm soát xuất cảng của Hoa Kỳ.” Cũng theo Reuters, Hoa Lục đã gọi đây là hành động cuồng loạn (hysteria).
-AP ngày 17/1/2019: “Tuyên bố rằng không gian là địa bàn chiến tranh mới, Tổng Thống Donald Trump cam kết Hoa Kỳ sẽ phát triển loại vũ khí không có đối thủ để đối phó với mối đe dọa về hỏa tiễn siêu thanh tân tiến và hỏa tiễn hành trình từ các đối thủ cạnh tranh và kẻ thù. Trong bài diễn văn tại Ngũ Giác Đài, Ô. Trump nói rằng Hoa Kỳ sẽ bảo đảm sẽ phát hiện và hủy diệt bất cứ hỏa tiễn nào phóng vào Hoa Kỳ dù ở nơi đâu, bất cứ thời điểm nào, bất cứ chỗ nào.”
-Reuters ngày 22/1/2019: “Chủ Tịch Công Ty Huawei đòi hỏi phải có kết luận mau chóng về vụ Bà Mạnh Vãn Chu- giám đốc tài chính của công ty bị cáo buộc đã vi phạm lệnh cấm của Hoa Kỳ đối với Ba Tư. Hoa Kỳ vừa cho biết họ sẽ yêu cầu Gia Nã Đại dẫn độ Bà Mạnh Vãn Chu nhưng chưa cho biết khi nào. Trung Quốc nói rằng họ sẽ có biện pháp trả đũa nếu Mỹ tiến hành vụ dẫn độ Bà Mạnh Vãn Chu.”
Cũng theo Reuters, công ty viễn thông Huawei tuyên bố năm nay số lượng điện thoại thông minh (smart phone) của họ bán ra sẽ lớn nhất thế giới mà không cần thị trường Hoa Kỳ.
Theo AFP ngày 29/1/2019, việc nghe trình bày lý lẽ việc dẫn độ giám đốc tài chính Huawei đang là trung tâm điểm của đối đầu ngoại giao giữa Ottawa và Bắc Kinh đã được lùi tới Tháng Ba sau khi Hoa Kỳ đưa ra đầy đủ chứng cớ để buộc tội công ty Huawei.”
Tình hình Trung Đông:
-AFP ngày 21/1/2019: “Một cuộc đánh xe bom tự sát đã giết chết 5 binh sĩ của lực lượng người Kurd tháp tùng binh sĩ Hoa Kỳ trong liên minh chống thánh chiến. Cuộc tấn công mà Nhà Nước Hồi Giáo lên tiếng xác nhận xảy ra một tuần sau cuộc tấn công vào binh sĩ Hoa Kỳ tại Syria và chỉ một tháng sau khi Hoa Thịnh Đốn tuyên bố rút quân ra khỏi xứ sở bị tàn phá bởi chiến tranh này.”
-Reuters ngày 26/1/2019: “Các viên chức Taliban nói rằng cuộc thương thảo với Hoa Kỳ ngày hôm nay đã đồng ý về bản dự thảo thúc đẩy việc rút quân ngoại nhập ra khỏi A Phú Hãn trong vòng 18 tháng sẽ được ký kết. Những chi tiết do Taliban cung cấp cho Reuters sau sáu ngày thương lượng với đặc phái viênZalmay Khalilzad tại Qatar nhằm mục đích chấm dứt cuộc chiến tranh dai dẳng nhất của Hoa Kỳ. A Phú Hãn nhượng bộ Hoa Kỳ bằng cách sẽ ngăn cấm tổ chức khủng bố quốc tế Al-Qaeda và Nhà Nước Hồi Giáo.”
Chúng ta chờ xem số phận của chính quyền Kabul ra làm sao. Công thức nào cho một chính quyền hòa hợp hòa giải để tiến tới một nền hòa bình cho dân tộc A Phú Hãn? Theo AP ngày 27/1/2019, sứ giả Zalmay Khalilzad của Hoa Kỳ đã tới Kabul để trấn an tổng thống A Phú Hãn về thỏa hiệp vừa đạt được với Taliban. Theo kinh nghiệm của cuộc Chiến Tranh Việt Nam, Mỹ muốn tới là tới, muốn đi là đi, muốn rút lui là rút lui. Tất cả chỉ vì quyền lợi của Mỹ, A Phú Hãn cũng chẳng làm gì được. Đó là thân phận nhược tiểu.
Tình hình Biển Đông:
-Sputnik News ngày 17/1/2019: Trong chuyến viếng thăm Việt Nam và tham dự hội nghị về đối phó với biến đổi khí hậu, cựu Ngoại Trưởng Hoa Kỳ John Kerry nói rằng Việt Nam không nhất thiết phải là “tù nhân” lệ thuộc vào năng lượng than. Chúng ta cần hướng đến nguồn năng lượng tái tạo bền vững, giảm khí thải CO2 càng nhiều càng tốt.
-AFP ngày 22/1/2019: “Hoa Lục hứa viện trợ bốn tỷ Nguyên (588 triệu Mỹ Kim) cho Campuchia nhân
chuyến viến thăm Bắc Kinh của Thủ Tướng Hun Sen vào ngày hôm nay. Là nhà đầu tư lớn nhất vào Căm Bốt, Hoa Lục đã bơm nhiều tỷ Nguyên vào nền kinh tế xứ sở này, xóa nợ và không thèm để ý tới thành tích nhân quyền xấu của Campuchia.”
-AP ngày 22/1/2019: “Viên chức cao cấp nhất của Hải Quân Hoa Kỳ thúc giục Hoa Lục tuân thủ luật pháp quốc tế trên biển để tránh chạm trán và nhấn mạnh rằng tàu thuyền phải được an toàn thông quá Biển Đông và Eo Biển Đài Loan. Đô Đốc John Richardson -Trưởng Phòng Hành Quân nói với các ký giả tại Tokyo rằng các tàu chiến của Hoa Kỳ tiếp tục dong buồn một cách tự do qua những vùng biển này kể cả những HKMH đi qua Eo Biển Đài Loan .”
-VOV ngày 24/1/2019: Được hỏi về việc khu trục hạm mang tên lửa dẫn đường USS McCampbell của Hoa Kỳ và khu trục hạm HMS Argyll của Hải Quân Hoàng Gia Anh đã tiến hành các hoạt động ở Biển Đông từ ngày 11-16/1/2019vừa qua, phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Việt Nam nói rằng, “Duy trì hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn, tự do hàng hải hàng không ở Biển Đông vừa là lợi ích vừa là trách nhiệm chung của tất cả các nước trong và ngoài khu vực. Mọi hoạt động ở Biển Đông của các nước cần phải tiến hành phù hợp với luật pháp quốc tế trong đó có Công Ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 và đóng góp vào mục tiêu chung này.”
-AP ngày 27/1/2019: “Hai trái bom phát nổ cách nhau ít phút trong một buổi lễ ngày Chủ Nhật tại một nhà thờ Ca-tô Giáo La Mã tại nam Phi Luật Tân nơi các thành phần cực đoan Hồi Giáo đang hoạt động, giết chết 20 người và làm bị thương 81 người. Tổng Thống Duterte đã kéo dài lệnh giới nghiêm tại vùng này đê quân đội tiêu diệt nhóm quá khích nhưng các cuộc đánh bom và tấn công vẫn tiếp diễn.” Theo Sputnik News, Tổng Thống Nga Vladimir Putin gửi lời chia buồn với Tổng Thống Rodrigo Duterte nhấn mạnh rằng Nga sẵn sàng tăng cường hợp tác với các nước trong cuộc chiến chống khủng bố. Qua sự kiện này chúng ta thấy “khủng bố Hồi Giáo” đang là mối lo chung của các quốc gia Đông Nam Á- đặc biệt là Thái Lan, Nam Dương, Phi Luật Tân và Miến Điện.
Nhận Định:
Vào ngày ngày 24/1/2019, Reuters cho biết, Nga cáo buộc Hoa Kỳ tiếm quyền ở Venezuela và cảnh cáo về ý định can thiệp quân sự của Hoa Kỳ tại đây khiến tạo ra sự đối đầu với Hoa Thịnh Đốn là nước đã hỗ trợ cho những cuộc chống đối một đồng minh thân cận nhất của Mạc Tư Khoa. Juan Guaido – thủ lãnh phe đối lập tự tuyên bố mình là tổng thống lâm thời, được Hoa Thịnh Đốn, Anh Quốc, Gia Nã Đại cùng vài quốc gia Châu Mỹ La Tinh công nhận như Ba Tây, khiến Tổng Thống Maduro theo Chủ Nghĩa Xã Hội lãnh đạo đất nước nhiều dầu mỏ từ năm 2013 cắt đứt bang giao với Hoa Kỳ và yêu cầu nhân viên ngoại giao Mỹ phải dời Venezuela trong vòng 72 tiếng đồng hồ. Phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ khuyến cáo các nhân viên và gia đình không cần thiết phải dời Venezuela nhưng nói sẽ không đóng cửa tòa đại sứ vì “Tổng Thống Lâm Thời Juan Guaido” yêu cầu họ ở lại. Chính quyền Venezuela đe dọa cắt điện và khí đốt cho tòa đại sứ. Vào ngày 26/1/2019, Venezuela đã dịu bớt khi nới lỏng thời hạn ra thành 30 ngày.
Tại Ankara, Tổng Thống Erdogan đã gọi điện thoại cho Ô. Maduro và Ngoại Trưởng Thổ Nhĩ Kỳ nói rằng việc lật đổ Ô. Maduro sẽ tạo hỗn loạn. Tổng Thống Putin đã gọi điện thoại cho Ô. Maduro bày tỏ sự hỗ trợ cho chính quyền chính thống của Venezuela trong khuôn khổ của cuộc khủng hoảng chính trị nội bộ bị khích động từ bên ngoài.
Còn về phía Trung Quốc, phát ngôn viên Hoa Xuân Doanh thúc giục bình tĩnh và tìm một giải pháp chính trị cho cuộc khủng hoảng qua tiến trình đối thoại trong khuôn khổ hiến định và chống lại sự can thiệp từ bên ngoài vào nội bộ của Venezuela.
Tình tình Venezuela trở nên vô tình khẩn cấp. Đất nước đã có hai tổng thống. Với sự can thiệp từ hai siêu cường Nga-Mỹ, không biết Venezuela có biến thành một cuộc nội chiến giống như Syria không? Một định luật muôn đời đúng và xảy ra khắp nơi là, một đất nước mà nội bộ chia rẽ sẽ là miếng mồi ngon cho các đại cường xâu xé để thủ lợi.Theo tôi, nếu nổ ra một cuộc nội chiến ở Venezuela thì chiến sự có thể sẽ lan rộng ra các nước lân cận, chia rẽ khối Châu Mỹ La-tinh. Chẳng hạn Ba Tây, Colombia, Argentina chống đối Ô. Maduro, còn Cuba, Mễ Tây Cơ và Bolivia thì bênh vực. Nam Phi cũng coi Ô. Maduro là chính quyền hợp pháp. Điều này sẽ gây bất ổn cho sân sau “back yard” của Hoa Kỳ. Khu vực này không nên để xáo trộn dù với bất cứ lý do gì. Tuy nhiên Hoa Kỳ quyết tâm lật đổ Ô. Maduro vì ông này thân Nga còn Hoa Lục cũng như Ba Tư đã đầu tư rất nhiều vào đây. Venezuela còn là nguồn cung cấp dầu thô cho Trung Quốc.
Tình hình chưa biết diễn biến như thế nào khi Bộ Trưởng Quốc Phòng Vladimir Padrino cũng là một vị tướng, xuất hiện cùng tám vị tướng khác lần lượt tuyên bố ủng hộ Tổng Thống Maduro, chống lại cuộc “đảo chính” của Ô. Juan Guaido và cảnh báo Hoa Kỳ không được can thiệp. Theo The Independent ngày 26/1/2019, những nhân viên an ninh được thuê mướn của Nga có liên hệ với Điện Kremlin đã bay tới Venezuela để bảo vệ an ninh cho Tổng Thống Naduro khi ông này tuyên bố sẽ đàm phán với phe đối lập. Trong khi đó Liên Hiệp Âu Châu tạo áp lực lên Ô. Maduro khi Pháp, Đức và Tây Ban Nha đưa ra tối hậu thư nói rằng nếu cuộc bầu cử không được tổ chức trong vòng 8 (tám) ngày thì họ sẽ công nhận Ô. Juan Guaido là tổng thống của Venezuela. Thế nhưng Ô. Maduro đã bác bỏ tối hậu thư này. Theo Hufffington Post, công ty dầu hỏa của chính quyền Venezuela đang tìm cách né tránh biện pháp trừng phạt mới của Hoa Kỳ bằng cách yêu cầu khách hàng kể cả các công ty lọc dầu Hoa Kỳ thương thảo lại các khế ước.” Theo Reuters, chính quyền Venezuela đang phản công lại “tổng thống tự xưng” Juan Guaido bằng cách cấm ông này di chuyển và phong tỏa trương mục khiến Hoa Kỳ đã cảnh cáo rằng sẽ có hậu quả nghiêm trọng xảy đến cho Venezuela. Theo USToday ngày 31/1/2019, Tổng Thống Maduro nói rằng Hoa Kỳ đang biến Venezuela thành cuộc chiến tranh Việt Nam nhưng bất cứ cuộc xâm lăng nào của Hoa Kỳ vào Venezuela sẽ còn tệ hại hơn Việt Nam.
Tuy nhiên thực tế vẫn là Ô. Maduro đối phó như thế nào với cuộc cấm vận nghiệt ngã từ Hoa Kỳ. Khi kinh tế xụp đổ thì chính quyền đổ theo. Áp lực lên Ô. Maduro gia tăng khi Nghị Viện Âu Châu công nhận Ô. Juan Guaido là tổng thống lâm thời của Venezuela.
(California ngày 31/1/2019)
https://vietbao.com/p112a290298/nhat-ky-bien-dong-venezuela-mot-syria-thu-hai-
Chính Trị Thái Lan Bất Ổn
Nhật Ký Biển Đông hai tuần đầu Tháng Hai ghi nhận những biến chuyển quan trọng như sau:
Tình hình Hoa Kỳ:
-Good Morning America ngày 8/2/2019: “Một cuộc trấn áp tội phạm ma túy phối hợp Mỹ-Úc đã đưa đến kết quả tịch thu được 1.7 tấn methamphetamine dự tính chuyển bằng tàu tới Úc Đại Lợi trong một cuộc lục soát ngày 11/1/2019. Những thùng hàng toàn là ống loa nhét đầy ma túy đã được ngụy trang khéo léo. Ngoài 3810 cân Anh chất methtamphetamine, chuyến hàng còn có 55.9 cân Anh cocaine và 11.5 cân heroin. Các viên chức Úc Đại Lợi nói rằng tổng số ma túy khi bán được sẽ trị giá khoảng 1.29 tỷ Mỹ Kim.”
Thật kinh hoàng! Nước Mỹ, chuyện bí mật cách mấy của thế giới CIA và FBI đều biết. Vậy trùm ma túy nào có thể tiến hành một cuộc chuyển vận lớn lao như vậy? Hoặc bọn này đúng là thiên tài, hai là có sự bao che, móc ngoặc của các viên chức an ninh? Chỉ cần làm ngơ cho bọn trùm ma túy àm ăn, giới chức an ninh có thể bỏ túi cả triệu đô-la dễ như chơi. Kỹ nghệ buôn bán, chuyển vận ma túy giống như yêu tinh. Chặt đầu này nó mọc đầu khác, khắp thế giới hầu như bất trị. Chất ma túy methamphetamine nếu dùng nhiều (lạm dụng) sẽ làm nát mặt với đầy mụn ghẻ và già khọm một cách dễ sợ.
-Yahoo News ngày 9/2/2019: “Năm trẻ vị thành niên gồm ba bé gái tuổi 12,14,15 và hai bé trai tuổi 13, 16 đã bị bắt và cáo buộc tội giết người sau khi cướp và bắn chết ca sĩ Kyle Yorlets 24 tuổi ở Nashville. Cảnh sát đã tịch thu được hai khẩu súng và hai chiếc xe đều là vật ăn cắp.”
Thật kinh hoàng! Thủ phạm đều thuộc lứa “tuổi ô mai, đuổi hoa bắt bướm” mà đã kết thành băng đảng cướp của, giết người. Phải chăng đây chỉ làchuyện bình thường của một xã hội văn minh tột đỉnh như Hoa Kỳ? Hay đây là dấu hiệu báo động về sự băng hoại xã hội do phim ảnh, ca nhạc, video đầy bạo lực và phóng túng?
-Good Morning America ngày 10/2/2019: “Một cơn bão đang mạnh thêm, cách xa Đảo Kauai và mau chóng di chuyển xuống phía nam của Hạ Uy Di (Hawaii). Cơn bão đến rất gần Hạ Uy Di vào ngày hôm nay và tạo ra những con sóng cao từ 40-60 bộ Anh (12 mét tới 18 mét) và có thể gây lụt lội cho vùng ven biển.” Trong khi đó một trận bão lớn đã đổ 15 inches tuyết xuống Tiểu Bang Washington, 18 inches xuống Oregon, 16 inches xuống Idaho, 9 inches xuống Minnesota và 8 inches xuống Wisconsin.
Đúng là đất trời đảo lộn! Hạ Uy Di là hòn đảo thần tiên, khí hậu ôn hòa quanh năm không bao giờ có giông bão thế mà ngày nay phải hứng chịu một cơn bão khá mạnh và lụt lội! Đúng là “Loạn dưới thế khiến loạn trên Trời”. Đất trời đảo lộn vì lòng người đảo điên! Thế cho nên muốn Đất-Trời yên bình thì lòng người phải yên bình. Nhưng làm thế nào để lòng người yên bình? Chỉ có chết thì mới có thể yên bình “lay to rest” như người ta vẫn cầu chúc nhau khi chết. Chứ còn sống một phút, một giây thì lòng người vẫn “ba đào dậy sóng”.
-AP ngày 11/2/2019: “Một nữ y tá của nhà tù thuộc Tiểu Bang Missouri đã bị kết tội sát nhân vì nghi ngờ đã đầu độc chồng rồi sau đó phóng hỏa để phi tang để kết hôn với một tù nhân.” Trong khi đó một người đàn bà ở Florida tên Denise Williams đã bị kết án chung thân vì năm 2000 đã cùng người bạn thân tên Winchester âm mưu giết chồng mình và 5 năm sau đã kết hôn với người bạn thân này, lãnh số tiền bảo hiểm nhân thọ của chồng là 1.75 triệu Mỹ Kim. Vụ án mãi 17 năm sau mới được khám phá. Winchester bị kết án 20 năm tù.
Lịch sử kim cổ có nhiều chuyện giết chồng một cách ly kỳ nhưng vụ án giết chồng đề lấy một tù nhân thật vô cùng kỳ lạ. Thế mới hay tình yêu là mù quáng. Khi đã thay lòng đổi dạ thì vợ hay chồng trở thành “của nợ” cần phải thanh toán. Quan niệm xưa cho rằng đàn bà là “phái yếu” hoàn toàn lạc hậu. Đàn bà Mỹ ngày nay có thể làm trùm tình báo CIA, lái máy bay ném bom chiến lược tàng hình B-2, trở thành binh sĩ thủy quân lục chiến, phi hành gia không gian và võ sĩ quyền Anh nhà nghề… cùng hàng trăm thứ nghề nặng nhọc và nguy hiểm khác.
-USA Today ngày 12/2/2019: “Lần đầu tiên vào ngày hôm nay, nợ công của Hoa Kỳ đã vượt quá 22 ngàn tỷ Mỹ Kim – một dấu mốc quan trọng mà các chuyên viên nói rằng là bằng chứng xa hơn cho thấy khó lòng duy trì chiều hướng tài chính, khiến suy tổn đến nền an ninh kinh tế của mọi người dân Hoa Kỳ. Bộ Ngân Khố báo cáo rằng nợ công đã lên tới 22.012 tỷ Mỹ Kim, tăng thêm 30 tỷ chỉ trong tháng này.” Khi Ô. Obama rời chức vụ, nợ công của Hoa Kỳ đã lên tới 19,573,445,000,000. USD (19 ngàn tỷ).
Tình hình thế giới:
-Reuters ngày 2/2/2019: “Tổng Thống Maduro của Venezuela đề nghị bầu quốc hội sớm hầu tìm cách chống đỡ sự xụp đổ của chính quyền sau khi một vị tướng chạy sang phe đối lập và vài chục ngàn người biểu tình chống đối trên đường phố.” Trong khi đó tối cao pháp viện Venezuela đã ban hành lệnh cấm di chuyển và phong tỏa trương mục của Ô. Juan Guaido.
Theo tin tổng hợp, Thứ Trưởng Ngoại Giao Manlio Di Stefano của Y nói rằng Ý không công nhận Ô. Juan Guaido là tổng thống lâm thời và Venezuela là nước có chủ quyền. Ý chống lại sự can thiệp từ bên ngoài của một quốc gia hoặc một nhóm quốc gia can thiệp vào công việc nội bộ của một nước có chủ quyền và đây là nguyên tắc không can thiệp của Hiến Chương Liên Hiệp Quốc. Còn theo Reuters ngày 3/2/2019, Tổng Thống Thổ Nhĩ Kỳ Erdogan nói
rằng các quốc gia ủng hộ ông Juan Guaido đã đổ thêm dầu vào cuộc khủng hoảng và làm cả chục triệu dân khốn khổ. TheoAFP ngày 6/2/2019, “Quân đội Venezuela đã trấn đóng tại một cây cầu ở biên giới với Colombia để ngăn chặn đợt viện trợ nhân đạo của Hoa Kỳ được dự trù đưa vào Venezuela trong lúc nhà đối lập Juan Guaido gia tăng thách thức quyền lực của Tổng Thống Maduro.” Trong khi đó theo Reuters, phe đối lập đang thành lập một quỹ trên US. Bank nhận tiền từ các dịch vụ bán dầu hỏa để tài trợ cho nỗ lực lật đổ Tổng Thống Maduro. Cũng theo AFP, Nhóm Châu Mỹ La Tinh Lima cùng Gia Nã Đại đã kêu gọi một sự chuyển giao quyền hành trong hòa bình tại Venezuela mà không có sự can thiệp quân sự. Nhóm này cũng thục giục quân đội Venezuela hỗ trợ cho lãnh tụ đối lập Juan Guaido là tổng thống lâm thời và không được cản trở việc chuyển viện trợ nhân đạo cho Venezuela. Theo Good Morning America ngày 8/2/2019, Đô Đốc Craig Faller- chỉ huy lực lượng Hoa Kỳ ở Phía Nam đã nói với các thượng nghị sĩ là do quyền lực đang tuột khỏi tay, Ô. Maduro đã dựa vào sự che chở của lực lượng an ninh và tình báo Cuba đang bao vây chung quanh. Trong khi đó theo Reuters, Hoa Kỳ trực tiếp liên lạc với quân đội Venezuela và thúc giục họ đào thoát.
Reuters ngày 10/2/2019 cho biết, theo những nguồn tin và tài liệu nội bộ mà họ nhìn thấy, công ty dầu hỏa quốc doanh PDVSA của Venezuela đã thông báo cho khách hàng của công ty biết hãy gửi tiền lời vào một trương mục mà họ mới mở tại Gazprombank AO của Nga. Hành động này diễn ra sau khi Hoa Kỳ ban lệnh lệnh phong tỏa, không cho Ô. Maduro lấy tiền từ việc bán dầu thô đồng thời chuyển tiền đó cho đối thủ Juan Guaido. Tình hinh trở nên căng thẳng hơn khi Reuters cho biết, “Cuba cáo buộc Hoa Kỳ đã đưa lực lượng đặc biệt áp sát biên giới Venezuela để chuẩn bị cho kế hoạch xâm lăng với lý do khủng hoảng nhân đạo. Trong khi đó Quốc Hội Hoa Kỳ không tán thành một hành động quân sự tại Venezuela.”
– Fox News ngày 5/2/2019: Trong thông điệp liên bang đọc trước Quốc Hội, Tổng Thống Donald Trump tuyên bố Việt Nam sẽ là nơi diễn ra cuộc họp thượng đỉnh Mỹ- Bắc Triều Tiên từ ngày 27 tới 28/2/2019. Địa điểm được phỏng đoán là Đà Nẵng nhưng cuối cùng lại là Hà Nội. Cả thế giới đều lên tiếng bình luận. Riêng trang tin RFI cho rằng khi chọn Việt Nam làm địa điểm họp thượng đỉnh cả ba Mỹ-Việt-Triều Tiên đều có lợi. Chúng ta chờ xem cuộc họp thượng đỉnh này có phải là cuộc họp cuối cùng để đi tới một nền hòa bình lâu dài cho Bán Đảo Triều Tiên? Hoa Kỳ mong biến Bắc Triều Tiên thành một “Việt Nam thứ hai”, không còn thù nghịch với Mỹ nữa và theo chính sách ngoại giao đa phương, tập trung phát triển kinh tế. Nếu một thỏa hiệp như vậy đạt được, chính sách ngoại giao của Bắc Triều Tiên sẽ phải vô cùng uyển chuyển, không thù nghịch với Mỹ, nhưng vẫn phải làm bạn với ông bạn láng giềng khổng lồ Trung Quốc. Nếu thực hiện được điều này thì Ô. Trump và Ô. Kim Jong Un sẽ đi vào lịch sử của nền hòa bình thế giới. Thế nhưng vấn đề mấu chốt vẫn là: Hoa Kỳ cần chính thức tuyên bố không lật đổ chế độ Bắc Triêu Tiên đồng thời xóa bỏ cấm vận. Còn Bắc Triều Tiên phải tuyên bố phi hạt nhân hóa, đồng thời kiểm chứng hành động bằng những cuộc thanh tra và giám sát của Liên Hiệp Quốc. Theo tin từ Việt Nam, Ngoại Trưởng Phạm Bình Minh đã thăm Bình Nhưỡng kể từ ngày 12-14/2/2019, hội đàm với Ngoại Trưởng Ri Yong Ho của Bắc Triều Tiên. Chi tiết buổi họp chỉ loan báo chung chung nhưng có lẽ để chuẩn bị cho chuyến viếng thăm chính thức của Ô. Kim Jong Un nhân cuộc họp thượng đỉnh với Ô. Trump tại Hà Nội.
-AP ngày 10/2/2019: “Nam Triều Tiên và Hoa Kỳ đã đạt được thỏa thuận gia tăng phần đóng góp cho chi phí đóng quân Mỹ tại đây và như thế vượt qua những thất bại của các cuộc thương lượng trước đây khiến gây lo ngại về mối liên hệ đồng minh đã có từ nhiều thập niên. Mỹ đòi tăng thêm 50% nhưng cuối cùng Nam Triều Tiên chỉ tăng 11% tức từ 830 triệu Mỹ Kim lên 924 triệu Mỹ Kim.”
Từ tiền lệ này cho thấy những ai muốn nhờ quân Mỹ tới để bảo vệ nền an ninh cho mình cũng nên chuẩn bị sẵn 1 tỷ Mỹ Kim mỗi năm để “chia xẻ” chi phí với “đồng minh”. Đúng là trên đời này không có cái gì “cho không” ngoại trừ tình yêu qua bài hát “L’amour c’est pour rien” tức “Tình cho không biếu không”. Tình yêu mà vòi tiền tức là bán dâm và không còn là tình yêu nữa.
-Reuters ngày 14/2/2019: “Cơ Quan Y Tế Thế Giới cho biết, từ Tháng 10, tối thiểu 922 trẻ em và người trẻ tuổi đã chết bởi bệnh đậu mùa tại Madagascar cho dù đã có chương trình trích ngừa khẩn cấp. Số tử vong căn cứ vào thống kê chính thức nhưng không đầy đủ vì số bị lây bệnh là 66,000. Bệnh đậu mùa là bệnh truyền nhiễm với hậu quả rất phức tạp như mù mắt, xưng não bộ và gia tăng khả năng biến qua những bệnh khác. Madagascar là quốc gia Phi Châu có tỷ lệ 47% trẻ em thiếu dinh dưỡng, khiến gia tăng nguy cơ nhiễm bệnh đậu mùa và tử vong. ”
Chiến Tranh Lạnh Mới:
-Good Morning America ngày 1/2/2019: “Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Mike Pompeo tuyên bố Mỹ chính thức rút lui khỏi thỏa hiệp kiểm soát vũ khí hạt nhân có tính cách lịch sử trong vòng sáu tháng với lý do có nhiều vi phạm đang xảy ra. Thỏa Hiệp INF (Lực Lượng Nguyên Tử Tầm Trung) là trọng tâm của sự giới hạn vũ khí nguyên tử mà hai phía Nga-Mỹ có thể triển khai. Theo các chuyên viên, việc hủy bỏ này sẽ đưa tới cuộc chạy đua vũ khí nguyên tử. Dù chỉ nói tới Nga nhưng Ô. Pompeo lo ngại sức mạnh quân sự của Hoa Lục mặc dù các viên chức của Tòa Bạch Ốc phủ nhận cho rằng hủy bỏ vì lo ngại những quốc gia khác chứ không phải hoàn toàn vì Nga.” Sau tuyên bố của Hoa Kỳ, Nga cũng tuyên bố ra khỏi thỏa hiệp.
Không còn nghi ngờ gì nữa, Hoa Kỳ hủy bỏ thỏa hiệp INF là để đối phó với sức mạnh quân sự của Trung Hoa, nhưng chắc chắn Nga cũng sẽ phải chạy đua trong cuộc chiến nguyên tử này. Theo AP, các viên chức Hoa Kỳ bày tỏ lo ngại là Trung Hoa đã đạt được lợi thế quân sự đáng kể tại Á Châu qua việc triển khai một số hỏa tiễn có tầm bắn vượt mức quy định. Do đó việc hủy bỏ thỏa hiệp với Nga cho phép Hoa Kỳ đối phó với Trung Hoa nhưng chưa rõ Hoa Kỳ sẽ làm như thế nào. Theo AFP ngày 3/2/2019, Hoa Kỳ sẽ cập nhật hóa (update) tức theo sát tình thế kho vũ khí nguyên tử của mình.
-AFP ngày 10/2/2019: “Ba Lan nói rằng họ sẽ mua hệ thống hỏa tiễn di động của Hoa Kỳ trị giá 414 triệu Mỹ Kim giữa lúc Warsaw tìm cách gần gũi hơn với Hoa Thịnh Đốn vì lo ngại sự nổi lên của Nga. Việc giao hàng dự định vào năm 2023. Hệ thống hỏa tiễn này sẽ làm sức mạnh quân sự của Ba Lan gia tăng. ”
Tình hình Trung Đông:
-AP ngày 4/2/2019: “Tổng thống Iraq phản công lại và nói rằng nhà lãnh đạo Hoa Kỳ không xin phép Iraq khi vào ngày 4/2/2019 nói rằng binh sĩ Hoa Kỳ sẽ lưu lại Iraq để canh chừng quốc gia láng giềng Ba Tư. Ông này còn nói rằng lời tuyên bố như thế thật lạ lùng. Còn giáo sĩ cao cấp nhất của Iraq, Ô. Ali al-Sistani đã cùng các chính trị gia Iraq lên tiếng phản đối lời tuyên bố của Hoa Kỳ và nói rằng Iraq mong mỏi có mối liên hệ ngoại giao tốt đẹp và quân bìnhvới những nước láng giềng đặt trên quyền lợi hỗ tương và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.”
Từ những lời tuyên bố này chúng ta thấy Iraq không muốn trở thành quốc gia thù nghịch với Ba Tư. Iraq và Ba Tư đã tiến hành cuộc chiến đẫm máu kéo dài 8 năm (1980-1988) dưới thời Tổng Thống Saddam Hussein khiến hai bên chết khoảng từ 200,000 tới 600,000 binh sĩ.
-Business Standard ngày 8/2/2019: “Hoa Kỳ dự định rút quân khỏi Syria vào cuối Tháng Tư khi bộ tham mưu của Ô. Trump tiến hành kế hoạch bảo vệ đồng minh người Kurd khi quân đội rút đi.”
-AP ngày 10/2/2019: “Ngoại Trưởng Ba Tư Mohammad Javad Zarif ngay khi tới Phi Trường Beirut trong chuyến viếng thăm Li-băng hai ngày đã nói với các ký giả rằng Ba Tư đề nghị trợ giúp cho quân đội Li-băng được Hoa Kỳ hỗ trợ và sẽ trợ giúp trong mọi lãnh vực mà Li-băng mong muốn.”
Điều này cho thấy ảnh hưởng của Ba Tư lan rộng từ Iraq, Syria nay tới Li-băng mà Hoa Kỳ và Do Thái không sao ngăn cản được.
Tình hình Biển Đông:
-Sputnik News ngày 10/2/2019: “Phi Luật Tân và Nhật Bản đã nhất trí nối lại đối thoại quân sự-chính trị và hàng hải trong năm nay. Tuyên bố này được đưa ra sau cuộc gặp giữa Ngoại Trưởng Nhật Bản Taro Kono đang thăm Phi Luật Tân và người đồng cấp nước chủ nhà Teodoro Locsin. Phát biểu tại thành phố Davao, miền Nam Philippines sau cuộc gặp, ông Kono cho biết hai nước cùng chung quan điểm sẽ sớm nối lại đối thoại quân sự-chính trị và hàng hải trong năm nay. Hai bên cũng cam kết tăng cường hợp tác an ninh trên biển. Về phần mình, ông Locsin cho biết cả Chính Phủ Phi Luật Tân và Nhật Bản đều thừa nhận việc duy trì, thúc đẩy hòa bình và ổn định khu vực là trách nhiệm chung và điều này chỉ được củng cố bởi lòng tin lẫn nhau, đối thoại chân thành và hợp tác thực tiễn.”
Sau khi long trọng tiếp đón Ô. Tập Cận Bình ngày 20/11/2018, Phi Luật Tân nay lại tiếp đón ngoại trường Nhật Bản- một nước thù nghịch của Trung Quốc thì rõ ràng Phi Luật Tân đã từ bỏ chính sách “cột chặt vào đồng minh Mỹ” và theo đuổi chính sách ngoại giao đa phương giống như Việt Nam để phát triển. Rồi đây có thể thủ tướng hay tổng thống Nga sẽ viếng thăm Phi Luật Tân. Ai dám nói Tổng Thống Duterte “phổi bò”?
-Reuters ngày 11/2/2019: “Vào ngày 11/2/2019, hai chiến hạm Mỹ đã tiến vào gần Đá Vành Khăn là nơi Hoa Lục tuyên bố chủ quyền tại Biển Đông, một chuyển động chắc chắn gây tức giận cho Bắc Kinh giữa lúc có sự căng thẳng giữa hai cường quốc kinh tế nhất thế giới. Một viên chức quân sự Hoa Kỳ nói rằng hai khu trục hạm trang bị hỏa tiễn đạn đạo đã đi vào bên trong 12 hải lý của Đá Vành Khăn thuộc Quần Đảo Trường Sa.”
Hành động này cho thấy Hoa Kỳ và quốc tế dứt khoát không công nhận những hòn đảo này là lãnh thổ của Trung Quốc và hoàn toàn đúng với công ước quốc tế về luật biển. Một quốc gia không thể cưỡng chiếm một hòn đảo của quốc gia khác hay biến cải các bãi đá ngầm thành đảo rồi tuyên bố chủ quyền. Nếu có tranh chấp thì phải nhờ Tòa Án Trọng Tài về Luật Biển phân định chứ không thể theo luật rừng “ cá lớn nuốt cá bé”. Việt Nam tuy không công khai bày tỏ ý kiến về sự hiện diện của hải quân của Mỹ ở Biển Đông, nhưng ngấm ngầm ủng hộ lập trường đúng đắn này của Hoa Kỳ. Theo tôi nghĩ, sự hiện diện hải quân thường trực của Hoa Kỳ tại Biển Đông sẽ tạo ổn định cho khu vực mà Bắc Kinh cũng không thể lộng hành hơn được nữa. Biển Đông là cửa ngõ đi vào biển lớn Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Nếu Hoa Lục khống chế được Biển Đông thì Hoa Kỳ không còn là cường quốc hải quân số một nữa.
Nhận Định:
CNBC ngày 8/2/2019 cho biết, “Lần đầu tiên trong lịch sử, một thành viên cao cấp của hoàng gia ra ứng cử trong cuộc phổ thông đầu phiếu- một chuyển động mà một số người cho rằng sẽ làm gia tăng quyền lực của nền quân chủ lên toàn bộ quốc gia. Những tin tức xuất hiện ngày hôm nay cho biết Công Chúa Ubolratana Rajakanya 67 tuổi – bào tỷ của Vua Maha Vajiralongkorn- con gái lớn nhất của Vua Cha Bhumibol Adulyadej đã qua đời và bà sẽ là ứng cử viên chức thủ tướng của đảng Thai Raksa Chart trong cuộc bầu cử vào 24/3/2019 tới đây. Đảng này có liên hệ mật thiết với cựu Thủ Tướng Thaksin Shinawatra và nhiều người cho rằng đã đóng vai trò quan trọng trong việc ứng cử của Công Chúa Ubolratana.”
Tình hình chính trị Thái Lan nát như tương. Trong lúc Tướng Prayuth Chan-ocha -đương kim thủ tướng, đại diện phe quân đội ra ứng cử mà bà công chúa này cũng ra ứng cử. Dân chúng chọn ai? Nếu chọn Tướng Prayuth Chan-ocha thì danh dự của hoàng gia không còn. Còn nếu bà đắc cử thì với uy thế của hoàng gia, bà sẽ trở thành nữ hoàng, tự tung tự tác không một ai dám kiểm soát bà nữa và phe quân đội vốn là “vua đảo chính” ở Thái Lan có chịu không? Theo tôi nghĩ, bà công chúa này đã hành động thiếu suy nghĩ. Nếu thật sự có ý định nắm quyền thì âm thầm ủng hộ một ứng cử viên khác để duy trì nền quân chủ lập hiến lâu dài cho hoàng gia mà nhà vua là tiêu biểu cho sự đoàn kết của đất nước. Tướng Prayuth Chan-ocha có thể nạp đơn lên Tối Cao Pháp Viện để xin hủy bỏ tư cách ứng cử của bà công chúa với lý do vi hiến.
Thế mới hay “quyền lực” giống như ma túy đã dính vào thì mê say, mê say cho đến chết. Đã là công chúa cành vàng lá ngọc, quân hầu đầy tớ, chỉ trưng diện, chụp ảnh, ăn không ngồi rồi, …mà vẫn còn say mê quyền lực, vẫn cho rằng thủ tướng sướng hơn công chúa. Ngay cả anh em Ô. Thaksin (người Thái gốc Hoa) đưa nhau lên làm thủ tướng, bị lật đổ sống lưu vong vẫn tham vọng trở lại nắm quyền. Ôi quyền lực! Quyền hành sai khiến người khác. Mi là cái gì mà con người say mê cả hơn giống thiêu thân? Tranh chấp quyền lực là tranh chấp đáng sợ nhất trong tất cả những tranh chấp. Cha con, chú cháu, anh em cũng có thể giết nhau chứ đừng nói tới người dưng. Trong lịch sử và cả ngày nay cho thấy, mọi thủ đoạn tàn độc, bẩn thỉu nhất đều được sử dụng để tranh đoạt quyền hành. Ngày nay tranh đoạt quyền hành được tô bóng bằng danh từ lãnh đạo đất nước.
Kinh tế Thái Lan phát triển nhất Đông Nam Á do viện trợ Mỹ đổ vào trong cuộc Chiến Tranh Việt Nam. Thế nhưng đất nước này tiềm ẩn rất nhiều yếu tố bất ổn như: 1) Trình độ dân trí thấp, rất dễ tin, dễ dụ. 2) Sự lũng đoạn của phe quân phiệt. 3) Sự khống chế toàn bộ nền kinh tế của 14% người Thái gốc Hoa. Người Tàu khống chế nền kinh tế trong nước Thái Lan đã đành. Mà tất cả những hàng hóa như nước mắm, gạo, bún khô, mì khô, tôm khô, mắm tôm, nước cốt dừa, sầu riêng, bánh tráng, nước súp gà, riêu cua…mang nhãn hiệu Việt Nam nhưng đều do “Ba Tàu Thái Lan” sản xuất bán qua đây để vơ vét tiền bạc của hơn 1 triệu người Việt ở Hoa Kỳ. 4) Sự nổi dậy của nhóm thiểu số Hồi Giáo tại nam Thái Lan qua những hoạt động khủng bố.
Thật tức cười ! Khi một đất nước luôn bị ngoại bang đe dọa, lại đoàn kết một lòng, chính trị ổn định và sản sinh ra những lãnh tụ thiên tài. Trong khi một đất nước kinh tế phát triển, không ngoại bang nào đe dọa, không chiến tranh nhưng nền chính trị lại bất ổn do tranh giành quyền lực giữa các phe phái. Đa đảng thì dân chủ có đấy nhưng không khéo đất nước sẽ hỗn loạn và chia rẽ. Một số ứng cử viên Thái đã đổi tên thành Yingluck (tên của cựu nữ thủ tướng) để hấp dẫn cử tri. Có đảng nào chịu đảng nào đâu. Thế sự muôn đời là như vậy. Giải pháp nào cũng không hoàn hảo. Chỉ có tấm lòng thực sự vì dân vì nước là đáng kể. Chúng ta chờ xem Ô. Prayuth Chan-ocha chứng tỏ khả năng và bản lĩnh của mình như thế nào sau khi tiến hành cuộc đảo chính lật đổ Bà Yingluck và tự lên làm thủ tướng từ năm 2014. Tin tức mới nhất cho biết, Quốc Vương Thái Lan Vajirusongkorn đã ra tuyên bố nói rằng việc ứng cử của Công Chúa Ubolratana là không thích hợp với truyền thống của hoàng gia và trái với hiến pháp. Ủy ban tổ chức bầu cử cũng đã loại bỏ Công Chúa Ubolratana ra khỏi danh sách ứng cử.
Đất nước Thái Lan muôn đời bất ổn. Kể từ năm 1932 đã có cả thảy 11 cuộc đảo chính và 7 âm mưu đảo chính bất thành và 16 lần thay đổi hiến pháp. Một đất nước không có kẻ thù ở chung quanh, không phải đối đầu với bất cứ cuộc chiến tranh nào, tại sao quân đội trở thành “cha mẹ dân” và quyết định mọi sinh hoạt chính trị của quốc gia? Làm thế nào để quân đội Thái Lan hiểu rằng họ là lực lượng chống ngoại xâm chứ không phải “cha mẹ dân” cai trị và quyết định vận mệnh của đất nước? Hiện tượng và tệ nạn quân đội thao túng chính trường đã xảy ra trong thời kỳ Chiến Tranh Lạnh khi Mỹ cho rằng các chính quyền quân nhân hữu hiệu trong công cuộc “chống cộng” cho nên đã ủng hộ các ông tướng nắm quyền khắp mọi nơi như Việt Nam, Căm- Bốt, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Nam Dương, Nam Hàn, Hồi Quốc, Nam Mỹ và Phi Châu.
Ngày xưa Hoa Kỳ nuôi dưỡng các chế độ quân nhân để “chống cộng.” Nhưng ngày nay chính Hoa Kỳ lại sợ hãi các chế độ quân nhân cho nên tệ nạn kiêu binh hầu như đã chấm dứt trên toàn thế giới nhưng vẫn còn tồn tại dai dẳng ở Thái Lan. Vậy thì nền dân chủ nào thích hợp cho Thái Lan như kêu gào và thúc ép của các cường quốc Tây Phương? Theo tin tức thế giới, Viện Bảo Hiến Thái Lan thông báo là họ sẽ xem xét việc cấm đảng đối lập đã đề cử Công Chúa Ubolratana ra tranh cử khiến tình hình chính trị càng rối ren thêm.
Đào Văn Bình
(California ngày 15/2/2019)
https://vietbao.com/p112a290845/nhat-ky-bien-dong-chinh-tri-thai-lan-bat-on
Vui cười
Ông khách tới hàng bán chim. Bà bán chim quảng cáo chim bà nói được nhiều thứ tiếng..
Ông khách liền hỏi một con chim rất đẹp:
“Comment allez-vous?”
Chim trả lời:
“Ca va bien, merci.”
Ông khách hỏi tiếp: “How are you?”
Chim đáp: “I’m fine, thank you.”
Ông khách hỏi tiếng Mễ: “Como estas?”
Chim trả lời: “Muy bien.”
Ông khách hỏi bằng tiếng Việt: “Mầy khoẻ không?”
Chim bực mình đáp: “Đ..M. hỏi nhiều quá !”
Con hùm xám Nguyễn Chí Thanh – Trọng Đạt
Năm 1983, hồi còn ở Việt Nam tôi có dịp nói truyện với một sĩ quan công binh Quân đội nhân dân, cấp bậc trung úy, hôm ấy anh nói về tình báo địch ngụy tại miền Bắc. Trước hết anh nói về vụ đột kích Sơn Tây của biệt kích Mỹ để giải cứu tù binh tháng 11-1970. Lời kể của anh có nhiều điểm lạ: hồi ấy bộ đội ta cũng thường hay tập trận gần trại tù này, cũng có xử dụng máy bay lên thẳng, Mỹ lợi dụng tình trạng đó để đưa các máy bay lên thẳng lớn vào giải cứu tù binh. Địch dùng biệt kích Việt giả làm bộ đội, ăn mặc y như bộ đội nhẩy xuống bắn loạn xạ (1), tay trong của nó (nằm vùng) cắt hết đây điện thoại nên không liên lạc được bên ngoài. Anh nói cuộc tập kích thất bại vì tù binh đã được chuyển đi từ mấy ngày trước, đây chỉ là thuyên chuyển thông thường, biệt kích Mỹ rút ngay sau đó.
Tôi tò mò hỏi: “Ngoài Bắc cũng có tình báo gian điệp của Mỹ à?”
Anh cho biết các khẩu phòng không tại Hà Nội cứ vài ngày lại phải thay đổi vị trí vì đóng lâu một chỗ bọn gián điệp của chúng sẽ báo cho máy bay Mỹ tới ném bom. Ông Nguyễn Chí Thanh, con hùm xám vừa về thăm quê nhà, có đứa báo cho máy bay Mỹ biết tới ném bom khiến ông ấy phải chui xuống hầm ngay và thoát chết.
Hồi xưa sau 1954 khi Việt Minh về tiếp thu Hà Đông Hà Nội tôi chỉ nghe nói đến Đại Tướng Võ Nguyên Giáp, Thiếu Tướng Văn Tiến Dũng, Thiếu Tướng Chu Văn Tấn, Đại Tá Vương Thừa Vũ… trên báo chí, đài phát thanh…. Đại Tướng Nguyễn Chí Thanh ít được nghe nói đến, giữa thập niên 60 tôi có thấy báo đăng hình ông ta đánh võng tại chiến khu.
Sau 1975 và tại Hải ngoại Nguyễn Chí Thanh cũng không thấy được nhắc đến nhưng ông ta có ít nhiều huyền thoại, có vẻ như một Tướng lãnh, một nhân vật lịch sử đáng gườm của CSVN. Nguyễn Chí Thanh chết năm 1967 mà người ta cho là bị trúng bom B-52 của Mỹ, phía CS nói là ông bị chết vì đau tim tại Hà Nội
Sau này tại Hải ngoại tôi có tham khảo các sách báo Mỹ, Pháp, VNCH … để tìm hiểu chiến tranh Đông Dương nhưng nhân vật Nguyễn Chí Thanh ít được đề cập tới kể cả phía Mỹ, VNCH và phía CSVN. Phía CSVN nói về tiểu sử Nguyễn Chí Thanh trong Wikipedia Tiếng Việt như sau:
Tên thật là Nguyễn Vịnh, sinh ngày 1-1-1914 tại làng Niệm Phò, Quảng Điền, Thừa Thiên, thuộc gia đình trung nông, thuở nhỏ cũng được học hành (nguyên văn), 14 tuổi cha chết, ông bỏ học đi làm kiếm sống và nuôi gia đình.
Năm 1934 tham gia cách mạng, năm 1937 gia nhập đảng CS Đông Dương lên tơi Bí thư Tỉnh Ủy Thừa Thiên. Bị Pháp bắt giam từ 1938 tới 1943, khi Nhật đảo chính Pháp ngày 9-3-1945 được ra tù tiếp tục hoạt động, được bầu làm Bí thư khu ủy khu IV được đi dự Quốc dân đaị hội Tân Trào (miền Bắc). Ông được đặt bí danh Nguyễn Chí Thanh và được bầu vào Ban chấp hành Trung ương đảng, được chỉ định làm Bí thư xứ ủy Trung kỳ, theo dõi và tổ chức cướp chính quyền trong Cách mạng tháng 8.
Từ 1948 tới 1950 được cử làm Bí thư Liên khu ủy IV, cuối 1950 được bổ nhiệm giữ chức Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân, năm 1951 ông được vào Bộ chính trị
Năm 1959 ông được phong quân hàm Đại tướng
Phần tiểu sử họ nói nguyên văn về tài năng của Nguyễn Chí Thanh như sau:
“Ông từng công tác ở nhiều lĩnh vực khác nhau và đều có khả năng phát triển lĩnh vực đó nên còn được gọi là “vị tướng phong trào”….
Nghĩa là ông có tài năng ở mọi lãnh vực nên Bác phong cho ông lên hàng Đại tướng 4 sao mặc dù chưa tập ắc ê ngày nào !!!
Xem ra Con hùm xám chả đi lính ngày nào, ông là đảng viên cao cấp nên khi sang quân đội phải có cấp bậc tương đương. Ngoài Bắc hồi đó có hai Đại tướng 4 sao là Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh. Cả hai ông Đại tướng không học qua trường lớp quân sự nào đều được phong quân hàm Đại tướng nhưng Võ Nguyên Giáp những năm 1950, 51.. có được Cố vấn Trung Cộng huấn luyện tại biên giới, còn Nguyễn Chí Thanh có được đi học chả biết hết tiểu học hay chưa, không những không qua trường lớp quân sự mà còn chưa đi lính ngày nào
Nhân kỷ niệm 50 năm Nguyễn Chí Thanh (1967-2017), báo mạng của CSVN có bài “Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, ngày cuối cùng ở Hà Nội” trang mạng Dân Việt (2017). Họ nói : Ông được cử đi B (vào Nam) từ 1964, cuối tháng 10-1966 ông được Hò Chí Minh triệu tập ra Trung ương báo cáo tình hình miền Nam và nhận chỉ thị mới, hôm 5-7-1967 chuẩn bị mai (6-7) lên đường, ăn cơm chia tay với bác Hồ.
Nửa đêm 6-7 trước giờ lên đường NC Thanh bị tức ngực vào nhà thương chết tại bệnh viện vì đau tim
Theo tin tức phía Mỹ thì NC Thanh chết vì trúng bom B-52
Trong bài “Đại tướng Nguyễn Chí Thanh và bài học về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với Quân đội” đăng trên trang Báo Mới (2018) ca ngợi vai trò lãnh đạo của Đảng trong quân đội. Nguyễn Chí Thanh là nhà chính trị viên, một đại diện của Đảng trong quân đội. Không thấy bài nào nói về vai trò quân sự của ông tại chiến trường Nam bộ chỉ thấy người ta ca ngợi ông Tướng của nông dân, được người dân yêu quí nhất.
Tình hình chính trị miền Bắc những năm giữa thập niên 60 xuất hiện một tập đoàn mới, thực sự lãnh đạo miền Bắc. Trước đây người ta cứ tưởng họ Hồ là nhà lãnh đạo CSVN nhưng khoảng hơn 10 năm trở lại đây các nhà nghiên cứu Tây phương mới biết vai trò của ông Hồ từ thập niên 60 trở đi chỉ có tính nghi lễ (2).
Năm 1954-1957 Duẩn được giao lãnh đạo miền Nam, Lê Đức Thọ làm phó cho Duẩn, tới 1957 Duẩn được Hồ Chí Minh gọi ra Hà Nội gấp để giữ chức quyền Tổng bí thư thay thế Trường Chinh từ chức vì Cải cách ruộng đất. Tháng 9-1960 tại Đại hội đảng, ông được bầu vào Ban chấp hành trung ương và Bộ chính trị, giữ chức Bí thư thứ nhất. Từ 1960 Lê Duẩn được người phụ tá đắc lực Lê Đức Thọ (Trưởng ban tổ chức đảng) cài đặt dần dần tay chân bộ hạ vào bộ máy quyền lực của phe chủ chiến, đàn áp và bắt giam phe chủ hòa. Từ đó Duẩn trở thành người có quyền lực cao nhất miền Bắc.
Theo các nhà nghiên cứu Tây phương Lê Duẩn tiếm quyền của Hồ Chí Minh trong khi phía CS cho biết ông Hồ vì đau yếu nên đã giao quyền cho Lê Duẩn (họ đưa lên mạng). Giữa thập niên 60, họ Hồ thường sang Tầu chữa bệnh, Lê Duẩn nắm toàn quyền và là người có ảnh hưởng rất lớn tới cuộc chiến VN. Nhà văn Trần Khải Thanh Thủy cũng nghĩ là Hồ Chí Minh vì tin tưởng Lê Duẩn nên đã đề cử y vào chức Tổng bí thư nhưng không ngờ từ 1963 ộng đã bị Duẩn phản, loại bỏ ông già, để cho ông ngồi chơi xơi nước (Trần Khải Thanh Thủy: Tướng Giáp tiết lộ 4 bí mật chiến tranh VN)
Trên BBC Tiếng Việt (từ ngày 2-5-2006) có đăng một loạt 4 bài tham luận giá trị về Lê Duẩn, trong đó bài 4- Một di sản gây tranh cãi (19-5-2006) có nói về cuộc tranh luận giữa Võ Nguyên Giáp và Nguyễn Chí Thanh. Nhà nghiên cứu Douglas Pike ghi nhận cuộc tranh cãi về chiến lược đánh Mỹ giữa hai Đại tướng bốn sao Võ Nguyên Giáp và Nguyễn Chí Thanh. Năm 1966 Võ Nguyên Giáp viết một bài nói về cuộc chiến miền Nam có thể kéo dài mất nhiều năm, ông không tin vào “các trận đánh sử dụng đơn vị chính quy lớn vì điều này có lợi cho chiến lược của kẻ thù. Tướng Nguyễn Chí Thanh (Chủ nhiệm Tổng cục chính trị) bèn phản ứng, ông này viết bài đăng ở Tạp chí Học Tập nói ông tin tưởng vào chiến lược tấn công ở miền Nam (đánh chính qui) là đúng, những người chỉ trích (tức Võ Nguyên Giáp) là không logic.
Khi Lê Duẩn ra Bắc năm 1957 và đưa kế hoạch phát động cuộc chiến giải phóng miền Nam, Bộ chính trị chỉ chấp nhận tạm chủ trương của Lê Duẩn, đa số chủ trương hòa bình, xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa trước đã, trong số này có Võ Nguyên Giáp, Hồ Chí Minh. Khi Duẩn thâu tóm được nhiều quyền lực từ những năm đầu thập niên 60, cuộc chiến tranh ngày càng tàn khốc hơn. Tại miền Bắc hồi ấy phe ôn hòa gồm có Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh và cả Hổ Chí Minh không chủ trương đánh Mỹ vì đất nước sẽ bị tàn phá trước sức mạnh hỏa lực của đối phương nhưng họ không còn quyền hành, phe hiếu chiến gồm Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí Thanh, bọn này đã năm được bộ máy quyền lực
Wikipedia tiếng Việt (Bách khoa toàn thư) có bài “Vụ Án Xét Lại Chống Đảng”. Đây là vụ án chính trị do Lê Đức Thọ, Trần Quốc Hoàn (bộ trưởng Công an) chỉ đạo đã bắt giam lâu năm nhiều đảng viên quan trọng từ 1967-1973. Vụ án thể hiện tranh chấp quyền lực nội bộ đảng. Bài viết nói một phe là Lê Duẩn, Nguyễn Chí Thanh, phe kia là Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp. Nhóm chủ hòa cho là phải xây dựng xã hội chủ nghĩa tại miền Bắc trước, giai đoạn 1954-59, Hồ và Giáp ủng hộ ý kiến này. Nguyễn Chí Thanh chỉ trích nhóm chủ hòa. Hội nghị Trung ương năm 1963 chính thức công nhận đấu tranh vũ trang là chủ yếu nhưng chỉ viện trợ, không đưa quân chính qui vào,
Lê Duẩn đề cao Nguyễn Chì Thanh, y muốn tạo ra hình ảnh một thần tượng quân sự mới để thay thế Võ Nguyên Giáp
Tác giả Robert Brigham trong bài “Why the South won the American war in Vietnam” cho biết đã từ lâu Võ Nguyên Giáp công khai nghi ngờ chiến lược của Tướng Nguyễn Chí Thanh. Lê Duẩn tạo cơ hội cho Tướng NC Thanh, ông ta thành công khi tạo một thần tượng mới trong Quân đội nhân dân. Nguyễn Chí Thanh qua đời đột ngột năm 1967, quan điểm của ông cho rằng cuộc chiến không thể thắng lợi nếu thiếu hỗ trợ của các đơn vị chính quy lớn, quan điểm tiếp tục giữ ảnh hưởng ở Hà Nội. Từ cuối 1965 đến 1975, ngày càng nhiều các sư đoàn bộ binh chính quy được đưa từ miền Bắc vào Nam. Lê Duẩn làm giảm uy tín của Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp và đưa những người trung thành lên để tạo quyền lực tối cao.
Nguyễn Chí Thanh cùng một chủ trương như Duẩn, đẩy thanh niên vào tử địa để đổ dầu vào phong trào phản chiến Mỹ. Phần tiểu sử họ nói
“Nguyễn Chí Thanh là người đề ra chiến thuật đánh áp sát của Quân giải phóng với phương chấm “nắm thắt lưng địch mà đánh”. Trong phim The Vietnam War, Tập ba từ tháng 1-1964 tới tháng 12-1965 cũng có nói về đểm này:
“ TT Johnson gửi 50,000 quân cho Tướng Westmoreland, ông này xin thêm 50,000 người cho tới cuối 1965. Những trận đụng độ giữa Mỹ và BV thường ở trong rừng. Trong tập này một sĩ quan Mỹ nói địch đông hơn, nhưng chúng tôi có pháo binh, không quân yểm trợ, địch không có. Chúng tôi tiêu diệt địch theo tỷ lệ 10 đổi một, chúng bị tổn thất nặng
Chúng đổi chiến thuật, bám sát Mỹ để họ không dám pháo yểm trợ, cái đó gọi là chiến thuật của Nguyễn Chí Thanh. Dù đổi chiến thuật, CSBV vẫn chết như rạ.
Thượng nghị sĩ Hollings tới Sài Gòn, Tướng Westmoreland nói chúng tôi giết địch theo tỷ lệ mười đổi một (We were killing people in the rate ot ten to one), khi ấy ông TNS Hollings cảnh báo Tướng Westmoreland hãy coi chừng, người Mỹ không cần biết anh giết được mười tên địch mà họ chỉ quan tâm một người lính (Mỹ) bị giết thôi (Westy, the American people don’t care about the ten, they care about the one). CSBV biết rõ tâm lý của người Mỹ quí sinh mạng con người như vàng nên Lê Duẩn cũng như Nguyễn Chí Thanh không ngần ngại lấy 10 mạng, thậm chí 15 mạng để đổi một lính Mỹ
Duẩn và Thanh chấp nhận hy sinh và họ đã thành công ở chỗ lấy máu của thanh niên đẩy mạnh phong trào phản chiến, họ tiếp tục đẩy hàng vạn thanh niên vô tội vào chỗ chết, đó là cái huyền thoại Nguyễn Chí Thanh
Tiến sĩ Pierre Asselin trong bài “Tướng Giáp người phản đối chiến tranh” đăng trên BBC ngày 29-10-2013 cho rằng ông Giáp từ sau Hiệp định Geneve là người phản đối chiến tranh, tin tưởng vào thống nhất trong hòa bình. TS cũng cho biết ông Giáp không có công trạng gì trong cuộc chiến từ thập nhiên 60. Tôi nghĩ ông Giáp chống cuộc chiến tranh với Mỹ cũng như Trường Chinh và Hồ Chí Minh, chính phía CS cũng công nhận như vậy, nhưng nếu nói ông ta không có công trạng gì trong cuộc chiến thật là không đúng.
Năm 1968, Tướng Giáp không liên hệ gì tới trận Mậu Thân nhưng trận tổng tấn công mùa hè đỏ lửa năm 1972 do ông chỉ huy (3), chiến dịch Tổng tiến công mùa xuân 1975 cũng do ông chỉ huy (4) và cả trận chiến tranh tại biên giới Việt Hoa năm 1979 cũng do ông điều binh khiển Tướng
Mặc dù Lê Duẩn thù ghét Võ Nguyễn Giáp nhưng từ năm 1967 Nguyễn Chí Thanh chết đột ngột, Duẩn vẫn phải dùng Võ Nguyên Giáp như một nhà quân sự lão thành. Duẩn không ưa nhưng không dám triệt hạ Giáp vì ông ta vẫn còn là thần tượng của đám đệ tử trong Quân đội. Trong các trận đánh lớn 1972, 1975, 1979 Duẩn vẫn là người lãnh đạo cuộc chiến, Giáp chỉ là kẻ thừa hành.
Cho dù Nguyễn Chí Thanh còn sống, Lê Duẩn vẫn phải dùng Tướng Giap Giáp vì NC Thanh mặc dù là Tướng được mọi người yêu quí nhưng i tờ về chiến thuật, điều binh khiển tương, đúng như tư duy của Võ Nguyên Giáp: xử dụng những đại đơn vị chỉ có lợi cho Mỹ, TT Nixon nói
“Bắc Việt chọn đánh (qui ước) theo lối chiến tranh mà chúng ta quá rành…”
Và
“… nay Hà Nội đánh theo chiến tranh qui ước với những đại đơn vị. Các sư đoàn bộ binh của chúng cùng hàng đoàn chiến xe, hệ thống tiếp liệu thành mục tiêu tuyệt hảo cho không lực của ta…”(5)
Tuy nhiên, điều không ai ngờ tới, chiến dịch thí quân của NC Thanh và Duẩn lại thành công lớn, nó đẩy mạnh phong trào phản chiến để rồi sau 1972 Mỹ phải rút bỏ Đông Dương, địch bất chiến tự nhiên thành
Nếu không nhờ phong trào phản chiến dù Lê Duẩn có đẩy thêm hàng triệu thanh niên vào tử địa cũng chỉ làm mồi cho B-52 một cách vô ích
Phản chiến đã cứu sống hàng triệu thanh niên miền Bắc.
Cước chú
(1) Điểm này anh nói sai, thực ra là biệt kích người Mỹ chứ không phải VN (coi Vụ tập kích Sơn Tây- Wikipedia Tiếng Việt)
(2) Về vấn đề này tôi đã nói kỹ trong hai bài: “Lê Duẩn và cuộc chiến tranh Việt Nam”, “Đề cương cách mạng miền nam, sự hình thành của tội ác”, ở đây tôi chỉ nhắc sơ qua
(3) Ông đã kể lại trong bài “Tướng Giáp tiết lộ 4 bí mật về chiến tranh VN” của Trần Khải Thanh Thủy
(4) Văn Tiến Dũng kể lại trong Đại Thắng Mùa Xuân
(5) No More Vietnams, trang 144, 145, nguyên văn …
”The North Vietnamese had chosen to fight the kind of war we fought best…”
“…Its infantry divisons, tank columns, and logistics system all made perfect targets for our air power.. .”
Vui cười
Trong giờ nghỉ giữa hai hiệp đấu, huấn luyện viên hỏi một cầu thủ trẻ: “Cậu có hiểu thế nào là sự hợp tác, là tinh thần đồng đội không?”
Chàng trai gật đầu một cách quả quyết.
– Thế cậu có hiểu, chiến thắng khi chơi đẹp mới là điều quan trọng nhất không?
Cầu thủ lại gật đầu đồng ý.
– Thế thì – huấn luyện viên tiếp – khi trọng tài thổi phạt, hoặc cảnh cáo hay đưa ra bất cứ quyết định nào, cậu cũng không được cãi, không chửi rủa, thóa mạ hoặc tấn công ông ta. Cậu có hiểu không?
Một lần nữa, chàng trai lại gật đầu.
– Tốt lắm! – huấn luyện viên nói – Bây giờ, cậu đi lại đằng kia và giải thích những điều đó cho mẹ cậu!
Cách Trung Cộng khai thác kẽ hở trong luật quốc tế để hùng bá ở Đông Á – James Kraska; TS. Phan Văn Song phỏng dịch
James Kraska là một Thành viên Cao cấp trong Chương trình về An ninh Quốc gia của FPRI. Ông là Giáo sư Luật và Chính sách Đại dương tại Trung tâm Nghiên cứu về Luật quốc tế Stockton tại US Naval War College; Nghiên cứu viên ưu tú tại Viện Luật Biển, trường Luật Berkeley Đại học California; Thành viên Cao cấp Trung tâm Luật và Chính sách Đại dương tại trường Luật Đại học Virginia; và Thành viên Cao cấp tại Trung tâm Luật và An ninh Quốc gia tại trường Luật Đại học Virginia.
Ai “quan tâm tới kẽ hở” ở Biển Đông?
Kẽ hở, được tạo ra trong luật pháp quốc tế liên quan đến việc dùng vũ lực hay cưỡng ép và quyền tự vệ của các quốc gia nạn nhân. Trung Cộng khai thác lỗ hổng này trong luật pháp quốc tế khi sử dụng vũ lực để buộc các nước láng giềng chấp nhận quyền bá chủ của Trung Cộng ở Đông Nam Á. Với việc sử dụng các lực lượng trên biển không đối xứng (chủ yếu là các tàu cá và tàu hải cảnh), Trung Cộng thôn tính Biển Đông và Biển Hoa Đông một cách chậm và chắc. Bằng cách khai thác kẽ hở trong luật pháp quốc tế do Tòa án Quốc tế (ICJ) tạo ra, họ đã tiến hành việc này khiến các quốc gia trong khu vực khó có thể phản ứng một cách hiệu quả. Phương diện pháp lý này của chánh trị quốc tế về các tranh chấp biển ở Đông Á không được nhiều người hiểu biết, nhưng đó là cốt lõi của chiến lược của Trung Cộng trong khu vực.
1/ Chiến lược của Trung Cộng
Trong mưu đồ lớn này, Trung Cộng phải vượt qua kháng cự từ ba nhóm đối kháng. Thứ nhất, Trung Cộng phải áp đảo Nhựt Bổn và Đại Hàn ở Biển Hoa Đông và Hoàng Hải.
Kế hoạch 1: chia để chinh phục. Phải chắc chắn rằng Nhựt Bổn và Đại Hàn ghét nhau nhiều hơn là họ ghét Trung Cộng. Chừng nào mà Nhựt và Hàn còn ấp ủ nỗi đau lịch sử thì Tàu Cộng còn thủ lợi.
Thứ hai, Bắc Kinh phải “Phần Lan hoá” các quốc gia xung quanh Biển Đông bằng cách đưa vùng biển nửa kín này vào quỹ đạo của nó.
Kế hoạch 2: sử dụng một bộ cà rốt và gậy để đưa các “bạn ngoài mặt” (frenemies) yếu hơn nhiều – như Việt Nam, Philippines, Malaysia, Indonesia, Brunei – vào vòng thần phục. Tương tự như vậy, sự chia rẽ trong nhà ASEAN làm lợi cho Trung Cộng. Chiến lược này tự thân nó là một cách tiếp cận mạnh mẽ, và 150 năm đầu Mỹ gieo rắc thống trị và chia rẽ ở Nam Mỹ đã mở ra một con đường tuyệt vời cho một đế quốc đang hình thành tiếp bước.
Cuối cùng, Bắc Kinh phải thủ thế để ngăn ngừa khả năng can thiệp và ngăn trở của hai cường quốc biển lớn bên ngoài khu vực.
Chỉ có Huê Kỳ và Ấn Độ là ở trong vị thế cản phá tham vọng của TrungCộng thôi.
Kế hoạch 3: gây sức ép trong khu vực mà không liều lĩnh tới mức biến thành chiến tranh trên biển giữa các cường quốc. Đặc biệt, tránh né những “quá khích” dễ đụng chạm vào các thỏa thuận an ninh của Mỹ với Nhựt Bổn, Đại Hàn hoặc Philippines [1]. Trong mưu đồ của ba kế hoạch này, Trung Cộng gây sức ép qua hết các bực thang của sứcép mức thấp, song cẩn thận không đến mức bị xem là “tấn công vũ trang” trong luật pháp quốc tế, và do đó mở đường cho quyền tự vệ của cá nhân và tập thể.
Ví dụ, bắt đầu vào năm 1999, Trung Cộng tuyên bố “lệnh cấm đánh bắt cá” theo mùa khắp Biển Đông, dù họ không có thẩm quyền pháp lý để quy định việc đánh cá ngoài vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lí (EEZ) của mình. Chỗ xa nhất mà lệnh cấm của Trung Cộng vượt tới cách mũi phía nam của đảo Hải Nam hơn 1000 hải lí. Lệnh cấm đánh bắt cá nhằm cai quản nguồn cá trong vùng EEZ của Việt Nam, Philippines, Malaysia, Indonesia, và Brunei. Hãy tưởng tượng điều tương tự ấy nếu như Huê Kỳ bắt đầu kiểm soát các tàu đánh cá và các giàn khoan dầu trong EEZ của Mexico.
Trung Cộng cũng đã không ngớt đề cao quyền lịch sử đối với các đảo và các cá thể địa lý, và hầu như tất cả các vùng biển liên quan của toàn bộ Biển Đông. Thế giới đều mất kiên nhẫn với yêu sách lạ lùng, vừa lạnh lùng vừa ngang ngược của Trung Cộng về “vùng nước lịch sử” ở Biển Đông. Yêu sách biển được dựa trên các nguyên tắc được quy định trong Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển (LOSC) mà Trung Cộng tham gia năm 1996. Tuy nhiên, yêu sách quá mức nầy của Bắc Kinh là dựa trên đường 9 (bây giờ 10) đoạn vốn được Trung Hoa Dân Quốc – Đài Loan công bố năm 1947. Dù một quy tắc cơ bản của các nguồn pháp luật quốc tế là cái “mới nhứt chiếm ưu thế”, Trung Cộng vẫn trắng trợn nêu ra yêu sách đường nhiều đoạn như một con ách đứng đầu các lá bài để bỏ qua nghĩa vụ pháp lý trong Công ước Luật biển.[2] Trung Cộng cũng đã làm mới yêu sách lịch sử ở Biển Hoa Đông đối với quần đảo Senkaku, và ở Hoàng Hải. Yêu sách biển tạo thành “lỗi tự gây ra” [unforced error] lớn nhất của Trung Cộng khi mạo nhận rằng mình là một nước lớn “đang trỗi dậy một cách hoà bình”.
2/ Chiến thuật của Trung Cộng
Bắc Kinh triển khai nhiều mặt ở số lượng đáng kinh ngạc các giàn tàu thuyền và máy bay dân sự và thương mại trợ giúp áp đặt yêu sách của mình và hù dọa nước khác. Tàu đánh cá và tàu ngư chính là đội tiên phong của chánh sách này, dẫn đến các cuộc đụng độ thường xuyên với tàu tuần tiểu an ninh biển trong EEZ của các nước láng giềng.[3] Defense News gọi đoàn tàu đánh cá của Trung Quốc là những “kẻ phụ tá đắc lực” (proxy enforcer) hoạt động phối hợp với Cảnh sát biển và Hải quân Giải phóng Nhơn dân Trung Quốc (PLAN) để “khoanh vùng một khu vực tranh chấp tranh giành hoặc tạo ra một hàng rào bảo vệ” đối với lực lượng hải quân của các đối thủ. Chẳng hạn, tàu Hải giám Trung Cộng đã đóng kín hoàn toàn lối vào đầm phá rộng lớn của bãi ngầm Scarborough, nằm bên trong EEZ của Philippines và cách Tây Philippines 125 hải lý. Đôi khi, những biến cố này làm chết người. Thí dụ: tháng 12 năm 2011, một ngư dân Trung Cộng giết chết một cảnh sát biển Đại Hàn khi anh này cố tìm cách bắt giữ tàu Trung Quốc vì đánh cá bất hợp pháp.
Đoàn tàu đánh cá là “đám được thuê phản đối” (rent-a-mobs) trên biển, tuy nhiên chúng đặt ra một tình thế lưỡng nan nhạy cảm đối với các nước trong khu vực. Nếu tàu đánh cá bị lực lượng thi hành pháp luật biển của các nước láng giềng tra hỏi đuổi đi thì có vẻ như ngư dân Trung Quốc đang bị đối xử nặng tay. Yếu tố chánh trị này cũng là cách hâm nóng chủ nghĩa dân tộc của Trung Cộng Mặt khác, nếu các quốc gia ven biển im lặng đối với những hoạt động của các tàu đánh cá đó thì có nghĩa họ nhường thẩm quyền và chủ quyền trong EEZ của mình cho Trung Cộng.
Trung Cộng bắt đầu sử dụng tàu cá làm lực lượng không chính quy lần đầu tiên vào đầu thập niên 1990 cho hai đảo Mã Tổ [Matsu] và Kim Môn [Jinmen] để tạo sức ép lên Đài Loan trong những lúc có căng thẳng chính trị [4]. Hiện nay Trung Cộng sử dụng chiến thuật này chống Nhựt ở Biển Hoa Đông và chống lại Philippines, Việt Nam và Malaysia ở Biển Đông. Trung Cộng cũng sử dụng các đoàn tàu cá đối với Đại Hàn ở Hoàng Hải. Năm 2009, lúc đối đầu với tàu đặc nhiệm USNS Impeccable khi tàu này tiến hành khảo sát quân sự cách Đảo Hải Nam 75 hải lý, Trung Cộng đã sử dụng một đội tàu gồm một tàu tình báo hải quân, một tàu ngư chính, một tàu hải dương học và hai tàu chở hàng nhỏ hoặc tàu đánh cá. Một số tàu có vẻ được bố trí với nhơn viên thuộc lực lượng đặc biệt Trung Quốc [5].
Để thống nhứt các nỗ lực mạnh mẽ hơn trong chánh phủ, Bắc Kinh nhập năm cơ quan riêng biệt thành một lực lượng Hải Cảnh duy nhứt hồi tháng 3 năm 2013. “Năm con rồng” đó là Tuần duyên Trung Quốc thuộc Công an Biên phòng, Cục An toàn Hàng hải Trung Quốc thuộc Bộ Giao thông vận tải, Hải giám Trung Quốc thuộc Cục Quản lý Đại dương Quốc gia, Lực lượng Ngư chính Trung Quốc thuộc Bộ Nông nghiệp và lực lượng thuế trên biển thuộc Tổng cục Hải quan.
Năm ngoái, Trung Cộng nhét thêm giàn khoan dầu vào rọ các lực lượng bán quân sự trên biển khi giàn khoan HD 981 thuộc Tổng công ty Dầu khí Ngoài khơi Quốc gia Trung Quốc (CNOOC) đặt gần quần đảo Hoàng Sa trong EEZ của Việt Nam. Giàn khoan này đã được bảo vệ với một đoàn khoảng 30 tàu đánh cá, tàu bán quân sự, tàu chiến của PLAN cho đến khi rút đi một tháng sau đó. Biến cố giàn khoan dầu đưa quan hệ Tàu -Việt xuống điểm thấp nhứt tính từ năm 1979. Trước đó, lực lượng Việt Nam Cộng Hoà, của Miền Nam Tự Do bị thủy quân lục chiến Trung Cộng đẩy khỏi quần đảo Hoàng Sa trong cuộc
xâm lược đẫm máu năm 1974, trong sự cổ vũ đồng lỏa của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Miền Bắc Việt Cộng– thà giao đảo biển cho ngoại bang Tàu Cộng còn hơn để cho đồng bào Ngụy!
Khi khu vực này đang chờ phán quyết của trọng tài quốc tế theo đơn kiện của Philippines để bảo tồn quyền chủ quyền trong EEZ của mình, thì việc Trung Cộng phiêu lưu trên biển trong khu vực tạo một lỗ hổng trong luật nhơn đạo quốc tế do một số luật gia hàng đầu thế giới soạn thảo trong vụ kiện trước ICJ 1986 về các hoạt động quân sự và bán quân sự chống lại Nicaragua (Nicaragua kiện Hoa Kỳ).
3/ Trung Cộng “lưu tâm đến kẽ hở” trong Luật quốc tế
Để cho chiến lược của mình có tác động, Trung Cộng phải ép buộc dần các nước láng giềng phải chấp nhận bá quyền của Bắc Kinh, nhưng tránh đối đầu quân sự. Trung Cộng sử dụng vũ lực thông qua các tàu hải cảnh, tàu đánh cá, và bây giờ cả giàn khoan để thay đổi quan cảnh chánh trị và pháp lý trên biển ở Đông Á, nhưng họ vẫn cố ý giữ tàu hải quân xa ngoài chân trời để tránh nguy cơ kích động chiến tranh.
Hiến chương của Liên Hiệp Quốc điều chỉnh luật về việc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Mục tiêu của Liên Hiệp Quốc là nhằm ngăn chặn “các hành vi xâm lược và vi phạm hoà bình khác.”[6] Trong khi Hiệp ước Kellogg-Briand 1928 nổi tiếng đặt ngoài vòng pháp luật các hành vi “chiến tranh”, và thỏa thuận này bây giờ được coi là cái “tột cùng” của sự ngây thơ giữa hai cuộc chiến, việc ngăn cấm vũ lực trong Hiến chương Liên Hiệp Quốc thậm chí còn rộng hơn. Theo Điều 2 (4) của Hiến chương, “tấn công vũ trang” (hay chính xác hơn, xâm lược vũ trang hoặc aggression armée trong bản dịch tiếng Pháp chính thức) là trái pháp luật. Điều 2 (4) cũng nói rằng đe dọa sử dụng vũ lực cũng là vi phạm như chính việc sử dụng vũ lực.
Các quốc gia có thể làm gì nếu họ bị tấn công vũ trang hoặc xâm lược vũ trang? Điều 51 của Điều lệ công nhận quyền tự vệ cá nhơn và tập thể của tất cả các nước để đối phó với một cuộc tấn công. Cho đến ngày nay điều này vẫn được hiểu như vậy – bất kỳ việc sử dụng vũ lực bất hợp pháp nào đều được coi là tấn công vũ trang ; và tấn công vũ trang tức là cho phép quyền tự vệ của nước nạn nhơn, đúng thế không? Sai, ít nhất là theo Tòa án Công lý Quốc tế.
Phán quyết trong vụ Nicaragua kiện ở toà ICJ năm 1985 mở ra một “kẽ hở” giữa việc tấn công vũ trang của một nước và quyền tự vệ của nước nạn nhân.
Vụ kiện phát sanh từ các cuộc chiến tranh ở Trung Mỹ trong thập niên 1980. Chế độ Sandinista ở Nicaragua nắm quyền vào năm 1979, và bắt tay vào một chiến dịch Marxist “giải phóng” Honduras, El Salvador và Costa Rica. Nicaragua yểm trợ các phong trào kháng chiến manh mún ở El Salvador với vũ khí, đạn dược, tiền bạc, đào tạo, tình báo, chỉ huy và kiểm soát, cũng như cung cấp nơi trú ẩn ngoài biên giới. Với sự trợ giúp này, lực lượng du kích làm tê liệt nền kinh tế El Salvador và biến bất mãn của thiểu số thành một cuộc nổi dậy toàn diện. Dân chúng trong vùng gánh chịu đau khổ, và cả hai bên đều phạm các hành vi tàn bạo.
Để ổn định El Salvador, Tổng thống Ronald Reagan đã ký Nghị Quyết An ninh Quốc gia 17 (NSSD 17) vào ngày 23 tháng 11, năm 1981. NSSD 17 cho phép CIA tổ chức thành lập một lực lượng đặt tên gọi là Contra tiến hành hoạt động bí mật để lật đổ chế độ Sandinista ở Nicaragua. Viện trợ quân sự (Mỹ) đổ vào Honduras và El Salvador để giúp họ chống lại phiến quân cộng sản Sandinista. Quyết định này phản ánh một trong những chương trình đầu tiên của chủ thuyết Reagan chống lại việc mở rộng ảnh hưởng của Liên Sô.
Năm 1984, Chính phủ Nicaragua đã khởi kiện Huê Kỳ trước ICJ, lập luận rằng các hoạt động bí mật của Mỹ chống Nicaragua, bao gồm việc trang bị vũ khí cho phiến quân Contra và thả mìn các cảng của Nicaragua, là vi phạm chủ quyền của Nicaragua. Hoa Kỳ phản biện rằng các hoạt động của Mỹ là thực hành quyền tự vệ cố hữu của cá nhân và tập thể theo theo Điều 51 của Hiến chương Liên Hiệp Quốc. Tổng thống Duarte của El Salvador nói với giới truyền thông vào ngày 27 tháng 7 năm 1984:
“Như tôi đã tuyên bố, theo quan điểm của Salvador, là chúng tôi đứng trước vấn đề bị xâm lược bởi một nước tên là Nicaragua bên trong El Salvador, rằng bọn họ đang đưa vũ khí, huấn luyện, con người, đạn dược và và bao nhiêu thứ nữa vào El Salvador. Xin khẳng định, ngay vào giờ phút này họ đang sử dụng tàu đánh cá ngụy trang, đưa vũ khí vào El Salvador vào ban đêm.
Trước tình hình này, El Salvador phải tìm cách ngăn chặn. Phe Contra … đang tạo ra một loại rào cản ngăn chặn không để Nicaragua tiếp tục đưa những thứ đó vào El Salvador qua đường bộ Họ thay thế bằng cách chuyển hàng vào bằng đường biển, và thâm nhập được qua ngã Monte Cristo, El Coco, và El Bepino.”[7]
Tòa đã bác bỏ lập luận của Mỹ và El Salvador về tự vệ chống lại tấn công vũ trang của Nicaragua. Trong một quyết định tạm thời về vụ kiện này, ICJ phán quyết với số phiếu 15-0 rằng Huê Kỳ phải “ngay lập tức ngừng và từ bỏ mọi hành động hạn chế, phong tỏa, hoặc gây nguy hiểm cho việc ra vào các cảng của Nicaragua ….”. Trong phán quyết cuối cùng dựa trên chứng lý [ruling on Merits], qua một cuộc bỏ phiếu 14-1 ICJ khẳng định rằng chủ quyền của Nicaragua đangbị các hoạt động bán quân sự của Mỹ hủy hoại. Huấn luyện, cung cấp vũ khí, trang thiết bị, và tiếp tế cho lực lượng Contra là vi phạm luật pháp quốc tế, và không phải là một biện pháp tự vệ hợp pháp mà Huê Kỳ và các đồng minh thực hiện trong khu vực của mình để đối phó với sự xâm lăng của Nicaragua.
ICJ phán rằng cưỡng ép mức thấp hoặc can thiệp, như “việc đưa các nhóm/toán vũ trang, không chính quy, hoặc lính đánh thuê thay mặt cho hoặc từ một nước” vào một nước khác cấu thành một “cuộc tấn công vũ trang”, nhưng quyền tự vệ chỉ được kích hoạt khi sự can thiệp như thế đạt tới “quy mô và hậu quả” hay có “trọng lựợng” tới mức như một cuộc xâm lược. Không thể dùng quyền tự vệ chống lại xâm hại hoặc tấn công vũ trang mức thấp bằng quân chính quy hay quân nổi dậy khi mức xâm hại chưa tăng đến mức quan trọng hoặc ở quy mô và hậu quả nào đó.
Trong khi cả Nicaragua lẫn Huê Kỳ đều đã tài trợ cho quân du kích và tham gia vào các hành vi làm mất ổn định khu vực, sự phân biệt của ICJ mở ra khái niệm “kiểm soát hiệu quả”. Nicaragua được Toà xác định là chưa có “kiểm soát hiệu quả” đối với những người nổi dậy lật đổ chính phủ ở El Salvador và Honduras, trong khi Huê Kỳ được coi là thực hiện “kiểm soát hiệu quả” đối với việc thả mìn các cảng Nicaragua và quân Contra.
Tòa án không cho El Salvador cơ hội can thiệp vào vụ kiện, đảm bảo chuyện ông Thiện đối đầu với ông Ác [nguyên văn: David chống Goliath]. ICJ cũng chấp nhận phiên bản của Sandinista về các sự kiện và bỏ qua việc Nicaragua xâm lược vũ trang chống các nước láng giềng.[8] Thẩm phán Schwebel, một người Mỹ trong Tòa án, đưa ra phát biểu bất đồng duy nhứt: “Nói tóm lại, Tòa có vẻ cung cấp – gần như cho không – một đơn thuốc để các chính phủ hung bạo lật đổ các chính phủ yếu trong khi từ chối không cho các nạn nhân một tiềm năng… một hi vọng duy nhứt nào để tồn tại.” Vụ kiện tiêu biểu cho một trong những mảng sơ suất lớn nhứt của luật pháp quốc tế trong lịch sử và không đáng ngạc nhiên rằng phán quyết này bây giờ hậu thuẫn việc xâm lấn trên biển của Trung Cộng (cũng như các hành vi tai quái của Nga tại các nước láng giềng từ Georgia đến Ukraine đến vùng Baltic – nhưng đó là một câu chuyện khác).
Dù vụ kiện của Nicaragua có là nỗ lực nhằm đánh bại Mỹ về tố tụng, hoặc một nỗ lực trí thức cao nhưng định hướng yếu về mặt công bằng trong cộng đồng quốc tế (như tôi đã gợi ra ở đây) hay không, kết quả là một lỗ hổng mở ra giữa xâm lược vũ trang và quyền tự vệ. Bằng cách sử dụng sự xâm phạm ở mức thấp thông qua nhiều hành vi nhỏ nhưng không có hành vi nào trong đó đủ để phát xuất quyền tự vệ, những kẻ xâm lược chơi trên cơ. Nhận định rõ bài học, rõ về mặt pháp lý và mặt chánh trị qua vụ Nicaragua, Trung Cộng đang kiếm được nhiều điều lợi chiến lược trên biển với cái giá các nước láng giềng phải trả mà không tạo nguy cơ làm nổ ra chiến tranh.
Hơn nữa, việc Trung Cộng sử dụng rất đầy tánh chiến lược đội tàu đánh cá như là một thành phần của “chiến tranh pháp lý” vượt khỏi việc khai thác lỗ hổng giữa sử dụng vũ lực và tự vệ trong luật về sử dụng vũ lực (jus ad bellum); điều đó cũng ảnh hưởng đến luật trong chiến tranh (jus in bello). Tàu cá có khả năng sẽ được sử dụng làm các tàu chiến trong bất kỳ cuộc chiến tranh khu vực nào. Một số người nghi ngờ Trung Quốc đang trang bị máy dò sonar cho hàng ngàn tàu đánh cá để thích hợp hóa chúng vào hợp tác với các hoạt động tác chiến chống tàu ngầm của hải quân vốn có nhiệm vụ tìm và đánh chìm tàu ngầm của Mỹ và đồng minh.
Kể từ vụ kiện cột mốc Paquette Habana 1990, phát sinh từ việc Huê Kỳ bắt giữ tàu đánh cá Cuba trong cuộc chiến Mỹ-Tây Ban Nha, tàu đánh cá ven biển và ngư dân được loại ra khỏi mục tiêu tấn công hoặc miễn bị bắt giữ trong xung đột vũ trang. Với việc đặt máy dò sonar trên tàu đánh cá như một cách nhân tăng lực cho các hoạt động chống tàu ngầm, Bắc Kinh ngay lập tức, có nguy cơ làm các tàu này bị coi là mục tiêu hợp pháp trong các sự xung đột. Nhưng cáp quang của Hải quân Mỹ đã làm chìm tàu đánh cá Trung Cộng là tuyên truyền thực hiện theo đơn đặt hàng. Trong mọi biến cố, Sam Tangredi, một chiến lược gia có tiếng, tự nhủ rằng Hải quân Mỹ sẽ dám xài bao nhiêu ngư lôi trong số có hạn, trong khi mà số lượng tàu đánh cá là hằng hà sa số.
Vậy thì, phản ứng đối với tất cả điều này có thể là gì? Nhiều quốc gia từ lâu, đã sử dụng các cuộc tấn công không đối xứng, bằng cách dùng không quân bay dưới tầm radar. Cái khác biệt hiện nay là chiến tranh không chính quy được dùng như một công cụ của kẻ mạnh chứ không phải kẻ yếu để thay đổi hệ thống an ninh khu vực. Hơn nữa, các khía cạnh pháp lý quốc tế của tình thế hiện tại phải quen với lợi
thế của Trung Cộng. Do đó, rủi ro hệ thống nay đã lớn tới mức đó rồi và chỉ có thể so sánh với chiến dịch Liên Sô gây bất ổn định các nước thời Chiến tranh Lạnh.
Ai bảo Luật pháp Quốc tế chẳng có gì quan trọng ?
Hồi Nhơn Sơn, Cuối Năm Con Chó
TS.Phan Văn Song
Ghi Chú:
[1] Huê Kỳ có thoả thuận quốc phòng với 5 nước ASEAN: Thailand, Philippines, Japan, South Korea, và Australia. Một số trong các thoả thuận này và Đạo luật về quan hệ với Đài Loan là chủ đề của một pod cast của FPRI năm ngoái, có thể truy cập ở đây: http://www.fpri.org/multimedia/2014/06/us-security-commitments-asias-changing-strategicenvironment-look-japan-taiwan-korea-and-philippines-audio.
[2] Những nước có yêu sách đánh cá lịch sử thể tìm kiếm quyền truy cập từ các quốc gia ven biển quản lí những khu vực đó theo Điều 62 của Công ước Luật Biển.
[3] Lyle J. Goldstein, “Chinese fisheries enforcement: Environmental and strategic implications,” 40 Marine Policy 187 (2013).
4 Wendell Minnick, Fishing Vessels in China Serve as Proxy Enforcers, Defense News, August 18, 2014, p. 15.
[5] Một số “ngư dân” có vẻ không là ngư dân làm ăn chân chính- trẻ, ăn mặc đàng hoàng, thể thao, liên tục trên biển trong khu vực Đông Nam Á mà da không bị rám nắng, và không thể vận hành thiết bị đánh cá (!). Quan sát này đã được một cựu đô đốc 2 sao ở Đông Nam Á và một trưởng Hải quân đã nghỉ hưu của một trong những quốc gia xung quanh Biển Đông cho tôi biết.
[6] Điều 1(1), Hiến chương LHQ.
[7] Họp báo của Tổng thống Duarte, Sam Salvador Radio Cadena YSKL (tiếng Tây Ban Nha) 1735 GMT 27 July 1984 in San Salvador (July 27, 1984) reprinted in FBIS Daily Reports Latin America, 1, 4 (July 30, 1984). 8 See, e.g. John Norton Moore, The Secret War in Central America – Sandinista Assault on World Order (1987).
[8] Xem, chẳng hạn. John Norton Moore, The Secret War in Central America – Sandinista Assault on World Order (1987). John Norton Moore từng là Phó Đại diện của Huê Kỳ vào giai đoạn pháp lý của vụ án. Huê Kỳ đã không tham gia trong giai đoạn đối chứng (Merits phase) của vụ kiện. Toàn văn tiết lộ: Tôi thực hiện nghiên cứu tiến sĩ dưới hướng dẫn của John Norton Moore tại School of Law Đại học Virginia, ở đó tôi cũng làm việc với tư cách Nghiên cứu viên cao cấp. Giáo sư Moore đã viết rất nhiều về những thiếu sót của pháp luật trong vụ này trong John Norton Moore, Jus Ad Bellum before the International Court of Justice, 52 Virginia Tạp chí Luật quốc tế 903, 919-935 (Hè 2012).
Vui cười
Một ông nông dân bị “nông trang” cướp mất đất liền viết thư khiếu nại gửi cho đồng chí HCM. Một tháng sau chính quyền gọi ông nông dân lên.
“Tại sao ông lại gửi thư cho đồng chí HCM? Ông không biết đồng chí HCM đã chết rồi sao?”
“Mẹ kiếp, tại sao lúc các người cần thì đồng chí HCM “sống mãi trong sự nghiệp.” Còn lúc ta cần thì đồng chí ấy lại chết mất rồi?”
Sau 45 năm nhìn lại hải chiến Hoàng Sa 1974 : Những điều ít người biết – HQ Phạm Quốc Nam
Lời giới thiệu
Các bài viết về trận Hải Chiến Hoàng Sa năm 1974 có quá nhiều với những cách nhìn khác nhau từ tài liệu của nhiều phía và của những nhà bình luận quân sự, chiến lược quốc tế. Đồng thời không ít những bài viết cá nhân có tách cách hư cấu hoặc diễn tả câu chuyện có nhiều chi tiết rất mâu thuẫn, bất hợp lý về diễn biến, số hiệu chiến hạm, thời điểm, chiến thuật, v.v… gây cho người đọc rơi vào trạng thái lẫn lộn, khó hiểu câu chuyện và không biết đâu là sự thật.
Đặc biệt bài viết này đồng quan điểm với những youtube có số lượng người theo dõi rất đông qua internet từ Việt Media, Vũ Hoàng Lân, Ngô Kỷ nhằm phản đối và lên án những youtube hoặc livestream từ Texas hoặc Quận Cam ( của HDH, NPH)… bằng những luận điệu xuyên tạc sự thật về trận chiến Hoàng Sa 1974 để bôi nhọ HQVNCH và QLVNCH nói chung.
Mặt khác, tác giả mong muốn được thực hiện DVD về Hải Chiến Hoàng Sa, người viết đã phải nghiên cứu hàng chục tài liệu, bài viết, phim ảnh từ nhiều nguồn khác nhau và những giải mật mới nhất về trận đánh nhằm hệ thống lại thời gian, diễn biến, cũng như những đóng góp của Phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, HQ Thiếu Tá Trần Bá Hạnh, v.v. nhìn lại các sự kiện theo tuần tự, hợp lý để dàn dựng thước phim lịch sử về trận Hải Chiến (sẽ ra mắt một ngày gần đây).
Hy vọng qua bài viết hay thước phim này, người đọc hay xem phim không bị lẫn lộn, khó chịu trước những sự kiện không tuần tự và không hợp lý khi muốn tìm hiểu cặn kẽ về Hải Chiến Hoàng Sa Năm 1974.
Và để nội dung bài viết và thước phim mang tính ‘sự thật’ khi viết về trận Hải Chiến Lịch Sử, người viết xin phép sử dụng bài viết hay câu chuyện tường thuật của những nhân chứng sống từng tham dự trận hải chiến trong phạm vi trách nhiệm hay trong nhiệm sở của chính họ trên chiến hạm. (P Q N)
Phần I
Dẫn nhập:
Thiết nghĩ khi đánh giá Hải Chiến Hoàng Sa, chúng ta cần phân biệt hai sự kiện khác biệt về thời điểm:
Trận Hải Chiến Hoàng Sa (19-1-1974) và Sau Trận Hải Chiến (20-1-1974)
– Sự kiện thứ nhất:
‘Trận Hải Chiến’ ngày 19 tháng 1 năm 1974 kéo dài khoảng 30 phút: Hải đoàn Đặc nhiệm Hoàng Sa I của Hải quân VNCH gồm HQ-4, 5, 10 và HQ–16 đã làm tê liệt lực lượng tham chiến của Hải Quân Trung Cộng gồm các chiến hạm 271, 274, 389, 396, Nam Ngư 407 và 402 ngay sau mươi phút khai chiến, khi HQVNCH bắn chìm 271, 389 và tiêu diệt trọn Bộ Chi huy Tham mưu của địch trên Soái hạm 274, làm tử thương một cấp tướng và nhiều cấp tá cao cấp. Đây là chiến thắng của HQVNCH đối với ‘Trận Hải Chiến Hoàng Sa’ khi so sánh về thiệt hại đôi bên.
Nếu cho rằng HQVNCH thảm bại trong trận Hải chiến Hoàng Sa thì đó là cái nhìn của cá nhân và đúng hơn họ không nắm vững kỹ thuật cấu trúc của một ‘Chiến hạm’.
– Sự kiện thứ hai: ‘Hậu trận Hải Chiến’ ngày 20 tháng 1 năm 1974: Hải quân Trung Cộng hay gọi là Hải quân PLAN (Chinese People’s Liberation Army Navy – Hải Quân Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc hay Hải quân Trung Cộng, kết hợp sử dụng tàu quân đội và tàu của dân sự) xua một đội quân mạnh gấp chục lần HQVNCH gồm hải, lục, không quân, hỏa tiễn, tàu ngầm chiếm lấy Hoàng Sa khi HQVNCH rời khỏi Hoàng Sa từ ngày trước.
Những sự thật về Hải Chiến Hoàng Sa
I. Trận Hải Chiến Lịch sử (ngày 19-1-1974)
– Nhìn trận đánh một cách khách quan, cùng với những tài liệu, bình luận của giới quân sự quốc tế và sự thừa nhận của Trung Cộng Hải đoàn Đặc nhiệm I Hoàng Sa của Hải quân Việt Nam Cộng Hoà (HQVNCH) với các chiến hạm tham chiến: HQ4, 5, 16, và HQ10 đã gây tổn thất nặng nề cho Hải đoàn của Hải quân PLAN tham chiến gồm các chiến hạm mang các số 271 và 274 (Lớp: tàu săn tàu ngầm lớp Kronstadt), 389 và 396 (Lớp tàu T-43 quét mìn 010 đại dương) và 2 tàu dân quân, vỏ sắt, trang bị hải pháo 25 ly ngụy trang tàu đánh cá mang số hiệu Nam Ngư 402 và 407.
– “Trên đảo phía Trung Cộng nổ súng trước và trên biển HQVNCH nổ súng trước để đánh phủ đầu, chiếm ưu thế và chứng minh cho Trung cộng biết rằng đây là lãnh hải của VNCH”. (Theo Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, Tư lệnh HQ Vùng 1 Duyên Hải).
HQVNCH nổ súng trước đã bẻ gãy được chiến thuật của hải đoàn Hoàng Sa Hải quân PLAN khi chúng dùng chiến thuật “cài răng lược” và “dao chém cạnh sườn” (dùng tàu nhỏ, thấp trên mặt biển tránh né tầm đại pháo, đánh cận chiến và vận chuyển linh hoạt cắt đội hình của địch. Đây là chiến thuật dùng tàu nhỏ tấn công tàu lớn của của các nước khối cộng sản nói chung và của TC nói riêng).
– Viên đạn 127ly của HQ-5 bắn lạc chui lọt vào hầm máy làm HQ-16 nghiêng 20 độ là sự thật. Nhưng việc lạc đạn trong lúc giao chiến đối phó với chiến thuật “cài răng lược” của địch không thể không xảy ra. Sự thật không khó để giải thích!
– Theo “The 1974 Paracels Sea Battle: A Campaign Appraisal” của Toshi Yoshihara – US Naval War College Review Spring 2016, Vol. 69, No. 2: “Trận hải chiến Hoàng Sa đã nổ ra tại một điểm uốn lịch sử với những chính sách hỗn loạn của Trung Quốc. Đất nước vẫn còn quay cuồng kể từ Cách mạng Văn hóa khi cuộc chiến bùng nổ. Phong trào chính trị cực đoan đã tàn phá sự nhanh nhẹn của quân đội TC đến mức mà hải quân TC gần như đã trả giá rất đắt cho điều đó, với nỗi thất bại ở chiến dịch Hoàng Sa”
– Cũng theo chuyên gia Toshi Yoshihara (US Naval War College Review) các thập niên 1950, 1960 và 1970, Hải quân Mỹ thường tân trang chiến hạm cũ từ Chiến tranh thế giới thứ II rồi viện trợ cho đồng minh ở châu Á như Đài Loan, Việt Nam Cộng Hòa, Philippines… Vũ khí, hệ thống điện tử, hệ thống điều khiển của tàu viện trợ đều lỗi thời. Trong khi đó, Liên Xô, Trung Cộng và một số quốc gia Đông Âu đã trang bị cho hải quân họ theo quan điểm đổi tiện nghi, trang bị điện tử để lấy ưu thế về tốc độ, vũ khí và dùng những chiến thuyền nhỏ tấn công các chiến hạm lớn.
Trận chiến Hoàng Sa diễn ra chủ yếu trong lòng của vùng đảo Nguyệt Thiềm, chiến hạm TC nhỏ, nằm sát mặt nước nên rất khó bắn trúng, đồng thời dễ dàng nâng cao độ của hải pháo, tạo thế tấn công hữu hiệu. Hải pháo của chiến hạm VNCH nằm trên cao so với hải pháo TC nên khó xoay trở ở cự ly gần, vận chuyển chậm.
Hải pháo của chiến hạm Việt Nam Cộng Hòa nằm trên cao so với hải pháo Trung Quốc nên khó xoay trở ở cự ly gần. Hơn nữa, khi Mỹ chuyển giao các chiến hạm cho Hải quân Việt Nam Cộng hòa, các trang bị tối tân như pháo 76,2 ly bắn nhanh tự động với hệ thống radar kiểm soát (radar control) và khóa mục tiêu (lock-on system) đã bị tháo gỡ hoặc không còn sử dụng được. Khẩu 127 ly trên các tuần dương hạm của Việt Nam Cộng hòa đều phải điều chỉnh bằng tay nên nhịp bắn rất chậm, chỉ hữu hiệu trong việc yểm trợ hải pháo.
– Đánh giá đúng đắn về cấu trúc và hỏa lực của các chiến hạm Mỹ chuyển giao cho HQVNCH vốn là những chiến hạm cũ từ thời Đệ II Thế chiến, là những loại tàu tuần duyên, hộ tống, yểm trợ, tiếp liệu, trục lôi của Hoa Kỳ chẳng hạn như các chiếc WHEC khi chuyển cho VNCH trở thành những các chiến hạm tuần dương như HQ5, HQ16. Những chiến hạm này không phải là loại tàu có khả năng hải chiến (vì các cơ quan trọng yếu, phòng hành quân, phòng truyền tin nằm trên mặt nước). HQVNCH có 2 tàu chiến (DER) có khả năng hải chiến là HQ1 và HQ4 (các cơ quan trọng yếu, phòng hành quân, phòng truyền tin nằm dưới mặt nước). Nhưng hệ thống bắn nhanh tự động với hệ thống radar kiểm soát (radar control), khóa mục tiêu (lock-on system), các giàn phóng phi đạn trên HQ1 và HQ4 đã bị Hoa Kỳ tháo gỡ hoặc không còn sử dụng được khi chuyển giao cho HQVNCH. Tuy hải đoàn tham dự trận hải chiến của hải quân Trung Cộng có lực lượng, cấu trúc của các các chiến hạm tân tiến, có kỹ thuật và hỏa lực vượt trội hơn các chiến hạm tham chiến của HQVNCH nhưng địch phải thất bại trước sự dũng cảm và ý chí chống ngoại xâm mãnh liệt của ngưới lính VNCH.
Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH thời ấy đã viết như sau: “Hải Quân Việt Nam được trang bị cho nhiệm vụ chính yếu là tuần tiễu các vùng sông ngòi và ngăn chặn địch quân xâm nhập vào vùng duyên hải, thực sự không phải là đối thủ của một Hải Quân tân tiến như Hải Quân Trung Cộng trong một trận Hải chiến tuy ngắn ngủi nhưng ác liệt tại Hoàng-Sa vào năm 1974”.
– Có nhiều bài viết và sách báo quốc tế đã bênh vực cho lẽ phải chủ quyền của Việt Nam. Khi bàn luận về Hải lực Thế giới, giới quân sự tin tưởng ở những báo cáo chính xác của “Conway’s All the World’s Fighting Ships 1947-1982” vì uy tín quá lớn của Ban Biên Tập và Nhà Xuất-bản kỳ cựu hàng mấy thế kỷ qua. Họ tin vào pho sách bàn luận về chiến lược Hải lực Thế-giới “Conway’s All the World’s Fighting Ships 1947-1982” đã đề cao tinh thần kiên quyết của HQVNCH chống xâm lược. Chủ biên là Robert Gardiner viết rằng: “Không những chiến hạm Việt Nam đã dũng cảm bắn chìm hai tàu địch (271 và 389), gây hư-hại nặng cho 2 chiếc khác (274 và 396) của siêu cường Trung Quốc ngoài Hoàng Sa. Ðổi lại, thiệt hại của HQVNCH rất nhẹ, chỉ có Hộ Tống Hạm HQ-10 bị chìm..”
– Trung Cộng có đủ tất cả lực lượng hải, lục, không quân và tiềm thủy đỉnh (tàu ngầm) túc trực, sẵn sàng tham chiến. VNCH có chiến đấu cơ hiện đại nhất thời đó là loại F5E. Tuy nhiên chiến đấu cơ F5E có tầm hoạt động ngắn, đủ nhiên liệu bay ra Hoàng Sa rồi quay về mà không thể ở lại yểm trợ hoặc chiến đấu và hàng không mẫu hạm USS Enterprise của Ðệ Thất Hạm Ðội Hoa Kỳ đang có mặt trong vùng gần Hoàng Sa đã từ chối tiếp nhiên liệu cho phi cơ VNCH.
– Theo tài liệu Hoa Kỳ tiết lộ: Ngày 18/1/1974, Bộ Tư Lệnh Hải Quân VNCH biết rõ hàng không mẫu hạm USS Enterprise của Ðệ Thất Hạm Ðội Hoa Kỳ đang có mặt trong vùng gần Hoàng Sa. Phó đề đốc Diệp Quang Thủy, Tham mưu Trưởng Bộ Tư Lệnh Hải Quân đã hỏi Đại tá Kussan, tùy viên quân sự Mỹ tại Bộ Tư Lệnh Hải Quân rằng phi cơ chiến đấu của VNCH khi đi tác chiến tại Hoàng Sa có thể hạ cánh xuống hàng không mẫu hạm USS Enterprise để xin tiếp tế nhiên liệu được không ? Phó đề đốc Thủy cho biết Ðà Nẵng cách Hoàng Sa trên 150 hải lý, do đó, phi cơ chiến đấu sẽ không đủ nhiên liệu để có thể vừa đi vừa về, nếu phải mang theo hai bình xăng thì không thể tác chiến được.
Sau khi trao đổi với Tòa Ðại Sứ Mỹ ở Sài Gòn, Đại tá Kussan đã trả lời cho Phó đề đốc Diệp Quang Thủy như sau: Các chiến hạm Mỹ không thể tiếp tế cho Quân Lực VNCH vì hai lý do sau đây:
Lý do thứ nhất, Hiệp Ðịnh Paris cấm Hoa Kỳ không được tiếp tục dính líu quân sự hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam (điều 4).
Lý do thứ hai, Luật War Power Act ngày 2/9/1973 cấm Hoa Kỳ sử dụng lực lượng quân sự ở Ðông Dương. Vì thế, các chiến hạm Hoa Kỳ không thể tiếp tế nhiên liệu cho các chiến đấu cơ VNCH được. Các chiến hạm Hoa Kỳ chỉ có thể cứu giúp quân đội VNCH khi bị các tai nạn mà thôi. Tuy nhiên, đó phải là các tai nạn bình thường, còn các tai nạn do chiến đấu, các chiến hạm Hoa Kỳ cũng không thể cứu giúp được.
Tuy nhiên, theo lời kể lại cuộc trao đổi sau này giữa Phó đề đốc Diệp Quang Thủy và Phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại khi gọi điện thoại cho Phó đề đốc Diệp Quang Thủy. ông hoàn toàn phủ nhận những lời trích dẫn xuyên tạc đó. Phó đề đốc Diệp Quang Thủy nói:” Moa đâu có ngu để không biết là phi công mình đâu có thể đáp hàng không mẫu hạm được và phi cơ phải trang bị cơ phận đặc biệt và- Hoa Kỳ đời nào tham dự vào trận chiến khi đã rút hết quân khỏi miền Nam!” Tôi vì lịch sự không thu lời nói của đđ Thuỷ lúc đó nhưng Tú Gàn và Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng cần có bằng chứng hơn là chỉ nghe lời kể những điều không thực của vài người khác…”
Tuy tương quan lực lượng bất cân xứng nhưng các chiến hạm VNCH cũng đã gây tổn thất nặng nề cho hải quân Trung Cộng khi đánh chìm 2 chiếc 271 & 389, bắn hư hại nặng 2 chiếc 274 & 396 và tiêu diệt trọn Bộ chỉ huy Tham mưu của hải quân TC trên Soái hạm 274 ngay sau mười phút khai chiến, gây tử thương cho một Đô Đốc Chính trị viên (Tư lệnh phó Phương Quang Kinh) và nhiều sĩ quan cao cấp tham mưu trên Soái hạm, gồm có 7 Đại tá, 10 Trung tá, 2 Thiếu tá, 7 sĩ quan cấp úy tử thương và hàng trăm binh sĩ chết và bị thương. Đây là chiến thắng oanh liệt của HQVNCH trong trận Hải Chiến Hoàng Sa.
– Theo Đô đốc Kong Zhaonian, sau đó là Phó tư lệnh Hải quân Trung cộng, nguyên tắc chiến thuật không bắn phát súng đầu tiên, thể hiện nổi lo sợ về sự can thiệp của các chiến hạm Hoa Kỳ đang hướng đến quần đảo Hoàng Sa từ Philippines và sẽ làm phức tạp thêm quan hệ ngoại giao Trung-Mỹ. Cho nên Trung cộng đã dàn dựng trận chiến như là một “phản công tự vệ” khi ra lệnh các chiến hạm TC cố tình khiêu khích các chiến hạm HQVNCH. Bắc Kinh không ngờ thủ đoạn này đã làm Hải đoàn (271, 274, 389 và 396) của chúng bị tổn thất nặng nề, coi như hải quân Trung cộng PLAN bại trước hải quân VNCH. Điều này cho thấy Chính trị (quan hệ Ngoại giao) đã ảnh hưởng đến chiến lược của Trung Cộng trong trận Hải Chiến Hoàng Sa 1974.
II. Sau trận Hải Chiến (ngày 20-1-1974):
– Dù HQVNCH gây tổn thất nặng nề cho Hải đoàn Hoàng Sa của Hải quân Trung Cộng PLAN nhưng sau đó được lệnh phải rút lui rời khỏi Hoàng Sa trước khi hải quân TC xua một lực lượng hải quân hùng hậu mạnh gấp chục lần HQVNCH gồm hải lục không quân và tàu ngầm xâm chiếm Hoàng Sa. Các hạm đội của TC kéo đến ngay sau khi trận hải chiến chấm dứt và ngày hôm sau đã bắn phá lên các đảo và đổ bộ nhiều đại đội dân quân chiếm một số đảo tại Hoàng Sa (đảo Hữu Nhật, Hoàng Sa và Quang Ánh). Đội tàu đầu tiên được tập hợp lại trước đảo Hửu Nhật vào sáng 20 tháng Giêng. (tài liệu của Trung Cộng).
Lực lượng chiếm Hoàng Sa gồm có hạm đội Hải quân Nam Hải với 2 tàu săn tàu ngầm lớp Hải Nam mang số 281 và 282 thuộc sư đoàn đồn trú ven biển ở Sán Đầu (Shantou), cách gần 9 km tính từ Hải Nam đã tăng tốc đến Đảo Phú Lâm, tiếp nhiên liệu trên dọc đường đi ở Trạm Giang (Zhanjiang) và Ngọc Lâm (Yulin) để nhanh chóng có mặt tại Hoàng Sa và bắn chìm HQ-10 (trước đó chỉ còn một máy) thành bất khiển dụng và đang bốc cháy.
Ngoài hạm đội Nam Hải, còn có tàu ngầm lớp Romeo loại 033, bao gồm 157, 158, và 159 có căn cứ tại Ngọc Lâm, Hạm đội phương Đông tăng cường, trang bị SY-1 tên lửa dẫn đường Loại 01 lớp Chengdu và Mao Trạch Đông đích thân ra lệnh cho ba khu trục hạm từ eo biển Đài Loan đến quần đảo Hoàng Sa.(Theo tài liệu của Trung Cộng).
– Sau khi thăm dò thấy Hoa Kỳ hoàn toàn không can thiệp vào trận hải chiến, Bắc Kinh liền xua quân tiến chiếm Hoàng Sa.
Quyết tâm chiếm lấy Hoàng Sa vì Bắc Kinh từng nhấn mạnh giá trị chiến lược của quần đảo Hoàng Sa, với “ngồi chắn ngang tuyến thông tin liên lạc đường biển quan trọng”.
Theo bộ sách bách khoa toàn thư chính thức của hải quân Trung Cộng PLAN “Quần đảo Hoàng Sa phục vụ như là tấm bình phong của thiên nhiên bảo vệ Trung Quốc và cũng là một tiền đồn. Những tuyến đường biển và đường hàng không hướng tới Singapore và Jakarta từ bờ biển Trung Quốc phải đi qua khu vực này, tạo cho nó một vị trí vô cùng quan trọng”.
Cách đảo Đông Sa khoảng 660 cây số về phía tây nam , cách bãi ngầm Scarborough 550 km về phía tây, và cách chừng 700 km về phía tây bắc của quần đảo Trường Sa, quần đảo có vị trí quan trọng được xem như một bước đệm cần thiết đối với những hòn đảo khác do Trung quốc tuyên bố chủ quyền trên khắp Biển Đông, mở đường cho “Đường lưỡi bò” (Từ thời Mao trạch Đông và đang được tổng thống không ngai Tập Cận Bình tiếp nối).
– Sự chênh lệch về sức mạnh hải quân dường như giới quân sự quốc tế ủng hộ VNCH đã gây cho các nhà bình luận Trung Quốc ra sức thần thoại hóa cuộc chiến thắng của Hải Chiến Hoàng Sa. (Theo “The 1974 Paracels Sea Battle: A Campaign Appraisal” của Toshi Yoshihara)
– Đặc biệt giới quân sự quốc tế quan tâm đến những ký ức khác hẳn những phiên bản Trung cộng về các sự kiện Hải Chiến Hoàng Sa. Hơn nữa, những mâu thuẫn cũng đã tồn tại giữa những tường thuật, mô tả khác nhau của những người lính Trung Cộng từng tham chiến trận đánh đã gây cho giới bình luận đánh giá thấp tài liệu về Hải Chiến Hoàng Sa năm 1974 của Trung Quốc.
Hải chiến Hoàng Sa 1974 là cuộc chiến do Bắc Kinh kích động nhằm thăm dò phản ứng của Washington đối với biển Đông để đặt nền móng ‘Đường lưỡi bò’ của Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình thi hành và Tập Cận Bình đang tiếp tục tiến hành mộng bá quyền trên biển Đông.
Washington đứng ngoài Hải Chiến Hoàng Sa năm 1974 đã sai lầm trong chính sách về biển Đông thời đó, đưa đến sự lấn áp của một nước lớn (Trung Quốc) đối với các nước nhỏ quanh vùng, dẫn đến những căng thẳng tranh chấp chủ quyền lãnh hải tại biển Đông ngày nay.
III. Kết luận:
Qua những sự thật về Hải chiến Hoàng Sa 1974 được trình bày ở trên cho thấy HQVNCH đã chiến thắng trong trận ‘Hoàng Sa Hải Chiến’ tuy nhiên sau đó không thể bảo vệ được Hoàng Sa trước lực lượng khổng lồ của hải quân Trung Cộng đang kéo đến xâm lược Hoàng Sa.
Kịp thời ra lệnh triệt thoái các chiến hạm VNCH đang tham chiến tại Hoàng Sa về lại Đà Nẵng của Đề Đốc Tư Lệnh HQ Trần Văn Chơn để bảo tồn lực lượng là một quyết định thật sáng suốt và đúng binh pháp./.
Phần II
Hải chiến Hoàng Sa 1974 Đi vào lịch sử hào hùng chống ngoại xâm
Như đã trình bày nơi lời tựa Phần I: Để bài viết mang tính ‘sự thật’ khi viết về trận hải chiến, người viết mạn phép sử dụng bài viết hay câu chuyện tường thuật của những nhân chứng sống từng tham dự trận hải chiến trong phạm vi trách nhiệm hay trong nhiệm sở của chính họ trên chiến hạm trong lúc giao tranh như của Cựu Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại (sách Can Trường Trong Chiến Bại, bài phỏng vấn, youtube), HQ Đại úy Lê Văn Thự (Trung tâm Trưởng Trung Tâm Hành Quân của BTL vùng 1 Duyên Hải), Thiếu Tá Bộ Binh Phạm Văn Hồng (Trưởng toán Công binh của Quân đoàn 1 ra Hoàng Sa), HQ Tr/úy Phạm Ngọc Roa (HQ4), ThS/ GL Lữ Công Bảy (HQ4), HQ Th/úy Nguyễn Văn Qúy (HQ5), HQ Th/úy Phạm Công Minh (HQ5), HQ Tr/úy Hà Đăng Ngân (HQ10), HQ Th/úy Phạm Thế Hùng (HQ10), HQ Tr/úy Nguyễn Đông Mai (HQ10), HQ Th/úy Tất Ngưu (HQ10), HQ Đặng Quốc Tuấn (GL/HQ16) và Nhật ký Hải hành của HQ10 do một nhân viên HQ10 đào thoát gửi cho cô Thanh Thảo, con gái của cố HQ Thiếu tá Hạm Phó Nguyễn Thành Trí (HQ10).
I. Diễn biến khởi đầu trận hải chiến
Mùa hè năm 1973, một loạt sự kiện tranh chấp một số đảo tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa giữa VNCH và Trung cộng xảy ra.
Vào tháng Mười, hai tàu đánh cá của Trung cộng (TC), mang số hiệu Nam Ngư 402 và 407, xuất hiện gần nhóm Lưỡi Liềm (Crescent) và bắt đầu hoạt động ở đó. Các thuyền viên cắm cờ TC trên các đảo mà ở đó VNCH đã kiểm soát từ nhiều thập niên trước.
Tại quần đảo Hoàng Sa (HS) TC cũng đặt một căn cứ tiếp liệu trên đảo Quang Hòa (Duncan), nơi mà VNCH đã đuổi họ hơn một thập kỷ trước.
Ngày 10 Tháng 1 năm 1974, thuỷ thủ đoàn của hai tàu đánh cá TC xây dựng một nhà máy chế biến hải sản trên đảo Hữu Nhật (Robert).
Ngày 11/1/1974, Trung cộng tuyên bố quần đảo Tây Sa và Nam Sa (Hoàng Sa) và bãi cạn Macclesfield thuộc chủ quyền của TC. Ngay lập tức, Ngoại trưởng Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) Vương Văn Bắc lên tiếng bác bỏ lời tuyên bố vô căn cứ và lên án hành động gây hấn của TC.
Và sau đó hải quân TC liên tiếp xâm phạm lãnh thổ và lãnh hải Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) khi đổ bộ chiếm đóng các đảo Quang Hòa, Duy Mộng và Cam Tuyền dẫn đến leo thang căng thẳng tại Hoàng Sa lẫn mặt trận ngoại giao cho đến khi cuộc hải chiến bùng nổ.
II. Diễn biến những ngày trước trận Hải Chiến
– Ngày 15-1-1974:
Sáng sớm ngày 15-1, Tuần Dương hạm Lý Thường Kiệt HQ-16 (Trung tá Hạm trưởng Lê Văn Thự) được lệnh rời cảng Tiên Sa – Đà Nẵng đưa phái đoàn Công Binh của Quân Đoàn I ra HS khảo sát và nghiên cứu xây một phi trường trên đảo HS (Pattle) cho loại phi cơ vận tải loại nhỏ có thể đáp và cất cánh như C-130. Trên đảo này có một Trung đội Địa Phương Quân của Tiểu khu Quảng Nam trấn giữ và nhân viên đài Khí Tượng HS. Phái đoàn công binh gồm có Thiếu tá Phạm Văn Hồng, Sĩ quan Lãnh Thổ Phòng 3, Quân đoàn I, làm trưởng phái đoàn, một người Mỹ tên Gerald Kosh, nhân viên Tổng lãnh sự Hoa Kỳ tại Đà Nẵng, 2 sĩ quan và 2 hạ sĩ quan công binh. Tổng cộng 6 người.
HQ16 đến Hoàng Sa vào chiều tối ngày 15-1-1974.
Theo “The 1974 Paracels Sea Battle: A Campaign Appraisal, của Toshi Yoshihara (US Naval War College Review Spring 2016, Vol. 69)” lấy từ tài liệu của TC cho biết TC đã ngụy tạo nguyên nhân dẫn đến trận hải chiến, cho rằng: Ngày 15-1, HQ16 tuần tiễu tại nhóm Lưỡi Liềm (Crescent) bắt gặp các thuyền đánh cá số hiệu 402 và 407 của TC gần đảo Hữu Nhật (Robert Island), HQ16 ra lệnh cho hai tàu đó rời khỏi khu vực. Sau đó, HQ16 bắn cảnh cáo họ và nã pháo vào đảo Hữu Nhật, làm nổ tung cờ của TC cắm ở đó”.
– Ngày 16-1-1974:
Sáng sớm sau khi đưa toán Công Binh lên đảo, HQ16 ở ngoài khơi đi tuần quan sát quanh quần đảo HS, chờ đợi toán công binh xong công tác sẽ đón họ trở lại tàu quay về Đà Nẵng theo dự trù. (Toán công binh ở lại trên đảo qua đêm)
Khoảng 10 giờ sáng ngày 18-1, HQ16 phát hiện trên màn ảnh radar 1 vệt nhỏ đang di chuyển về hướng đảo Quang Hòa (Duncan). HQ16 theo dõi và phát hiện đó là tàu TC ngụy trang đánh cá, sơn mầu xanh lá cây đậm, vỏ bằng sắt, trang bị đại bác 25 ly, HQ16 dùng quang hiệu yêu cầu tàu Trung Cộng rời khỏi lãnh hải VNCH, tàu này không trả lời, HQ16 tiến lại gần thì tàu cá TC mới rời khỏi hải phận Hoàng Sa, chạy về hướng Đông-Bắc đảo Quang Hòa. HQ16 quan sát trên đảo Quang Hòa phát hiện đảo này đã bị chiếm đóng, trên đảo có mấy dãy nhà gỗ, có chòi canh vọng gác cao, cắm cờ Trung Cộng, rất nhiều người di chuyển qua lại, đang xây cất thêm doanh trại.
HQ16 báo cáo về Bộ Tư Lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên Hải (BTL/HQ/V1ZH) tình hình tại đảo Quang Hòa như kể trên và nhận được chỉ thị từ BTL/HQ/V1ZH tiếp tục quan sát các đảo khác trong quần đảo HS, ghi nhận các sự kiện sau:
– Đảo Vĩnh Lạc (Money) vì có nhiều rừng cây cao nên HQ16 quan sát từ phía Tây không thấy được suốt bờ phía Đông của đảo, do đó HQ16 phải đi vòng qua bờ phía Đông của đảo, HQ16 thấy trên đảo cắm nhiều cờ TC.
– Đảo Duy Mộng (Drummond) và Đảo Cam Tuyền (Robert) không có người, nhưng có cắm cờ Trung Cộng. Riêng đảo Duy Mộng (Drummond) có 2 tàu nhỏ số hiệu Nam Ngư 402 và 407, từ mũi đến lái có trang bị 3 giàn súng, tất cả được phủ lên bằng lưới đánh cá để ngụy trang đang bỏ neo sát bờ. Trên tàu đánh cá ngụy trang có nhiều người mặc áo thun quần đùi và quân phục lính TC. HQ16 dùng đèn quang hiệu, loa phóng thanh cầm tay và cờ hiệu yêu cầu họ rời khỏi hải phận của VNCH, chẳng những họ không tuân hành lại có nhiều hành động khiêu khích. HQ16 tiếp tục báo cáo về TTHQ/BTL/HQ/V1ZH và xin chỉ thị. Lập tức Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại (Tư lệnh HQ/V1ZH) chỉ thị Khu trục hạm Trần Khánh Dư HQ4 (Trung tá Hạm Trưởng Vũ Hữu San) đang đi tuần vùng biển Quảng Ngãi từ Sa Huỳnh đến Cù lao Ré (đảo Lý Sơn) lập tức cho tàu về ngay Đà Nẵng để đưa toán Biệt hải và Hải kích (người Nhái của Hải Quân) ra Hoàng Sa, đồng thời HQ-4 tăng cường cho HQ-16.
9h00 tối, HQ4 rời cảng Tiên Sa-Đà Nẵng đi Hoàng Sa.
Cùng ngày 16-1-1974 về mặt ngoại giao Ngoại trưởng Vương Văn Bắc gửi công hàm cho Chủ tịch Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc để lưu ý tình hình đang căng thẳng nghiêm trọng có khả năng đe dọa hòa bình và an ninh Việt Nam cũng như quốc tế, xảy ra bởi lời tuyên bố chủ quyền và hành động của Trung Quốc đang diễn ra tại Hoàng Sa.
– Ngày 17-1-1974:
Chính phủ VNCH tiếp tục gửi công hàm cho Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đề nghị ban bố mọi biện pháp thích hợp để ổn định tình hình.
HQ4 đến Hoàng Sa vào lúc 14h00 ngày 17-1-1974.
15h00 cùng ngày, HQ16 đến đảo Cam Tuyền, án ngữ tại phía Đông Nam để yểm trợ cho HQ4 đổ bộ 27 biệt hải lên phía Tây đảo Cam Tuyền trong khi hai tàu Trung Quốc 402 và 407 đang ở phía Nam đảo Cam Tuyền.
* Sau khi nhận được báo cáo từ các tàu số 402 và 407 về các hoạt động của Hải Quân VNCH, TC bắt đầu xuất kích lực lượng của mình. Ngày 16-1, hạm đội Nam Hải ra lệnh cho hai tàu săn tàu ngầm lớp Kronstadt số 271 và 274, đến Đảo Phú Lâm càng sớm càng tốt. Hai chiếc tàu này vội vã đến đích của chúng từ căn cứ hải quân Ngọc lâm (Yulin) trên đảo Hải Nam. Sau khi đón nhận lực lượng dân quân hàng hải vũ trang, đạn dược, tiếp liệu tại đảo Phú Lâm. Vào ngày hôm sau, hai tàu số 271 và 274 đến nhóm Lưỡi Liềm. Có 2 phi cơ chiến đấu J-6 (MiG-19, phiên bản Trung Quốc) yểm trợ.
18h00, HQ4 phát hiện hai tàu Trung Quốc mang số 271 và 274 từ đảo Quang Hòa tiến về đảo Cam Tuyền. HQ4 dùng quang hiệu yêu cầu các tàu này rời khỏi lãnh hải VNCH, tàu TC cũng dùng quang hiệu trả lời rằng các đảo này thuộc chủ quyền của họ và yêu cầu chiến hạm VNCH rút lui. Tiếp đó, các tàu này chạy quanh và di chuyển chặn đầu HQ4, bất chấp quy tắc hàng hải quốc tế.
Trước sự ngoan cố và khiêu khích của tàu Trung cộng, HQ4 dùng mũi ủi ngang hông tàu địch ra xa. Thấy sự quyết liệt của HQ16 & HQ4, tàu địch bỏ chạy về phía Nam của 2 đảo Duy Mộng và Quang Hòa và thả trôi tại đó.
Chiều ngày 17/1/1974, HQ 4 cho đổ bộ 20 chiến sĩ Người Nhái lên đảo Vĩnh Lạc (Money), thu dọn cờ Trung Cộng, cắm cờ Việt Nam Cộng Hòa.
Tối 17-1 (theo Lời kể của HQ Đặng Quốc Tuần, Giám Lộ Tuần Dương Hạm HQ16):
“HQ16 dùng xuồng đổ bộ 10 nhân viên cơ hữu lên đảo Vĩnh Lạc (đảo Money), do HQ Trung úy Lâm Trí Liêm chỉ huy để phá hủy và gom góp các chứng cớ ngụy tạo, nhổ cờ Trung Cộng và cấm lại cờ VNCH, tổ chức phòng thủ trên đảo. Sau trận hải chiến HQ16, HQ4 và HQ5 nhận được lệnh từ BTL/HQ/V1ZH rời vùng trở về Đà Nẵng bỏ lại toán công binh của Thiếu tá Bộ Binh Phạm Văn Hồng tại đảo HS và 10 nhân viên cơ hữu của HQ16 trên đảo Vĩnh Lạc….”
(Xem lý do vì sao HQ16 bỏ lại 10 nhân viên cơ hữu trên đảo Vịnh Lạc và cuộc đào thoát 10 ngày đêm gian nguy trên biển trong “Phần 3. Cuộc tấn công của Phân đoàn 2 gồm HQ16, HQ10 diễn ra ở phía Bắc đảo Quang Hòa” phía cuối bài viết).
Ngày 16-1, chiến hạm HQ5 Trần Bình Trọng (Trung tá Hạm trưởng Phạm Trọng Quỳnh) đang ở Vũng Tàu thì được lệnh ra Ðà Nẵng. HQ5 cập cầu quân cảng Tiên Sa chiều ngày 17-1 và Hạm Trưởng Phạm Trọng Quỳnh lên BTL/HQ/V1ZH họp hành quân và sau đó Hạm trưởng Quỳnh trở về tàu với lệnh Hành Quân Trần Hưng Ðạo 47 do HQ Đại tá Hà Văn Ngạc chỉ huy 2 Hải đoàn Đặc nhiệm và các toán Biệt Hải và Hải Kích của HQVNCH, gồm:
– Hải Ðoàn Ðặc Nhiệm I: HQ4, HQ16, HQ5 và HQ10.
– Hải Ðoàn Ðặc Nhiệm II: HQ1, HQ6, HQ17, HQ11 (ghi chú: Trận hải chiến xảy ra và kết thúc nhanh chóng trong khi các chiến hạm của ĐN -II còn ở xa, chưa đến Ðà Nẵng, cho nên Hải đoàn này ít được nhắc đến trong trận Hải chiến Hoàng Sa [CHHS]).
– Và lực lượng Biệt Hải cùng toán người Nhái Hải quân gồm 49 người do HQ Trung úy Nguyễn Minh Cảnh làm trưởng toán.
Giữa khuya ngày 17-1, HQ10 Nhật Tảo (HQ Thiếu tá Hạm trưởng Ngụy Văn Thà) và HQ5 Trần Bình Trọng nhận lệnh từ Tư lịnh HQ/V1ZH (Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại) rời quân cảng Tiên Sa đi Hoàng Sa. Trên HQ5 có HQ Đại Tá Hà Văn Ngạc, HQ5 trở thành Soái hạm. HQ5 ra đến Hoàng Sa vào khoảng 3 giờ chiều ngày 18-1.
* Về phía Trung cộng, 2 tàu săn tàu ngầm K271 và 274 đến nhóm Lưỡi Liềm vào tối 17-1 và đổ bộ bốn tiểu đội dân quân vũ trang (mỗi tiểu đội mười thành viên) vào các đảo Quang Hòa, Duy Mộng, và Quang Hòa Tây vào lúc xế nửa đêm rạng ngày 18 tháng 1. Đồng thời, hai tàu quét mìn xa bờ Loại 010 có căn cứ ở Quảng Châu, số hiệu 389 và 396, chạy đến quần đảo Hoàng Sa để tăng cường cho 2 chiếc 271 và 274 (Theo tài liệu của TC)
Ngày 18-1
– Sáng 18-1 theo yêu cầu của Đại Tá Ngạc toán công binh trên HQ16 được chuyển sang HQ5. Đến chiều tối 18-1, toán công binh lại được đưa lên đảo Hoàng Sa để tránh cuộc hải chiến có thể xảy ra bất cứ lúc nào (Theo Thiếu tá Phạm văn Hồng, trưởng toán công binh cho biết sự kiện đưa toán công binh trở lên đảo HS là yêu cầu của Gerald Kosh, nhân viên Sứ quán người Mỹ? Và khoảng 1 giờ trưa ngày 19-1, toán công binh cùng các nhân viên đài khí tượng và trung đội Địa Phương quân bị quân Trung cộng bắt làm tù binh đưa về Quảng Châu. Trong toán bị bắt về có Trung úy Lê văn Dũng, trưởng toán Hải kích bị bắt trên đảo Cam Tuyền khi đổ bộ từ HQ4 lên đảo. Sau đó chúng chuyển tù binh VNCH về trại tù Thu Dung, huyện Huyền Hóa tỉnh Quảng Châu…).
– Cùng ngày, sáng ngày 18-1, Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu viếng thăm BTL/V1ZH. Ngoài Tổng Thống Thiệu còn có sự hiện diện của Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân Khu I và Trung tướng Lê Nguyên Khang, đại diện Bộ Tổng Tham Mưu đã được Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại TL/V1ZH thuyết trình khoảng 45 phút về tình hình bất thường tại quần đảo Hoàng Sa: “Sự xuất hiện tàu TC và dân quân TC trên một số đảo”. Trước khi rời BTL/V1ZH để tiếp tục chương trình thăm viếng Vùng II Chiến Thuật Tổng thống Thiệu ra lệnh cố gắng ban đầu dùng thái độ ôn hòa yêu cầu các tàu và người của TC trên các đảo lập tức rời khỏi lãnh hải của VNCH, nếu cần, có thể dùng cả vũ lực đánh đuổi chúng.
– Lúc 4h30 một trong bốn tàu Trung Quốc rời đảo Quang Hòa tiến về HQ4. Nhưng sau khi HQ4 tăng tốc tiến đến chặn đầu tàu địch thì tàu này rút lui về phía đảo Quang Hòa. (Theo tài liệu TC)
– 8h45, HQ16 phát hiện thêm một tàu TC di chuyển phía Đông Nam đảo Duy Mộng. Trên đảo đã thấy cờ Trung Quốc.
Khoảng 10h sáng, 4 chiến hạm TC lại xuất hiện, gồm 2 chiếc Kronstadt 271 và 274 và 2 chiếc khác mang số 389 và 396. Cả 4 chiến hạm TC đều di chuyển cản đường và chia cắt đội hình vận chuyển của các chiến hạm VNCH. Hành động khiêu khích này của các tàu TC đã gây ra những va chạm thân tàu của hai bên:
– HQ16 và K-271 va chạm 2 hông tàu với nhau.
-HQ4 đụng mũi vào hông sau của tàu T-389, làm gãy mấy trụ giây an toàn của tàu này.
Sau sự va chạm các chiến hạm của ta và địch, 4 chiến hạm TC cùng di chuyển về hướng đảo Quang Hòa (Duncan) và thả trôi ở đó, nơi có 2 tàu cá ngụy trang NG-402 và 407.
– 10h30, HQ4 hoàn tất đổ bộ toán 15 nhân viên cơ hữu lên tăng cường giữ đảo Cam Tuyền và rút tất cả toán biệt hải trở về chiến hạm. Trong khi tàu TC mang số hiệu 407 tiến đến khiêu khích HQ16.
– 15h00 cùng ngày, Đại tá Hà Văn Ngạc và HQ5 đến Hoàng Sa. Sau đó Hải đoàn gồm HQ4, HQ5 và HQ16 tiến về Quang Hòa với hy vọng có thể đổ bộ toán hải kích lên đảo thì gặp hai tàu K-271 và K-274 tiến tới chặn đường. Hai bên liên lạc quang hiệu, xác nhận Hoàng Sa là lãnh hải của mình và yêu cầu phía đối phương phải rời ngay lập tức. Với hành động cố tình khiêu khích, chặn đường có thể gây nguy hiểm đụng tàu, các chiến hạm VNCH tạm thời lui về phía Nam đảo Hoàng Sa chờ HQ10 nhập vùng và tiếp tục theo dõi các chiến hạm TC.
– 19h15, HQ5 phát hiện thêm hai chiến hạm TC loại T43 cải biến mang số 389 và 396.
– 20h00, HQ10 Nhật Tảo nhập vùng (HQ10 và HQ5 cùng khởi hành từ cảng Tiên Sa – Đà Nẵng đi HS vào giữa khuya 17-1. Nhưng HQ10 trong tình trạng chiến hạm đang chuẩn bị về SaiGon sau chuyến công tác dài hạn tại vùng 1 duyên hải và HQ10 chỉ còn một máy chánh (còn một giò) nên tốc độ vận chuyển rất chậm, phỏng định khoảng 10 knots/g, cho nên HQ10 đến Hoàng Sa vào lúc 10 giờ tối ngày 18-1.
– 23h00 Đại tá Hà Văn Ngạc nhận lệnh từ trung tâm Hành quân (TTHQ) tái chiếm đảo Quang Hòa một cách ôn hòa. Đại tá Ngạc liền chia hải đoàn ra làm hai Phân đoàn đặc nhiệm chuẩn bị hành quân vào sáng 19-1: Phân đoàn 1 gồm HQ4 và HQ5 có mặt tại phía Nam và Tây Nam đảo Quang Hòa để đổ bộ hai toán hải kích và biệt hải. Phân đoàn 2 gồm HQ10 và HQ16 do HQ Trung Tá Lê Văn Thự chỉ huy với nhiệm vụ giữ nguyên vị trí trong lòng vùng đảo Nguyệt Thiềm để yểm trợ cho việc đổ quân của HQ4 và HQ5. Lệnh còn nhấn mạnh rằng: “Nếu cuộc đổ bộ không thành thì các chiến hạm sẽ dùng hỏa lực tiêu diệt các chiến hạm của địch trước khi đổ bộ thanh toán quân TC trên các đảo”.
Đêm 18-01-1974 các chiến hạm VNCH nhận lệnh làm tối chiến hạm (darken ship) chờ sáng sớm hôm sau (19-1) xuất quân. Một đêm trôi qua một cách yên lặng.
III. Ngày 19-1 – Trận hải chiến bùng nổ
– 1. Tình hình vài giờ trước khi hải chiến bùng nổ:
Khoảng gần sáng có hai lần 2 phi cơ địch (MiG 19, theo tài liệu của TC) bay ngang vùng HS (Theo HQ Trung úy Nguyễn Đông Mai và HQ Thiếu úy Tất Ngưu, sĩ quan của HQ10 xác nhận trong bài viết của hai tác giả).
– Sáng ngày 19-1, HQ4 đổ biệt hải và Người Nhái hải quân lên đảo Duy Mộng.
– 7h30 sáng, 30 hải kích trên HQ5 đã đổ bộ lên đảo Quang Hòa và tiến sâu vào đảo khoảng vài chục mét thì bị lính TC trên đảo dàn ngang chận lại. Hai bên dằn co gần cả tiếng đồng hồ. Càng lúc lính TC càng đông và đẩy lùi toán hải kích VNCH trở lui về bờ biển, nơi vừa đổ bộ. Thấy tình hình gay go trên đảo, Đại tá Ngạc ra lệnh toán Người Nhái của Trung úy Lê Văn Đơn đổ bộ lên phía bờ Đông của đảo. Toán người Nhái của Trung úy Đơn đang khó khăn vượt qua cái đầm để tiến vào bãi biển thì lính TC trên đảo nổ súng làm Trung úy Lê Văn Đơn và Hạ sĩ Nhất người Nhái Đỗ Văn Long (Long Sandwich) trúng đạn tử thương tại chỗ và 3 Người Nhái khác bị thương. Đại tá Ngạc thấy tình hình đổ bộ Biệt hải và người Nhái lên đảo trở thành tấm bia đạn cho lính TC tác xạ từ trên đảo, cho nên ông báo cáo về TTHQ xin lệnh rút Biệt Hải và Người Nhái trở về chiến hạm, ngoại trừ xác của hạ sĩ Nhất Đỗ Văn Long không mang được về tàu. (Theo lời kể của Thượng sĩ Giám lộ Lữ Công Bảy trên HQ4)
Trong khi từ phía Bắc đảo, lính TQ ồ ạt đổ quân lên đảo, trong khi HQ4 và HQ16 báo cáo không thể đổ bộ quân lên đảo được.
Trên mặt biển đã thấy HQ16 và HQ10 đang tiến về phía Tây Nam đảo Quang Hòa, theo sau là 4 tàu chiến TC đang tiến vào đội hình chiến hạm của HQVNCH.
– Khoảng 9h45 hai tàu 271 và 274 tiến đến HQ4. Các nòng súng đại bác 100 ly và nhiều đại bác 37 ly của tàu địch trực thẳng vào HQ4.
Theo tường thuật của HQ Đại úy, Trung tâm Trưởng trung tâm Hành quân BTL/HQ/V1ZH:
“Cũng trong lúc này, từ Đà Lạt Tổng Thống Thiệu gọi điện thoại về TTHQ/HQ/VIDH hỏi :
– Tình hình Hoàng Sa như thế nào?
Tư Lệnh HQ/V1ZH, Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại trả lời trực tiếp với Tổng Thống Thiệu:
– Chúng ta đổ bộ lên đảo có quân TC đã bị địch kích trên đảo nổ súng làm cho 2 chiến sĩ Người Nhái tử thương.
Nghe tin xấu này Tổng Thống Thiệu hỏi tiếp:
– Như vậy Hải Quân đã phản ứng gì chưa?
Tổng thống ra lệnh cho Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại toàn quyền dùng tất cả biện pháp cứng rắn thích ứng đối với địch (TC). Nếu cần, dùng cả vũ lực để chứng minh cho Trung cộng biết rằng đây là lãnh hải của VNCH và nhất định không để mất một tấc đất vào tay giặc.”
Theo Phó Đề Đốc Thoại cho biết với câu hỏi ngắn gọn và lệnh sau cùng của Tổng Thống Thiệu như trên đã đưa Đề Đốc Thoại đến quyết định khai hỏa, mặc dù ông nhìn thấy được tương quan bất cân xứng giữa hai lực lượng tham chiến: phía VNCH chỉ có 4 chiến hạm tham chiến và 4 chiến hạm khác đang trên đường ra HS tiếp ứng phải đương đầu với lực lượng hùng hậu của Trung cộng có đủ tất cả lực lượng hải, lục, không quân và tiềm thủy đỉnh (tàu ngầm) túc trực, sẵn sàng tham chiến của Hạm đội Nam Hải.
Do đó, đúng 10 giờ sáng ngày 19-1-1974 Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại ra lệnh cho Đại Tá Ngạc nổ súng trước để đánh phủ đầu địch, chiếm ưu thế. (Lệnh này đã đưa đến kết qủa Hải quân VNCH đánh bại 4 chiến hạm TC sau 30 phút giao chiến và kịp thời rút lui trước khi Hạm đội Nam Hải kéo đến).
Nhận được lệnh khai hỏa từ Tư lịnh Hồ Văn Kỳ Thoại, Đại Tá Ngạc lập tức khai triển chiến thuật tấn công phủ đầu: HQ 10 sẽ tác xạ lên đảo Quang Hòa có quân TC để làm hiệu lệnh cho HQ4, 5 và HQ16 tác xạ thẳng vào các chiến hạm địch.
Đúng 10h25, Đại tá Ngạc ban lệnh khai hỏa. Trận hải chiến bùng nổ ác liệt…..
2. Cuộc tấn công của Phân đoàn 1 gồm HQ5, HQ4 diễn ra ở phía Tây Nam đảo Quang Hòa:
Tàu của VNCH đã tìm cách giữ khoảng cách, nhưng tàu TC nhanh chóng tiến đến từ vài ngàn mét đến hàng trăm mét. Tàu địch 271 và 274 tập trung hỏa lực vào HQ-4, trong khi hai chiếc 396 và 389 tấn công HQ-16. Các đơn vị hải quân TC (PLAN) nhắm vào các thiết bị thông tin liên lạc, radar và đài chỉ huy nhằm bịt mắt và phá hoại những liên lạc của đối phương. Trong hỏa lực dử dội bắn lẫn nhau, HQ-4 bắt đầu bốc khói… (Theo tài liệu TC)
– HQ4 trong khoảnh khắc tử chiến hạm, Hạm trưởng Vũ Hữu San cho tàu vận chuyển linh hoạt theo hình chữ chi (Z) nên tránh được nhiều loạt hải pháo của địch. Tuy nhiên có một trái đạn 100 ly của tàu địch bay lọt vào ống khói nổ tung làm mảnh đạn văng vào đài chỉ huy làm HQ Trung úy Roa bị thương nơi chân. Các mảnh đạn khác phá sập màn hình radar. Dây liên lạc các ổ hải pháo bị mảnh đạn cắt đứt, không liên lạc được. (Theo HQ Nguyễn Đông Mai trên HQ10 tường thuật)
Phía tàu chiến TC cũng bị thiệt hại nặng. Trong làn đạn 76,2 ly của HQ4 và 127 ly của HQ5, chiếc Kronstadt 271 bị trúng đạn bốc cháy dữ dội và chìm. (Theo tài liệu của Trung cộng)
Sau ít phút giao tranh, hải pháo 76,2 ly của HQ4 ở sân mũi gặp trở ngại và phải chờ sửa chữa. Tuy vậy, HQ4 vẫn tận dụng hỏa lực còn lại, tiếp tục bám sát mục tiêu của mình trong tầm đại liên.
– 10h40, khẩu 76,2 ly của HQ4 ở sân lái sau bị hỏng bộ phận tự động nên phải điều chỉnh bằng tay, bắn từng phát một nặng nề và chậm chạp. Lập tức Đại tá Ngạc đã ra lệnh cho HQ4 rút lui khỏi vòng chiến để sửa chữa
và chỉ thị HQ5 yểm trợ cho HQ4 rút ra xa. Thấy hoả lực chính của HQ4 bị trở ngại tác xạ, tàu TC 274 bám theo HQ4 thì bị HQ5 cắt đuôi HQ4 chận tàu 274 của địch.
Những khối cầu lửa từ mũi HQ 5 bắn ra từ đại bác 127 ly bay thẳng vào 274. Ngoài chiếc 271 đang bốc cháy, đang chìm lại thêm chiếc 274 trúng đạn sau lái làm 274 loay hoay rồi quay ngang lãnh đủ hàng loạt đạn đại liên từ HQ4, 274 bốc cháy và dạt vào bờ san hô phía Nam đảo Quang Hòa. (Theo HQ Lữ Công Bảy, ThS Giám lộ trên HQ4 kể)
HQ4 tuy bị trúng nhiều đạn nhưng máy móc chính và hệ thống truyền tin vẫn điều khiển tốt.
Phòng truyền tin của HQ5 bị trúng 2 trái đạn 100 ly làm hư hại máy siêu tần số không còn liên lạc được và máy truyền tin trên đài chỉ huy cũng bị trúng đạn bể nát, Đại tá Ngạc phải vào Trung tâm chiến báo (CIC) dùng máy VRC46 để chỉ huy.
– 11h00, chiếc 274 của TC được chiếc 389 tiếp trợ, hợp lực quay lại tấn công HQ5. Một mình đối đầu với 2 tàu địch (274 và 389), HQ5 bị “thương” nặng, ụ tháp hải pháo 127 ly bị trúng đạn. Tuy HQ5 bị trúng nhiều đạn nhưng phản công dữ dội khiến tàu địch thiệt hại nặng phải chùn lại. Soái hạm K-274 bị hư hại nặng, toàn bộ Bộ Chỉ huy Mặt trận của TC bị tử thương (Trong đó có Phong Songbai, Tư lệnh phó Mặt trận, kiêm Chính trị viên thiệt mạng).
Trong khi đó, chiếc 389 sau những đòn bị bắn trúng trực diện, 389 rơi vào tình trạng nguy ngập. Con tàu bị đánh cho tơi tả, lật nghiêng một cách nặng nề và thuỷ thủ đoàn của nó không thể dập tắt lửa. Bất chấp nguy cơ của một vụ nổ, hai tàu đánh cá 402 và 407 với sự yểm trợ hỏa lực yếu ớt giúp tàu quét thủy lôi 389 bị hư hại nặng ủi vào bãi đảo Vĩnh Lạc. (Theo tài liệu của Trung cộng)
Nhận được lệnh rút lui từ Trung tâm Hành quân, với tình trạng HQ10 bất kiển dụng, HQ16 bị nước vào hầm máy, tàu nghiêng, HQ4 và HQ5 trúng nhiều đạn chỉ còn hỏa lực rất hạn chế, Chỉ huy trưởng Hải đội Đặc nhiệm Đại tá Ngạc ra lệnh cho HQ5 cùng HQ4 rút về hướng Đông Nam. HQ4 có 2 nhân viên tử thương: Th/úy Nguyễn Phúc Xá (Trưởng khẩu 20 ly), HS1/VC Bùi Quốc Danh (Xạ thủ) và Biệt hải Nguyễn Văn Vượng (Xung phong tiếp đạn). Và HQ5 cũng có 3 nhân viên thương vong: Tr/uy Nguyễn Văn Đồng, ThS/TP Nguyễn Phú Hào và TS1/TP Vũ Đình Quang.
3. Cuộc tấn công của Phân đoàn 2 gồm HQ16, HQ10 diễn ra ở phía Bắc đảo Quang Hòa:
Đúng 10h25, đại tá Hà Văn Ngạc ra lệnh tấn công các chiến hạm Hải quân TC tại Hoàng Sa. HQ16 và HQ10 đứng yên, mọi ổ súng lớn, nhỏ từ mũi tàu ra sau lái đều nhắm bắn vào tàu địch. Hải pháo giữa chiến hạm hai bên nã đạn trực tiếp không ngừng.
Sau một hồi giao tranh, hai chiếc 396 và 389 bỏ chạy khỏi HQ-16 và sau đó quay vào tấn công HQ10.
HQ-16 đối đầu rất ác liệt với tàu địch. Hạm trưởng Thự cho chiến hạm quay ngang đưa phía hữu mạn của tàu hướng về ba tàu địch để tận dụng tất cả súng từ mũi ra sau lái. Tuy nhiên bị bất lợi là HQ16 hứng nhiều đạn của đối phương. Sau một hồi giao tranh ác liệt HQ16 bị trúng đạn ở hầm đạn 127 ly phía trước mũi nên nước biển tràn vào mỗi khi tàu chúc xuống. Hỏa lực chính bất khiển dụng. Sau đó từ hầm máy HQ16 báo cáo trúng đạn ở lườn tàu phía hầm máy bên hữu dưới mặt nước. Nước tràn vào tàu. HQ16 bị nghiêng 15 độ đến 20 độ. (Do trái đạn 127 ly từ HQ5 bắn lạc xuyên qua lườn và chui vào hầm máy. May mắn viên đạn không nổ). Từ lúc này, HQ-16 chỉ còn một máy, sức mạnh tác chiến yếu hẳn. Hệ thống vô tuyến cũng tê liệt vì máy phát điện hư. Nhận thấy HQ16 mất khả năng chiến đấu, Hạm trưởng Thự cho tàu tạm lùi khỏi lòng chảo với 2 chiến sĩ thương vong: TS/ĐK Trần Văn Xuân và HS/QK Nguyễn Văn Duyên.
HQ16 bi hư hại nặng và nghiêng 20 độ nên không thể tiến vào đảo đón toán công binh của Thiếu tá Hồng trên đảo Hoàng sa và 10 nhân viên cơ hữu của HQ16 đổ bộ lên đảo, nên Hạm trưởng HQ16 Lê Văn Thự lên máy truyền tin PRC-25 giao toàn quyền quyết định toán nhân viên cơ hữu HQ16 còn kẹt trên đảo cho trưởng toán HQ Trung úy Liêm. Trước hỏa lực qúa mạnh của tàu địch bắn phá vào đảo để dọn đường cho bộ binh đổ bộ chiếm đảo, tối ngày 20-1 trung úy Liêm quyết định rời khỏi đảo trên xuồng cao su. Sau 10 ngày trôi trên biển được ngư phủ người Việt vớt tại Mũi Yến ở Qui Nhơn đưa vào quân cảng Qui Nhơn và được chuyển đến Quân Y viện Qui Nhơn cấp cứu. Lúc 3h00 chiều quản kho Nguyễn văn Duyên đã từ trần khi được ngư phủ Đà Nẵng cứu vớt lên ghe.
HQ10 (dựa theo tường thuật của HQ Trung úy Nguyễn Đông Mai và HQ Thiếu úy Tất Ngưu thuộc nhân viên HQ10):
– 3h50 sáng ngày 19-1, nhân viên đã sẵn sàng và đầy đủ ở nhiệm sở tác chiến.
– 4h30 và 5h30 có 2 phi cơ bay ngang vùng ở cao độ và lúc 6h00 lại có 2 phi cơ bay ngang, nhưng lần này bay thật thấp (MiG 19 của TC). Tất cả các họng súng 76.2ly, bô-pho 40ly, 20ly, đại liên 30 trên HQ10 bám sát 2 phi cơ lạ cho đến khi chúng mất hút ở xa tầm nhìn.
Khoảng thời gian từ 4 giờ khuya đến 6 giờ sáng, chiến hạm vẫn tiến, và nhân viên vẫn cảnh giác trước phi cơ của địch. Trời chưa sáng hẳn, hải đoàn của VNCH lập thành đội hình. Bên địch (Trung Cộng) gồm bốn chiến đỉnh 389, 396, 271, và 274, vẫn chạy đan qua đan lại khiêu khích, có lúc tàu địch như muốn đâm thẳng vào chiến hạm của VNCH. Sau một thời gian kèm sát bên nhau, địch và ta dường như đang tìm những vị thế thích hợp để tấn công nhau.
Sau một loạt đèn hiệu được choé sáng từ xa, các tầu đánh cá ngụy trang di chuyển về phía Bắc và bốn chiến đỉnh của địch vận chuyển song song để bảo vệ.
Bấy giờ các ổ súng trên HQ10 nhận được lệnh chuẩn bị tác xạ vào các tàu địch từ hạm trưởng. Lệnh của hạm trưởng Thà: “Bất kể nơi nào, thấy tàu địch nào trong tầm thì cứ bắn”, mục tiêu chính của HQ10 là chiếc T-396. Những chiếc hạm của ta và địch tiếp tục quần thảo nhau trong tư thế sẵn sàng tác xạ.
– 10h24 nhận được lệnh khai hỏa từ Đại Tá Ngạc, Hạm trưởng Ngụy Văn Thà HQ10 lập tức ra lệnh các ổ súng trên tàu tác xạ tới tấp vào tàu địch. Những tiếng súng ầm ầm vang dội, những tia sáng thi nhau bay về phía địch, những đóm lửa lần lượt bao chụp lên chiến hạm địch. Một chiến hạm của địch bốc cháy.
– HQ16 rút xa ra khơi, chiếc 396 quay trở lại dồn nỗ lực để tấn công HQ10. Lợi dụng sự bất lợi về vận chuyển và hỏa lực yếu của HQ10, 396 và 389 của TC tấn công tới tấp vào HQ10. Mười phút sau Đài chỉ huy và phòng lái của HQ10 trúng đạn làm Hạm trưởng Ngụy Văn Thà và hầu hết các sĩ quan, hạ sĩ quan và nhân viên ngành giám lộ và vận chuyển có mặt trên đài chỉ huy và phòng lái đều tử trận, ngoại trừ Hạm phó Nguyễn Thành Trí bị thương nặng nơi mặt, bụng và chân phải (mất một miếng thịt ở chân phải).
Ngoài đài chỉ huy và phòng lái, hầm máy và kho đạn cũng bị trúng đạn bốc cháy. Đạn nổ văng tứ tung và khói đen bốc mịt mù khắp con tàu. Từ vị trí cách HQ 10 khoảng vài trăm mét, không bỏ lỡ cơ hội HQ10 bị “trọng thương”, 389 của TC tiến vào phía sau lái phải của tàu HQ10. Thấy tàu địch có ý định cặp vào mình, HSI/VC Lê Văn Tây (xạ thủ pháo 20ly) và HS/VC Ngô Văn Sáu (tiếp đạn) không nao núng, tiếp tục ghì nồng súng 20 ly bắn xối xả vào 389.
HQ10 và 389 sát với nhau rơi vào tình trạng cận chiến. Lính TC trên tàu T-389 ném lựu đạn, bắn tiểu liên cầm tay tới tấp vào HQ10 với mục đích thanh toán các ổ súng còn lại.
Tuy trúng nhiều đạn và thiệt hại nặng nhưng HQ10 không nao núng dùng hải pháo 20 ly, đại liên, phóng lựu M79 và M16 nã đạn ác liệt vào tàu 389 của địch làm nó bốc cháy, khói đen mù mịt.
“Rầm!!!” HQ10 đâm mạnh mũi tàu vào sau lái 389 của tàu địch làm nó loay hoay dạt ra xa không điều khiển được. Đồng thời bị trúng thêm đạn, 389 bốc cháy, xoay vài vòng rồi dạt vào bãi san hô Tây Bắc đảo Duy Mộng. HQ10 cũng bị thiệt hại nặng nề, hai máy bất khiển dụng, tàu bốc cháy và trôi lình bình trên biển…
11h10, HQ16 trong tình trạng nguy kịch được lệnh rời khỏi vùng. Vì tàu trúng nhiều đạn và tàu nghiêng 20 độ có cơ nguy bị chìm nên không thể tiếp cứu HQ10 được, đành bỏ lại HQ10. Trong khi hầm máy HQ10 đang bốc cháy, kho đạn nổ, tàu vô nước sắp chìm. Hạm phó Nguyễn Thành Trí ra lệnh cho nhân viên đào thoát trước khi hai chiếc 281 và 282 của TC đến từ hạm đội Hải Nam tấn công HQ10 ba lần cho đến khi HQ10 chìm hẳn vào lúc 3 giờ chiều, mang theo thân xác của Hạm trưởng Ngụy Văn Thà và 54 chiến sĩ hải quân VNCH chìm vào lòng đại dương. (28 người đào thoát và sau đó Hạm phó Nguyễn Thành Trí và 8 nhân viên lần lượt qua đời trên bè đào thoát hoặc trên Tầu Hòa Lan.
Sau 4 ngày 3 đêm nằm bè trôi dạt trên biển được thương thuyền Kopionella của Hoà Lan cứu vớt và đã thực hiện nghi thức thủy táng Hạm phó Nguyễn Thành Trí).
* Theo tài liệu TC: Hải quân PLAN – Hải quân của Quân đội Giải phóng Nhân dân (Hải đoàn đang tham chiến) đã phải cầu viện đến Hạm đội Nam Hải với hai tàu săn tàu ngầm lớp Hải Nam, số 281 và 282, thuộc sư đoàn đồn trú ven biển ở Sán Đầu (Shantou), cách gần chín trăm cây số tính từ Hải Nam. Hai chiến hạm này tăng tốc đến Đảo Phú Lâm, tiếp nhiên liệu trên dọc đường đi ở Trạm Giang (Zhanjiang) và Ngọc Lâm (Yulin) để nhanh chóng có mặt tại Hoàng Sa trước khi hạm đội Nam Hải đến sau đó.
* Có bài viết HQ10 đâm vào tàu địch 389 là do Hạm phó Nguyễn Thành Trí, mặc dù ông đang bị thương nặng nhưng đã cố gượng đứng lên khi đoán được ý định của giặc muốn tràn lên tàu. Từ phòng lái, Hạm phó Trí đã dùng M16 nhả một loạt đạn vào tàu địch và chờ tàu địch vào đúng vị trí mong muốn, Hạm Phó Trí cố sức vận chuyển chiến hạm, lấy hết tay lái về bên phải, hướng mũi tàu HQ10 đâm mạnh vào hông lái của T-389. Quá bất ngờ trước hành động quyết tử của HQ10, chiếc 389 không kịp phản ứng tránh né nên bị phần mũi của HQ10 đâm mạnh vào yếu huyệt của chiến hạm là phần sau lái.
Tàu địch T-389 bị HQ10 đâm mạnh làm cho nó ngã nghiêng, cộng thêm những hư hại do đại pháo của HQ10 bắn trúng trong đợt khai hỏa đầu tiên đã đưa chiếc 389 lâm vào tình trạng nguy khốn, tàu bất khiển dụng, bốc cháy, sắp chìm, khiến 396 của địch phải ngưng đối đầu với HQ16 để cấp tốc chạy đến tiếp cứu 389. Bị hoả lực tập trung của HQ16 và HQ10 đã đưa 396 rơi vào tình trạng hư hại nặng và bốc cháy. Vì thế 2 tàu đánh cá ngụy trang Nam Ngư 402 và 407 phía sau bất chấp 389 đang bốc cháy, có thể nổ tung đã chạy đến tiếp cứu, đưa 389 ủi vào bãi Vĩnh Lạc dưới sự yểm trợ hỏa lực yếu ớt của 396.
– Theo Hồi ký của Đại úy Lê Văn Thự – Trung tâm Trưởng Hành quân Vùng I Duyên Hải:
“Vào lúc giữa trưa ngày 19-1, Tư Lịnh Hải Quân Đề Đốc Trần Văn Chơn vào TTHQ/VIZH nghe HQ5 báo cáo kết qủa sơ khởi ngay khi HQ10 bốc cháy. Đồng thời cũng trong thời gian này, Tòa Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ ở Đà Nẵng gọi qua TTHQ khuyến cáo nên ra chỉ thị cho các chiến hạm của VNCH trở về Đà Nẵng lập tức vì hạm đội hải quân của Trung cộng đang kéo đến có cả tàu ngầm, hỏa tiễn, phi cơ MIG 19 đang cất cánh từ đảo Hải Nam.
Được tin này và để tránh tổn thất vô ích cho HQVNCH Đề Đốc TL/HQ Trần Văn Chơn ra lịnh HQ4, HQ5 và HQ16 rời HS trở về Đà Nẵng”.
* Dưới đây là những diễn biến chính của HQ10 được trích từ bài viết HQ Th/úy Tất Ngưu, Sĩ quan đảm trách 2 khẩu 20ly và súng cối 81ly ở sân sau HQ10:
“Sau khi hai chiếc tàu đụng nhau, tiếng súng lớn dường như im bặt, chỉ còn nghe những tiếng súng nhỏ. Giai đoạn hải chiến hình như chấm dứt. Anh em đồng đội chuẩn bị cứu thương lẫn nhau. Hầm máy đang cháy, nhân viên phòng tai lo cứu hỏa. Một số nhân viên cơ khí chết cháy dưới hầm máy. Những nhân viên bị thương, sống sót được đưa lên boong tàu.
Tình trạng HQ10 lúc này lâm vào tình trạng vô cùng bi đát, gần 70% nhân viên đã hy sinh kể cả Hạm trưởng, một số đang bị thương, phòng máy còn đang cháy, các nhân viên cơ khí bị cháy đen thui trong đó có Trung úy Thạch cơ khí trưởng của tàu, hai chân hầu như lìa khỏi thân mình, mặt mày cháy đen, hai máy chính và máy điện cũng như hệ thống liên lạc nội bộ và máy truyền tin không còn sử dụng được.
Lúc này nhân viên Phòng Tai báo cáo không dập tắt nổi ngọn lửa và nước đang vào các hầm máy. Trước tình trạng tuyệt vọng của HQ10 Hạm phó Trí từ đài chỉ huy bò xuống sân tàu ra lệnh cho nhân viên đào thoát. Ông lết đến từng ụ súng thúc giục nhân viên xuống bè. Khi tất cả nhân viên đã xuống 5 bè, đại úy Trí với vết thương quá nặng, khắp người nhầy nhụa máu cương quyết ở lại tàu cùng với những nhân viên khác từ chối đào thoát ở lại quyết tử với tàu địch. Trong số nhân viên cương quyết ở lại tàu không chịu đào thoát có HSI/VC Lê Văn Tây (xạ thủ) và HS/VC Ngô Văn Sáu (tiếp đạn). Hai anh đang ghì hải pháo 20 ly sau lái bắn xối xả vào tàu địch.
Bất chấp từ chối đào thoát của Hạm phó Trí, hai nhân viên là HS/TP Trần Ngọc Sơn và TT/TX Trương Văn Long nhất định cặp và lôi ông xuống bè.
Tình trạng các bè cũng rất bi thảm, bè nào cũng bị trúng đạn. Riêng bè của đại úy Trí bị bể một miếng lớn, khi 6 người ngồi lên, bè chìm xuống, nước ngập tới ngực. Dù bị thương nặng nhưng đại úy Trí vẫn còn tỉnh táo, ông ra lệnh kết các bè lại với nhau để các bè tựa nhau nổi trên mặt biển và tránh bị trôi dạt xa nhau. Tổng số nhân viên đào thoát trên 5 chiếc phao có 28 người cho đến khi được tầu Hòa Lan vớt.
Luồng nước và gió từ từ đưa các bè xa dần HQ10. Lúc này tiếng súng đã ngưng hẵn. Từ bè nhìn lại HQ10 vẫn còn bốc khói mù mịt. Tàu bị trúng đạn quá nhiều lỗ chỗ như tổ ong. HQ16 cách HQ10 không xa lắm, nhưng HQ16 nghiêng một bên và đang cố gắng vận chuyển thật chậm rời khỏi lòng chảo. Tình huống nguy ngập của HQ16 khó lòng tiếp cứu HQ10 hay vớt người được. Về phía Trung cộng, 271 chìm ngay phút đầu nổ súng và 3 chiếc hạm còn lại cũng đang bốc cháy, hư hại nặng phải ủi bãi.
Gió mùa Đông Bắc đưa các bè trôi theo hướng ra ngoài lòng chảo nhóm Nguyệt Thiềm và HQ10 cũng đang trôi theo. Khoảng hơn một giờ sau các thủy thủ trên bè thấy có khói xuất hiện ở cuối chân trời, niềm hy vọng có tàu bạn đến cứu nhóm lên, nhưng khi chúng đến gần thì ra là hai tàu chiến TC mang số 281, 282 của TQ tăng viện. Khi 281 và 282 đến nơi thì 271 đã chìm, 3 chiến hạm của TC còn lại đang bốc cháy và vô nước sắp chìm, ủi bãi cạn.
12h12 khi 281 và 282 tiến gần HQ10 thì khẩu hải pháo 20 ly do 2 chiến sĩ anh hùng Tây và Sáu ở lại tử thủ lại nổ vang, chiến hạm địch vừa tiến vừa phản pháo bằng đại bác 57 ly và các loại súng khác. Một hồi lâu sau tiếng đại bác 20 ly của HQ10 im bặt. Có lẽ HS1/VC Lê Văn Tây và HS/VC Ngô Văn Sáu đã tử thương.
14h52 mặc dù không còn tiếng súng chống trả trên HQ 10 nhưng 281 và 282 vẫn tiếp tục bắn xối xả vào HQ10 đang bốc cháy và trôi lềnh bềnh trên biển cho đến khi HQ10 chìm hẳn tại địa điểm cách phía Nam bãi đá ngầm Hải Sâm (Antelope Reef) khoảng 2.5 km.
Bắn chìm HQ 10 xong, hai chiếc 281 và 282 quay lại tiến gần đến các bè đào thoát, chúng chạy quanh các bè 2 vòng rồi bỏ đi.
Càng về đêm gió càng thổi mạnh, sóng dâng to đánh mạnh vào các bè làm chiếc bè trên đó có đại úy Trí bị đứt dây tách ra khỏi nhóm.
Tiếp theo sau Hạm phó Trí bị cá mập cắn chân khi ở trên bè, có thêm 8 chiến sĩ lần lượt hy sinh ngay trên bè vì vết thương quá nặng hoặc đuối sức vì thiếu nước và thực phẩm trước khi được tàu Hoà Lan cứu. Tất cả đều được đồng đội làm lễ Thủy táng hoặc trên bè hoặc trên Tầu Hòa Lan .
– Ngày 22-1 lúc 6h30 chiều khi các chiến hạm và phi cơ VNCH đang bắt đầu việc tìm kiếm thì đúng lúc tàu dầu Kopionella của hãng Shell mang quốc tịch Hòa Lan đã phát hiện các bè đào thoát và vớt tất cả 19 người thuộc HQ10 còn sống sót lên tàu tại toạ độ 16 độ 10’ N và 110 độ 46’ E cách Đà Nẵng khoảng 287 km về hướng Đông. (Vì hành động nhân đạo này, vị Thuyền Trưởng và thủy thủ đoàn đã được chính phủ VNCH trao tặng huy chương Nhân Dũng Bội Tinh)
Như vậy toán đào thoát đã trôi trên biển 4 ngày 3 đêm và họ đã đón giao thừa Tết Giáp Dần 1974 trong cơn sốt mê man vì kiệt sức trên thương thuyền Kopionella của Hoà Lan”.
HQ. Phạm Quốc Nam
Năm thứ 45, Tưởng Niệm 74 Tử Sĩ Hải Chiến Hoàng Sa,
Vui cười
Tại buổi tiệc rượu mừng sinh nhật vợ, người chồng lôi từ trong hộp ra một chuỗi ngọc sáng long lanh đeo tặng vợ trước mặt đám đông bạn bè.
Một người bạn nói với ông chồng:
” Tôi nhìn thấy bà nhà vui lắm. Giá như ông có thể tặng cho bà ấy một chiếc xe du lịch thì bà còn phấn khởi hơn nhiều”.
Người chồng vội xua hai tay nói khẽ vào tai bạn :
“Tôi cũng đã từng nghĩ như vậy, nhưng khốn khổ không có xe du lịch giả”
– Hồn ơi, hồn có phải là người chồng quá cố của em không?
– Đúng…
– Hồn có được sung sướng như hồi còn sống trên dương thế hay không?
– Có…
– Hồn hiện giờ ở đâu?
– Dưới địa ngục!
Đặng Tiểu Bình Trong Chiến Tranh Biên Giới Việt Trung 1979 – Trần Trung Đạo
Trong chuyến công du các quốc gia Á Châu để chuẩn bị hậu thuẫn dư luận trước khi đánh Việt Nam, Đặng Tiểu Bình tuyên bố “Việt Nam là côn đồ, phải dạy cho Việt Nam bài học”.
Câu “Việt Nam là côn đồ” được các đài truyền hình Trung Cộng phát đi và chính Dương Danh Dy, nguyên Tổng Lãnh Sự Quán Việt Nam tại Quảng Châu, đã xem đoạn phóng sự truyền hình đó “Tôi không bao giờ có thể quên vẻ mặt lỗ mãng và lời nói ‘bạo đồ’ đầy giọng tức tối của ông ta qua truyền hình trực tiếp và tiếng người phiên dịch sang tiếng Anh là ‘hooligan’ – tức du côn, côn đồ.”
Tại sao Đặng Tiểu Bình nói câu “lỗ mãng” đó?
Đảng CS Trung Quốc “hy sinh” quá nhiều cho đảng CSVN. Không nước nào viện trợ cho CSVN nhiều hơn Cộng Sản Trung Quốc (CSTQ). Trong cuộc chiến Việt Nam, Trung Cộng không chỉ viện trợ tiền của mà còn bằng xương máu.
Trong tác phẩm Trung Quốc lâm chiến: Một bộ bách khoa (China at War: An Encyclopedia) tác giả Xiaobing Li liệt kê các đóng góp cụ thể của 320 ngàn quân Trung Cộng trong chiến tranh Việt Nam:
“Trong chiến tranh Việt Nam giai đoạn năm 1964 đến năm 1973, quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) đã lần nữa can thiệp. Tháng Bảy năm 1965, Trung Quốc bắt đầu đưa quân vào Bắc Việt, bao gồm các đơn vị hỏa tiễn địa-không (SAM), phòng không, làm đường rầy xe lửa, công binh, vét mìn, hậu cần. Quân đội Trung Quốc điều khiển các giàn hỏa tiễn phòng không, chỉ huy các đơn vị SAM, xây dựng và sửa chữa đường sá, cầu cống, đường xe lửa, nhà máy. Sự tham gia của Trung Cộng giúp cho Việt Nam có điều kiện gởi thêm gởi nhiều đơn vị Bắc Việt vào Nam đánh Mỹ. Giữa năm 1965 và năm 1968, Trung Quốc gởi sang Bắc Việt 23 sư đoàn, gồm 95 trung đoàn, tổng số lên đến 320 ngàn quân. Vào cao điểm năm 1967, có 170,000 quân Trung Quốc hiện diện”.
Trong số năm nhân vật hàng đầu lãnh đạo Trung Cộng giai đoạn 1977 đến 1980 gồm Hoa Quốc Phong, Diệp Kiếm Anh, Lý Tiên Niệm, Uông Đông Hưng và Đặng Tiểu Bình thì Đặng Tiểu Bình là người có hoạt động gần gũi nhất với phong trào CSVN. Hơn ai hết, họ Đặng đã tiếp xúc, làm việc với các lãnh đạo CSVN, biết cá tính từng người và cũng biết một cách tường tận và chính xác những hy sinh của Trung Cộng dành cho đảng CSVN.
Trong thập niên 1960, CSVN sống bằng gạo trắng của Trung Cộng nhưng cũng ngay thời gian đó quê hương Tứ Xuyên của Đặng Tiểu Bình chết đói trên 10 triệu người.
Trong thời gian hai đảng CS cơm không lành canh không ngọt, bộ máy tuyên truyền CSVN ca ngợi Lê Duẩn như một nhân vật kiên quyết chống bành trướng Bắc Kinh nhưng đừng quên tháng 4, 1965, chính Lê Duẩn đã sang tận Bắc Kinh cầu khẩn Đặng Tiểu Bình để gởi quân trực tiếp tham chiến.
Xung đột biên giới và xô đuổi Hoa Kiều
Theo báo cáo Bộ Quốc Phòng Trung Cộng, các đụng độ quân sự trong khu vực biên giới giữa các lực lượng biên phòng hai nước đã gia tăng đáng kể sau 1975, gồm 752 vụ trong 1977 đến 1,100 vụ trong 1978. Không chỉ về số lượng mà cả tầm vóc của các vụ đụng độ cũng gia tăng. Dù không phải là lý do chính, những đụng độ quân sự cũng là cách gợi ý cho Bắc Kinh thấy giải pháp có thể phải chọn là giải pháp quân sự. Tháng 11, 1978 Phó Chủ Tịch Nhà nước Uông Đông Hưng và Tướng Su Zhenghua, Chính Ủy Hải Quân, đề nghị đưa quân sang Cambodia và Tướng Xu Shiyou, Tư lịnh Quân Khu Quảng Châu đề nghị đánh Việt Nam từ Quảng Tây. Chính sách xô đuổi Hoa Kiều vào sáu tháng đầu 1978 cũng làm Trung Cộng khó chịu về bang giao và khó khăn về kinh tế.
Đánh Việt Nam để củng cố quyền lực
Đặng Tiểu Bình được phục hồi lần chót vào tháng 7, 1977 với chức vụ Phó Chủ Tịch BCH Trung Ương Đảng, Phó Chủ Tịch Quân Ủy Trung Ương, Phó Thủ Tướng, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc. Tuy nhiên, tất cả chức vụ này không đồng nghĩa với việc tóm thu quyền lực. Hoa Quốc Phong vẫn là Chủ Tịch Nước và Chủ Tịch Đảng. Các ủy viên Bộ Chính Trị khác như Uông Đông Hưng, người ủng hộ Hoa Quốc Phong, Lý Tiên Niệm, Phó Chủ Tịch Nước và Phó Chủ Tịch Đảng CSTQ đều còn nhiều quyền hành. Sự đấu tranh quyền lực trong nội bộ đảng CSTQ ngày càng căng thẳng.
Ảnh hưởng của họ Đặng chỉ gia tăng sau chuyến viếng thăm Đông Nam Á và đặc biệt sau Hội Nghị Công Tác Trung Ương từ ngày 10 tháng 11 đến ngày 15 tháng 12, 1978 cũng như Hội Nghị Trung Ương Đảng kỳ III, trong đó các kế hoạch hiện đại hóa kinh tế được đề xuất như chiến lược của Trung Cộng trong thời kỳ mới. Trong nội dung chiến lược này, Mỹ được đánh giá như nguồn cung cấp khoa học kỹ thuật tiên tiến để phục vụ các hiện đại hóa.
Nỗi sợ bị bao vây
Tuy nhiên, câu nói của họ Đặng không phải phát ra từ các lý do trên mà chính từ nỗi sợ bị bao vây. Học từ những bài học cay đắng của mấy ngàn năm lịch sử Trung Hoa, nỗi sợ lớn nhất ám ảnh thường xuyên trong đầu các thế hệ lãnh đạo CSTQ là nỗi sợ bị bao vây. Tất cả chính sách đối ngoại của đảng CSTQ từ 1949 đến nay đều bị chi phối bởi nỗi lo sợ đó.
Cựu Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger, trong tác phẩm Về Trung Quốc (On China) vừa xuất bản, đã trích lại một đoạn đối thoại giữa Phạm Văn Đồng và Chu Ân Lai trong cuộc viếng thăm Trung Cộng của họ Phạm vào năm 1968.
Chu Ân Lai: “Trong một thời gian dài, Trung Quốc bị Mỹ bao vây. Bây giờ Liên Xô bao vây Trung Quốc, ngoại trừ phần Việt Nam”.
Phạm Văn Đồng nhiệt tình đáp lại: “Chúng tôi càng quyết tâm để đánh bại đế quốc Mỹ bất cứ nơi nào trên lãnh thổ Việt Nam”.
Chu Ân Lai: “Đó chính là lý do chúng tôi ủng hộ các đồng chí”.
Phạm Văn Đồng phấn khởi: “Chiến thắng của chúng tôi sẽ có ảnh hưởng tích cực tại châu Á, sẽ đem lại những thành quả chưa từng thấy”.
Chu Ân Lai đồng ý: “Các đồng chí nghĩ thế là đúng ”.
Chính sách của Đặng Tiểu Bình đối với Liên Xô kế thừa từ quan điểm của Mao, qua đó, sự bành trướng của Liên Xô được xem như “một đe dọa đối với hòa bình”. Khi Việt Nam rơi vào quỹ đạo Liên Xô sau Hiệp Ước Hữu Nghị và Hợp Tác Việt-Xô được ký ngày 3 tháng 11, 1978, nỗi sợ hãi bị bao vây như Chu Ân Lai chia sẻ với Phạm Văn Đồng không còn là một ám ảnh đầy đe dọa mà là một thực tế đầy nguy hiểm.
Cambodia, giọt nước tràn ly
Không những Trung Cộng sợ bao vây từ phía nam, vùng biên giới Lào mà còn lo sợ bị cả khối Việt Miên Lào bao vây. Để cô lập Việt Nam và ngăn chận khối Việt Miên Lào liên minh nhau, ngay từ tháng 8 năm 1975, Đặng Tiểu Bình cũng đã chia sẻ với Khieu Samphan, nhân vật số ba trong Khmer Đỏ “Khi một siêu cường [Mỹ] rút đi, một siêu cường khác [Liên Xô] sẽ chụp lấy cơ hội mở rộng nanh vuốt tội ác của chúng đến Đông Nam Á”.
Họ Đặng kêu gọi đảng CS Campuchia đoàn kết với Trung Cộng trong việc ngăn chận Việt Nam bành trướng. Hoa Quốc Phong cũng lập lại những lời tương tự khi tiếp đón phái đoàn của Tổng bí
thư đảng CS Lào Kaysone Phomvihane nhân chuyến viếng thăm Trung Cộng của y vào tháng Ba, 1976.
Tháng Sáu, 1978, Việt Nam chính thức tham gia COMECON và tháng 11 cùng năm Việt Nam ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác có bao gồm các điều khoản về quân sự với Liên Xô.
Tháng 12 năm 1978, Việt Nam xâm lăng Campuchia đánh bật tập đoàn Pol Pot vào rừng và thiết lập chế độ Heng Samrin thân CSVN. Đặng Tiểu Bình xem đó như giọt nước tràn ly và quyết định chặt đứt vòng xích bằng cách dạy cho đàn em phản trắc CSVN “một bài học”. Đặng Tiểu Bình chọn phương pháp quân sự để chọc thủng vòng vây.
Quyết định của Đặng Tiểu Bình
Hầu hết tài liệu đều cho thấy, mặc dầu có sự chia rẽ trong nội bộ Bộ Chính Trị đảng CSTQ, quyết định tối hậu trong việc đánh Việt Nam là quyết định của Đặng Tiểu Bình.
Tại phiên họp mở rộng ngày 31 tháng 12, 1978 Đặng Tiểu Bình chính thức đề nghị thông qua kế hoạch tấn công “trừng phạt” Việt Nam. Các thành viên tham dự chẳng những đồng ý với kế hoạch đầu tiên tấn công vào Lạng Sơn, Cao Bằng và Lào Cai mà cả kế hoạch được sửa đổi trong đó có việc phối trí hai binh đoàn có thể tấn công vào Điện Biên Phủ từ Mengla và Vân Nam qua đường Lào để đe dọa trực tiếp đến Hà Nội. Cũng trong phiên họp này Đặng Tiểu Bình cử Tướng Hứa Thế Hữu, Tư lịnh cánh quân từ hướng Quảng Tây, Tướng Dương Đắc Chí, đương kiêm Tư Lịnh Quân Khu Vũ Hán, chỉ huy cánh quân từ hướng Vân Nam.
Soạn kế hoạch trên giấy tờ thì dễ nhưng với một người có đầu óc thực tiễn như Đặng Tiểu Bình, y biết phải đối phó với nhiều khó khăn. Trong điều kiện kinh tế và quân sự còn rất yếu của Trung Cộng vào năm 1979, đánh Việt Nam là một quyết định vô cùng quan trọng. Đặng Tiểu Bình nắm được Bộ Chính Trị CSTQ nhưng về mặt đối ngoại, Đặng Tiểu Bình phải thuyết phục các quốc gia Đông Nam Á, Á Châu và nhất là Mỹ.
Lên đường thuyết khách tìm đồng minh
Cuối năm 1978, Đặng Tiểu Bình, 74 tuổi, thực hiện một chuyến công du chính thức và lịch sử với tư cách lãnh đạo tối cao của Trung Cộng để vừa thúc đẩy Bốn Hiện Đại Hóa và vừa dọn đường đánh Việt Nam.
Họ Đặng viếng thăm hàng loạt quốc gia châu Á như Nhật, Thái Lan, Mã Lai, Singapore, Miến Điện, Nepal. Tại mỗi quốc gia thăm viếng, họ Đặng luôn đem thỏa ước Việt-Xô ra hù dọa các nước láng giềng như là mối đe dọa cho hòa bình và ổn định Đông Nam Á.
Đặng Tiểu Bình phát biểu tại Bangkok ngày 8 tháng 11 năm 1978:
“Hiệp ước [Việt Xô] này không chỉ nhắm đến riêng Trung Quốc… mà là một âm mưu Xô Viết tầm thế giới. Các bạn có thể nghĩ hiệp ước chỉ nhằm bao vây Trung Quốc. Tôi đã trao đổi một cách thân hữu với nhiều nước rằng Trung Quốc không sợ bị bao vây. Thỏa hiệp có ý nghĩa quan trọng hơn đối với Á Châu và Thái Bình Dương. An ninh và hòa bình châu Á, Thái Bình Dương và toàn thế giới bị đe dọa.”
Ngoại trừ Singapore, họ Đặng nhận sự ủng hộ của hầu hết các quốc gia Đông Nam Á. ASEAN lên án Việt Nam xâm lăng Kampuchea. Nhật Bản cũng lên án Việt Nam.
Trong các chuyến công du nước ngoài, việc viếng thăm Mỹ đương nhiên là quan trọng nhất. Trong phiên họp của Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng CSTQ ngày 2 tháng 11, 1978, Đặng Tiểu Bình chỉ thị cho Bộ Ngoại Giao Trung Cộng thông báo cho Mỹ biết ý định bình thường hóa ngoại giao.
Đầu tháng 12, Đặng báo cho các bí thư đảng ủy một số tỉnh và tư lịnh các quân khu rằng Mỹ có thể thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Cộng vào đầu năm Dương Lịch 1979. Chính bản thân Đặng đàm phán trực tiếp bốn lần với Leonard Woodcock, Giám Đốc Văn Phòng Đại Diện Mỹ tại Bắc Kinh trong hai ngày 13 và 15 tháng 11, 1978. Trong các buổi đàm phán, Đặng đã nhượng bộ Mỹ bằng cách không đưa vấn đề Mỹ bán võ khí cho Đài Loan như một điều kiện tiên quyết để tiến tới bình thường hóa vì Đặng nóng lòng giải quyết quan hệ với Mỹ trước khi xăm lăng Việt Nam.
Chính thức viếng thăm Hoa Kỳ
Ngày 28 tháng Giêng 1979, Đặng Tiểu Bình lên đường chính thức viếng thăm Mỹ. Ông ta nghĩ rằng Mỹ và Trung Cộng đang tiến tới một đồng minh chiến lược chống Xô Viết trên phạm vi toàn cầu nhưng không chắc chắn Mỹ sẽ ủng hộ ra mặt trong cuộc chiến chống Việt Nam sắp tới.
Trong thời gian ở Mỹ, Đặng Tiểu Bình gặp Tổng Thống Jimmy Carter ba lần. Chỉ vài giờ sau khi hạ cánh xuống Washington DC, Đặng yêu cầu được gặp riêng với Tổng thống Carter để thảo luận về vấn đề Việt Nam. Đề nghị của họ Đặng làm phía Mỹ ngạc nhiên. Chiều ngày 29 tháng Giêng, Đặng và phái đoàn gồm Ngoại Trưởng Hoàng Hoa, Thứ trưởng Ngoại Giao Zhang Wenjin đến gặp TT Carter tại Tòa Bạch Ốc. Phía Mỹ, ngoài TT Carter còn có Phó Tổng Thống Walter Mondale, Ngoại Trưởng Cyrus Vance và Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Brzezinski. Trong buổi họp, Đặng Tiểu Bình thông báo cho TT Mỹ biết Trung Cộng đã quyết định chống lại sự bành trướng của Liên Xô bằng cách tấn công Việt Nam và cần sự ủng hộ của Mỹ. Trái với mong muốn của Đặng Tiểu Bình, TT Carter không trả lời ngay, ngoài trừ việc yêu cầu họ Đặng nên “tự chế khi đương đầu với tình trạng khó khăn”.
Ngày hôm sau, Đặng Tiểu Bình nhận lá thư viết tay của TT Carter, trong đó ông có ý cản ngăn họ Đặng vì theo TT Carter dù Trung Cộng có đánh Việt Nam, Việt Nam cũng không rút quân khỏi Cambodia mà còn làm Trung Cộng sa lầy. TT Carter cũng nhắc việc xâm lăng Việt Nam có thể làm cản trở nỗ lực của Trung Cộng cổ võ cho một viễn ảnh hòa bình trên thế giới.
TT Carter viết lại trong nhật ký Jimmy Carter, Keeping Faith, Memoirs Of A President, Ngô Bắc dịch:
“Sáng sớm hôm sau, họ Đặng và tôi một lần nữa hội kiến tại Văn Phòng Bầu Dục, chỉ có một thông dịch viên hiện diện. Tôi đã đọc to và trao cho ông ta một bức thư viết tay tóm tắt các lý luận của tôi nhằm ngăn cản một cuộc xâm lăng của Trung Quốc vào Việt Nam. Ông ta đã nhấn mạnh rằng nếu họ quyết định chuyển động, họ sẽ triệt thoái các bộ đội Trung Quốc sau một thời gian ngắn – và các kết quả của một cuộc hành quân như thế nhiều phần có lợi và có hiệu quả lâu dài. Hoàn toàn khác biệt với tối hôm trước, giờ đây ông ta là một lãnh tụ cộng sản cứng rắn, quả quyết rằng dân tộc ông không xuất hiện với vẻ yếu mềm. Ông ta tuyên bố vẫn còn đang cứu xét vấn đề, nhưng ấn tượng của tôi là quyết định đã sẵn được lấy. Việt Nam sẽ bị trừng phạt.”
Ngày 30 tháng Giêng, trong một buổi họp khác với TT Carter, Đặng Tiểu Bình cho biết việc đánh Việt Nam đã được quyết định và sẽ không có gì làm thay đổi. Tuy nhiên, họ Đặng cũng nhấn mạnh chiến tranh sẽ xảy ra trong vòng giới hạn.
Đặng Tiểu Bình không mua chuộc được sự ủng hộ công khai của Mỹ để đánh Việt Nam nhưng ít ra không phải về tay trắng.
Tổng thống Carter để lấy lòng “khách hàng khổng lồ” và “đồng minh chiến lược chống Liên Xô”đồng ý cung cấp tin tức tình báo các hoạt động của 50 sư đoàn Liên Xô trong vùng biên giới phía bắc Trung Hoa. Mỹ cũng dùng vệ tinh để theo dõi trận đánh biên giới và cũng nhờ những tấm ảnh chụp từ vệ tinh mà các cơ quan truyền thông biết ai đã dạy ai bài học trong chiến tranh biên giới Việt Trung 1979. Trong buổi họp riêng với Tổng thống Carter trước khi lên máy bay, Đặng khẳng định “Trung Quốc vẫn phải trừng phạt Việt Nam”.
Chuyến viếng thăm Mỹ là một thành công. Dù Mỹ không ủng hộ nhưng chắc chắc Đặng biết cũng sẽ không lên án Trung Cộng xâm lược Việt Nam. Trên đường về nước, Đặng ghé Tokyo lần nữa để vận động sự ủng hộ của Nhật.
Hai ngày sau khi trở lại Bắc Kinh, ngày 11 tháng 2, 1979, Đặng triệu tập phiên họp mở rộng của Bộ Chính Trị và giải thích đặc điểm và mục tiêu của cuộc tấn công Việt Nam.
Ngày 17 tháng 2, 1979, Đặng Tiểu Bình xua khoảng từ 300 ngàn đến 500 ngàn quân, tùy theo nguồn ghi nhận, tấn công Việt Nam.
Lãnh đạo CSVN ở đâu trong ngày quân Trung Cộng tràn qua biên giới?
Trong khi Đặng Tiểu Bình chuẩn bị một cách chi tiết từ đối nội đến đối ngoại cho cuộc tấn công vào Việt Nam, các lãnh đạo CSVN đã bị CSTQ tẩy não sạch đến mức nghĩ rằng người Cộng Sản đàn anh dù có giận cỡ nào cũng không nỡ lòng đem quân đánh đàn em CSVN.
Dương Danh Dy, nguyên Tổng Lãnh Sự tại Quảng Châu nhắc lại “Trong tận đáy lòng chúng tôi vẫn hy vọng, có thể một cách ngây thơ rằng, Việt Nam và Trung Cộng từng quá gần gũi và hữu nghị, họ [Trung Cộng] chẳng lẽ thay đổi hoàn toàn với Việt Nam quá nhanh và quá mạnh như thế.”
Khi hàng trăm ngàn quân Trung Cộng tràn sang biên giới, Thủ Tướng CS Phạm Văn Đồng và Đại Tướng Tổng tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng vẫn còn đang viếng thăm Campuchia.
Tình báo Việt Nam không theo dõi sát việc động binh ồ ạt của Trung Cộng và cũng không xác định được hướng nào là trục tiến quân chính của quân Trung Cộng. Tác giả Xiaoming Zhang viết trong Tái đánh giá cuộc chiến Trung Việt 1979 “Rõ ràng tình báo Việt Nam thất bại để chuẩn bị cho việc Trung Quốc xâm lăng” và “Mặc dù Trung Quốc nhiều tháng trước đó đã có nhiều dấu hiệu chiến tranh, các lãnh đạo Việt Nam không thể nào tin ‘nước xã hội chủ nghĩa anh em’ có thể đánh họ.”
Dù bị bất ngờ, hầu hết các nhà phân tích quân sự, kể cả nhiều tác giả người Hoa, cũng thừa nhận khả năng tác chiến của phía Việt Nam vượt xa khả năng của quân đội Trung Cộng.
Tạp chí Time tổng kết dựa theo các nguồn tin tình báo Mỹ, chỉ riêng trong hai ngày đầu thôi và khi các quân đoàn chính quy Việt Nam chưa được điều động đến, dân quân Việt Nam vùng biên giới đã hạ bốn ngàn quân chủ lực Trung Cộng. Tác giả Xiaobing Li, trong bài viết Quân đội Trung Cộng học bài học gì dựa theo khảo cứu A History of the Modern Chinese Army đã mô tả quân Trung Cộng chiến đấu tệ hại hơn cả trong chiến tranh Triều Tiên mấy chục năm trước.
Nếu ngày đó giới lãnh đạo CSVN không tin tưởng một cách mù quáng vào ý thức hệ CS và “tình hữu nghị Việt Trung”, nhiều ngàn thanh niên Việt Nam đã không chết, Lạng Sơn đã không bị san bằng, hai tiểu đoàn bảo vệ thị trấn Đồng Đăng chống cự lại hai sư đoàn Trung Cộng đã không phải hy sinh đến người lính cuối cùng.
Bài học lịch sử từ chiến tranh biên giới 1979
Từ đó đến nay, khi đánh khi đàm, khi vuốt ve khi đe dọa nhưng các mục tiêu của chủ nghĩa bành trướng Trung Cộng đối với Việt Nam từ chiến tranh biên giới 1979 đến Hội Nghị Thành Đô 1990 vẫn không thay đổi. Trung Cộng bằng mọi phương tiện sẽ buộc Việt Nam hoàn toàn lệ thuộc vào Trung Cộng về chế độ chính trị, là một phần không thể tách rời trong toàn bộ chiến lược an ninh châu Á của Trung Cộng và độc chiếm toàn bộ các quyền lợi kinh tế vùng biển Đông bao gồm cả các vùng biển đảo Hoàng Sa, Trường Sa đang tranh chấp.
Đặng Tiểu Bình trước đây và các lãnh đạo CSTQ hiện nay sẵn sàng dùng bất cứ phương tiện gì để thực hiện các chủ trương đó kể cả việc xóa bỏ nước Việt Nam trong bản đồ thế giới bằng một chính sách đánh phủ đầu (preemptive policy). Đừng quên họ Đặng đã từng chia sẻ ý định này với Tổng thống Jimmy Carter “Bất cứ nơi nào, Liên Xô thò ngón tay tới, chúng ta phải chặt đứt ngón tay đó đi”.
Đặng Tiểu Bình muốn liên minh quân sự với Mỹ như kiểu NATO ở châu Âu để triệt tiêu Liên Xô tại châu Á.
Cựu Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger giải thích quan điểm này của họ Đặng trong tác phẩm Về Trung Quốc (On China) của ông:
“Những gì Đặng Tiểu Bình đề nghị về căn bản là chính sách đánh phủ đầu, đó là một lãnh vực trong chủ thuyết quân sự ngăn chận tấn công của Trung Quốc… Nếu cần thiết, Trung Quốc sẽ chuẩn bị phát động các chiến dịch quân sự để phá vỡ kế hoạch của Liên Xô, đặc biệt tại vùng Đông Nam Á”.
“Đông Nam Á” và “ngón tay” theo ý Đặng Tiểu Bình tức là Việt Nam và liên kết quân sự theo dạng NATO không phải là để dời vài cột mốc, dở một đoạn đường rầy xe lửa, đụng độ biên giới lẻ tẻ mà là cuộc tấn công phủ đầu, triệt tiêu có tính quyết định trước khi Việt Nam có khả năng chống trả.
Cựu Ngoại trưởng Mỹ bà Madeline Albright có câu nói rất hay “Lịch sử chưa bao giờ lập lại một cách chính xác nhưng chúng ta phải gánh lấy tai họa nếu không học từ lịch sử.” Với Chiến Tranh Lạnh đang diễn ra tại Châu Á hiện nay và với nền kinh tế Trung Cộng phát triển nhưng không lối thoát cho bộ máy chính trị độc tài toàn trị đang được chạy bằng nhiên liệu Đại Hán cực đoan, chiến tranh sẽ khó tránh khỏi dù các bên có muốn hay không.
Việt Nam, quốc gia vùng trái độn giữa hai quyền lực thế giới, chưa bao giờ đứng trước một chọn lựa sinh tử như hôm nay. Một người có trách nhiệm với tương lai đất nước, dù cá nhân có mang một thiên kiến chính trị nào, cũng phải biết thức tỉnh, biết đặt quyền lợi dân tộc lên trên, biết chọn hướng đi thích hợp với đà tiến văn minh dân chủ của thời đại, chấm dứt việc cấy vào nhận thức của tuổi trẻ một tinh thần bạc nhược, đầu hàng.
Lịch sử đã chứng minh, Trung Cộng giàu mạnh nhưng không phải là một quốc gia đáng sợ. Nỗi sợ hãi lớn nhất của người Việt Nam là sợ chính mình không đủ can đảm vượt qua quá khứ bản thân, không đủ can đảm thừa nhận sự thật và sống vì tương lai của các thế hệ con cháu mai sau.
Trần Trung Đạo
(Đặc San Lâm Viên)
Tham khảo:
– Deng Xiaoping and China’s Decision to go to War with Vietnam, Xiaoming Zhang, MIT Press 2010
– China’s 1979 War with Vietnam: A Reassessment, Xiaoming Zhang
– Henry Kissinger, On China, The Penguin Press, New York 2011
– Graham Hutchings, Modern China, Harvard University Press, 2001
– A Reassessment, China’s 1979 War with Vietnam: A Reassessment, The China Quarterly, 2005
– Todd West, Failed Deterrence, University of Georgia
– Reuter, China admits 320,000 troops fought in Vietnam, May 16 1989
– Russell D. Howard, The Chinese People’s Liberation Army: “Short Arms and Slow Legs”, USAF Institute for National Security Studies 1999
– Vietnam tense as China war is marked, BBC, 16 February 2009
– A History of the Modern Chinese Armypp. P 255-256, 258-259 , Xiaobing Li (U. Press of Kentucky, 2007)
– Jimmy Carter, cựu Tổng Thống Hoa Kỳ, Ghi nhớ về chiến tranh Trung Quốc – Việt Nam năm 1979, Ngô Bắc dịch
http://www.dslamvien.com/2019/02/dang-tieu-binh-trong-chien-tranh-bien.html
Cảm tác – Thơ Nhữ Đình Hùng
Tết đến không tiếng pháo
Xuân về vắng nhành mai
75 còn trong nước
79 đã lạc loài
Từ đó mỗi tết đến
Không khóc sao mắt cay
Từ đó ôm hận nước,
Từng ngày nối từng ngày
Cùng bằng hữu, đoàn thể
Dốc lòng cho tương lai
Nhưng thời gian lướt vút,
Không đợi chờ một ai
Biết ta còn có mặt
Trong ngày mai, ngày mai
Khi nước nhà giải phóng,
Khi cờ vàng tung bay!
Thế nhưng ta chẳng tiếc,
Làm viên đá lót đường
Cho triệu người dẫm đạp
Tiến lên cứu quê hương
Vì giống nòi dân tộc,
Vì hai chữ sinh tồn
Vì tương lai tổ quốc
Vì Việt Nam quang vinh
Trên con đường tranh đấu
Luôn luôn cần hi sinh
Trên con đường tranh đấu,
Cần phải biết quên mình!
(viết tronglúc tiễn năm Mậu Tuất đón năm Kỷ Hợi 2019)
Mười ‘tiết lộ’ về Cuộc chiến Việt Trung 1979 – Nguyễn Hùng
Tưởng niệm chiến tranh biên giới 1979 – 2016.
Dịp kỷ niệm 40 năm Cuộc chiến Biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc chứng kiến màn mở miệng của phần lớn báo chí trong nước, vốn dè dặt trong hàng chục năm trở lại đây mỗi khi đề cập tới những ngày đẫm máu tại sáu tỉnh biên giới giáp Trung Quốc từ tháng Hai năm 1979.
Cuộc chiến trên thực tế còn kéo dài tới tận năm 1989 dù với quy mô, không gian và thời gian phần lớn hạn chế hơn. Mặc dù Đài Truyền hình Việt Nam đúng hôm 17/2 bị chỉ trích vì không dám một lần nhắc tới hai chữ ‘Trung Quốc’ khi đưa tin về các hoạt động kỷ niệm 40 năm cuộc chiến, phần đông báo chí Việt Nam đã không ngần ngại nhắc tên nước láng giềng từng bị gọi là “bành trướng, dã man”.
Đây là 10 điểm nhấn hay tiết lộ trên báo chí Việt Nam trong những ngày tháng Hai năm 2019.
1. Điểm nhấn thứ nhất là tổn thất không nhỏ về nhân mạng của Việt Nam trong cuộc chiến mà giai đoạn chính kéo dài từ ngày 17/2-5/3/1979 với sự tham gia của 600.000 lính Trung Quốc (dù một số học giả nói chỉ có 150.000 quân trực tiếp tham chiến) trên tuyến biên giới hơn 1.000km thuộc sáu tỉnh Cao Bằng, Hà Tuyên (Hà Giang ngày nay), Hoàng Liên Sơn (Lào Cai và Yên Bái ngày nay), Lạng Sơn, Lai Châu và Quảng Ninh. Báo chí Việt Nam nhắc lại lực lượng phòng thủ của Việt Nam tại vùng biên giới chỉ có 50.000 quân chống lại lực lượng “biển người” của Trung Quốc gồm cả chín quân đoàn chủ lực, 32 sư đoàn bộ binh độc lập và sáu trung đoàn xe tăng. Thông tấn xã Việt Nam nói về thiệt hại đối với nước cộng sản đàn em khi đó: “Để giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh, nhân dân Việt Nam cũng chịu những tổn thất nặng nề: hơn 30.000 cán bộ, chiến sĩ thương vong; hàng chục ngàn dân thường bị thiệt mạng.”
“Các thị xã Cao Bằng, Lạng Sơn, Cam Đường, Lào Cai gần như bị hủy diệt hoàn toàn; tổng cộng có 320 xã, 735 trường học, 41 nông trường, 81 xí nghiệp, hầm mỏ và 38 lâm trường bị tàn phá; 400.000 gia súc bị giết, bị cướp. Khoảng 50% trong tổng số 3,5 triệu người ở sáu tỉnh biên giới bị mất nhà cửa, tài sản và phương tiện sinh sống.”
Trong khi đó thiệt hại đối với Trung Quốc cũng được nêu: “Quân dân Việt Nam đã loại khỏi vòng chiến đấu 62.500 quân Trung Quốc, bắn cháy và phá hủy 550 xe quân sự, trong đó có 280 xe tăng, xe thiết giáp, phá hủy 115 khẩu pháo và cối hạng nặng, thu nhiều vũ khí, đồ dùng quân sự… buộc đối phương sớm rút quân, qua đó làm thất bại hoàn toàn ý đồ của các nhà cầm quyền Trung Quốc muốn áp đặt lợi ích nước lớn lên bán đảo Đông Dương.”
Các nguồn khác nhau nói thương vong của Trung Quốc ít hơn so với con số Việt Nam công bố tới cả vạn người.
2. Hiện đang có sự khác biệt lớn giữa toàn cảnh cuộc chiến Việt – Trung có trên truyền thông chính thống trong những ngày qua và những gì đang được ghi trong sách giáo khoa lịch sử.
Giáo sư, Tiến sỹ Phạm Hồng Tung từ Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, chủ biên chương trình Lịch sử trong chương trình giáo dục phổ thông viết rằng sách lịch sử lớp 12 chỉ có hai đoạn, bốn câu và 11 dòng dưới đây về cuộc chiến:
“Bảo vệ biên giới phía Bắc: Hành động thù địch chống Việt Nam của tập đoàn Pôn Pốt được một số nhà lãnh đạo Trung Quốc lúc đó đồng tình ủng hộ. Họ còn có những hành động làm tổn hại đến tình hữu nghị của nhân dân hai nước như cho quân khiêu khích dọc biên giới, dựng nên sự kiện “nạn kiều”, cắt viện trợ, rút chuyên gia. Nghiêm trọng hơn, sáng 17/2/1979, quân đội Trung Quốc huy động 32 sư đoàn mở cuộc tấn công dọc biên giới nước ta từ
Móng Cái (Quảng Ninh) đến Phong Thổ (Lai Châu). Để bảo vệ lãnh thổ Tổ quốc, quân dân ta, trực tiếp là quân dân sáu tỉnh biên giới phía Bắc, đã đứng lên chiến đấu. Đến ngày 18/3/1979, quân Trung Quốc rút khỏi nước ta”.
Ông Tung cũng nói thêm: “Khép lại quá khứ không có nghĩa là lảng tránh hay nói sai về quá khứ. Làm như vậy chỉ khiến nhận thức lịch sử trở nên tồi tệ hơn. Cần giúp học sinh nắm vững cách thức khám phá sự thật lịch sử về cuộc chiến một cách khoa học. Trên cơ sở đó, giáo viên nói rõ cho người học rằng đó là những sự thật của quá khứ, chúng đã thuộc về quá khứ. Hiểu rõ chúng để ngăn ngừa, không cho chúng tái sinh trong hiện tại và tương lai.”
3. Có nhiều khả năng sách giáo khoa lịch sử trong những năm tới đây sẽ được sửa đổi để phản ánh đúng và đủ hơn những gì thực sự diễn ra không chỉ trong cuộc chiến biên giới trên bộ mà cả trên biển. Giáo sư Tung khẳng định với VnExpress rằng các thông tin về các hành động của Trung Quốc và sự chống trả của Việt Nam sẽ được trình bày “toàn diện và cẩn trọng”. Trước đó, ông Tung cũng đã viết trong bài gửi trang tin Zing: “Trước đây, cũng như ngày nay, cách trình bày, nhìn nhận, đánh giá về lịch sử các cuộc chiến tranh nói trên ở Việt Nam và Trung Quốc rất khác nhau, thậm chí hoàn toàn trái ngược nhau.
“Về cuộc chiến tranh biên giới 1979, trong khi ở Việt Nam, giới trẻ ít được giáo dục, tuyên truyền, cung cấp thông tin một cách khoa học, đầy đủ, thì ở Trung Quốc, thanh niên, học sinh vẫn được tuyên truyền, giáo dục rằng đó là “cuộc chiến tranh phản kích chống Việt Nam để tự vệ” (phản Việt phòng vệ chiến tranh), nhằm trừng phạt “tiểu bá” Việt Nam vong ân bội nghĩa, tay sai của Liên Xô…”
4. Sách giáo khoa sử của Việt Nam không những bỏ hoàn toàn hai trận hải chiến Hoàng Sa (1974) và Trường Sa (1988) ra khỏi lịch sử giai đoạn 1979-1989 mà còn lờ luôn trận Vị Xuyên đẫm máu. Trang tin của Đài Tiếng nói Việt Nam hôm 15/2/2019 nêu lại:
“Từ tháng 4/1984 đến tháng 5/1989, Trung Quốc đã đưa hơn 500.000 quân đánh chiếm biên giới Vị Xuyên. Mặt trận Vị Xuyên- Hà Tuyên trở thành vùng chiến sự ác liệt nhất trong cuộc chiến chống xâm lấn biên giới. Đến giữa năm 1984, quân Trung Quốc lần lượt chiếm đóng trái phép nhiều cao điểm của Việt Nam thuộc tỉnh Hà Giang.
“Tháng 7/1984 về sau, Vị Xuyên tiếp tục là mặt trận ác liệt, hai bên giành giật nhau từng vị trí trên các điểm cao. Đỉnh điểm diễn ra vào đầu năm 1985, có ngày quân Trung Quốc bắn tới 30.000 quả đại bác vào Vị Xuyên trong khoảng rộng 5km, sâu 3km.”
5. Con trai của một trong những vị tướng chỉ huy mặt trận Vị Xuyên cũng đưa ra tiết lộ rằng ông đã để mất tới 30.000 lính trong các trận đánh với quân Trung Quốc, Hoa Kỳ và cả quân Pháp thời những năm 1950. Tướng Hoàng Đan không nói rõ bao nhiêu lính đã thiệt mạng trong thời gian ông là tư lệnh ở Vị Xuyên. Con trai Tướng Đan, ông Hoàng Nam Tiến, Chủ tịch FPT Software, viết trên Soha:
“Năm 1984, Trung Quốc quay trở lại gây chiến ở chiến trường Vị Xuyên, với mục đích gây sức ép cho ta ở mặt trận Campuchia. Lúc này, ba tôi đã được rút về làm Cục Phó Cục Khoa học Quân sự. Chỉ huy mặt trận Vị Xuyên lúc ấy là một vị Tướng khác.
“Ngày 12.7.1984, các đơn vị chủ lực của sư đoàn 312, 316 và 356 được lệnh dàn quân đánh với quy mô lớn. Tổn thất vô cùng kinh khủng. Chỉ trong một đêm, chúng ta mất 600 lính, bị thương vong 1.200 người. Sư đoàn 356 mất sức chiến đấu. Nên ngày 12.7 đến bây giờ vẫn được coi là ngày giỗ trận của lính Vị Xuyên.
“Ngay sau đó, ba tôi được Đại tướng Lê Trọng Tấn ra lệnh quay lại Biên giới phía Bắc, làm Tư lệnh mặt trận Vị Xuyên. Lên đến Vị Xuyên, chứng kiến thương vong khủng khiếp của những người lính, Ba tôi chỉ nói với những người chỉ huy trận đánh trước một câu duy nhất: “Các anh đánh thế này, thì mẹ Việt Nam anh hùng đẻ không kịp đâu”.
Ông Tiến viết thêm: “Việc đầu tiên ba tôi làm khi lên đến Vị Xuyên là thay đổi toàn bộ cách đánh trước đó. Không cho quân dàn hàng ngang đấu tay đôi với Trung Quốc nữa, ông yêu cầu bộ đội quay trở về chiến thuật thời Điện Biên Phủ.
“Ông lệnh cho bộ đội đào hầm để tránh pháo kích của địch; đào hào sát đến tận công sự địch, sử dụng tất cả các hang hốc để bố trí lực lượng, rồi tổ chức những nhóm nhỏ cấp trung đội, tiểu đội để tấn công bất ngờ.
“Thực tế là những tổn thất về con người từ đó đến năm 1985 cộng lại cũng không nặng nề bằng vài tuần đầu của chiến dịch.”
6. Về lý do Trung Quốc tiến đánh Việt Nam, Thiếu Tướng Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược của Bộ Công an nói với Báo Nghệ An:
“Khi nghiên cứu lịch sử Trung Quốc và chính sách ngoại giao của Đảng Cộng sản Trung Quốc, tôi thấy rằng có 2 lý do, mà những người lãnh đạo Trung Quốc đã phát động chiến tranh xâm lược Việt Nam ngày 17/2/1979: Nguyên nhân chủ yếu nhất, trực tiếp nhất, đó là Việt Nam đã tiêu diệt Khmer đỏ, cứu dân tộc Campuchia khỏi thảm họa diệt chủng, mà Khmer đỏ là “con đẻ” của Trung Quốc…
“Nguyên nhân thứ hai, cũng hết sức quan trọng, đó là Trung Quốc phát động chiến tranh xâm lược Việt Nam để tỏ lòng trung thành của Trung Quốc đối với Mỹ. Xin nhắc lại một sự kiện, đầu tháng Giêng năm 1979, trước khi phát động chiến tranh xâm lược Việt Nam, ông Đặng Tiểu Bình với tư cách là nhà lãnh đạo tối cao của Trung Quốc đã sang Mỹ. Trong phòng Bầu dục Nhà Trắng, trước mặt Tổng thống Mỹ Carter, ông Đặng Tiểu Bình đã nói với Tổng thống Mỹ rằng: “Trung Quốc nhận làm trách nhiệm NATO phương Đông, đề nghị Hoa Kỳ hợp tác chặt chẽ với Trung Quốc, để đánh bại đại bá Nga-Xô và tiểu bá Việt Nam”.
Tướng Cương cũng nói việc gọi cuộc chiến do Trung Quốc gây ra là “xung đột biên giới” là “nguỵ biện, lừa dối” vì đó là cuộc chiến tranh xâm lược. Ông cũng nói trong khi Việt Nam nói giảm đi về cuộc chiến này thì phía Trung Quốc lại tuyên truyền mạnh mẽ và sai trái về nó:
“40 năm nay, theo thống kê chưa đầy đủ, đã có gần 1 triệu bài báo trên báo chí Trung Quốc vu cáo Việt Nam xâm lược Trung Quốc, Trung Quốc chỉ phản ứng tự vệ.
Mãi đến năm 2010 vẫn còn 90% người Trung Quốc tin rằng, ngày 17/2/1979, Quân đội nhân dân Việt Nam xâm lược Trung Quốc. Đấy là một sự lừa dối lố bịch, trắng trợn của Trung Quốc về cuộc chiến tranh này!”
Nhưng Tướng Thước và các vị tướng khác của Việt Nam không nhắc tới vấn đề “nạn kiều” trong những năm cuối thập niên 1970 khi hàng vạn người Trung Quốc bị buộc phải rời khỏi Việt Nam ngay cả những người chưa bao giờ sống ở Trung Quốc và thậm chí cũng không biết luôn tiếng Trung. Họ cũng không nhắc tới việc Trung Quốc cáo buộc Việt Nam “vô ơn” khi nhận viện trợ lên tới hàng chục tỷ đô la Mỹ của Bắc Kinh để tiến hành chiến tranh chống Pháp và sau này là chống Hoa Kỳ và quân đội Việt Nam Cộng hoà.
7. Cuộc chiến mà Khmer Đỏ tiến hành chống Việt Nam ở biên giới tây nam và cuộc chiến do Đặng Tiểu Bình phát động ở biên giới phía bắc thực ra chỉ là một theo những gì Trung Tướng Nguyễn Quốc thước viết cho trang Giáo Dục Việt Nam:
“Trực tiếp tham gia chiến đấu chống tập đoàn phản động, diệt chủng Pol Pot -Ieng Sary ngay từ đầu, lúc đó chúng tôi vẫn nghĩ, kẻ gây ra cuộc chiến trên biên giới Tây Nam và nuôi dã tâm đánh thẳng tới thành phố Sài Gòn chỉ là của nhóm Khmer Đỏ cực đoan, nhưng có thế lực bên ngoài tiếp sức,” Tướng Thước viết.
“Khi ấy còn đang chiến đấu ở chiến trường Tây Nam, chúng tôi chỉ hiểu thế thôi.
Nhưng đến lúc Trung Quốc thực hiện tuyên bố “dạy cho Việt Nam một bài học”, thì chúng tôi mới hiểu ra rằng, hai cuộc tấn công Việt Nam trên hai mặt trận, biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, là cùng một kịch bản…”
Ông viết tiếp: “Đánh trả quân Pol Pot, lúc qua Campuchia truy kích Khmer Đỏ theo lời kêu gọi của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, chúng tôi mới thấy, không biết Khmer Đỏ lấy đâu ra nhiều vũ khí hạng nặng đến thế.
“Xe tăng của chúng đông, pháo binh của chúng đông, phòng [không] của chúng đông, đạn dược của chúng nhiều, chúng có hàng nghìn xe quân sự. Khmer Đỏ lấy đâu ra?
Đánh xong mới thấy pháo của Trung Quốc, xe tăng T-59 của Trung Quốc, pháo cao xạ 2 nòng của Trung Quốc và xe Hồng Hà của Trung Quốc tràn ngập. Lúc ấy, chúng tôi mới càng thấy rằng lãnh đạo Trung Quốc khi đó đã mượn tay Pol Pot để thực hiện một âm mưu khác với Việt Nam trên hướng biên giới Tây Nam.
“Đến ngày 17 tháng Hai năm 1979, Trung Quốc đã cất quân tiến đánh toàn tuyến biên giới phía Bắc Việt Nam. Thời điểm đó, có 4 quân đoàn chủ lực của Quân đội Nhân dân Việt Nam thì 3 quân đoàn đang phải đối phó với tập đoàn diệt chủng Pol Pot – Ieng Sary; Miền Bắc chỉ còn Quân đoàn 1 chủ yếu là các đơn vị dự bị làm nhiệm vụ phòng thủ, nhưng là đề phòng với Mỹ chứ không phải Trung Quốc.”
8. “[C]ần gác lại quá khứ nhưng không lãng quên quá khứ” cũng là điều mà Tướng Nguyễn Quốc Thước nêu ra. Ông viết:
“Không thể có hòa bình hữu nghị lâu dài, tin cậy lẫn nhau một khi Trung Quốc vẫn đánh tráo bản chất cuộc chiến tranh tấn công toàn tuyến biên giới Việt Nam thành cái gọi là “phản kích tự vệ” như cách họ tuyên truyền cho người dân nước này.
“Quyết định tiến hành hai cuộc chiến chống Việt Nam trên 2 hướng biên giới là của một nhóm lãnh đạo cực đoan trong Đảng Cộng sản Trung Quốc thời điểm bấy giờ, chứ không phải mong muốn hay ý chí của nhân dân Trung Quốc…
Tướng Thước nhận định: “Kỷ niệm 40 năm sự kiện này, chúng tôi cho rằng cả Trung Quốc và Việt Nam đều nên nghiêm túc rút ra bài học.. Tổn thất về con người và vật chất cả hai bên đều có, nhưng cuộc chiến tranh phi nghĩa này tổn hại đến chính uy tín và hình ảnh của Trung Quốc trên thế giới. Trung Quốc nên nhìn thẳng vào vấn đề này, để tránh lặp lại vết xe đổ mà một nhóm lãnh đạo của họ từng gây ra.
“Ai gây ra chiến tranh, kẻ đó phải biết rút kinh nghiệm, bởi trạng chết, chúa cũng băng hà! Chúng tôi cần nhấn mạnh rằng, bảo vệ hòa bình, hợp tác và hữu nghị là mong muốn, nguyện vọng chung của nhân dân hai nước Việt Nam và Trung Quốc, rút bài học để tránh chiến tranh không có nghĩa là cầu hòa.”
9. Nhìn lại lịch sử để có ngày “sẽ lấy lại Hoàng Sa” và cả một phần đảo Trường Sa mà Trung Quốc đang giữ là điều mà Tướng Thước nói tới trong một bài viết khác cũng cho Giáo Dục Việt Nam.
Ông viết: “Những tranh chấp do lịch sử để lại, ví dụ Trung Quốc thôn tính nốt quần đảo Hoàng Sa năm 1974 và gây ra cuộc thảm sát Gạc Ma năm 1988 để thôn tính một phần quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền hợp pháp của Việt Nam, sẽ từng bước phải tìm cách giải quyết bằng biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế.
“Cục diện Biển Đông ngày nay liên quan mật thiết và là diễn biến tiếp theo của Chiến tranh Lạnh, là địa bàn cạnh tranh chiến lược chuyển từ mâu thuẫn ý thức hệ Hoa Kỳ – Liên Xô sang tranh giành vị thế siêu cường số 1 giữa Mỹ và Trung Quốc…
“Nếu như năm 1974 Trung Quốc đánh chiếm nốt nửa phía Tây quần đảo Hoàng Sa vì cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thống nhất Tổ quốc đang bước vào giai đoạn nước rút, thì cuộc thảm sát, thôn tính Gạc Ma và 5 cấu trúc địa lý ở Trường Sa tháng Ba năm 1988 diễn ra trong bối cảnh Việt Nam bị bao vây cấm vận, chiến tranh tàn phá, kinh tế kiệt quệ.
“Ngay cả Hoa Kỳ là đồng minh của Việt Nam Cộng hòa cũng nhắm mắt làm ngơ cho Trung Quốc chiếm Hoàng Sa. Liên Xô là đồng minh của chúng ta, có lực lượng quân sự đóng tại Cam Ranh thời điểm 1988 cũng không thể giúp gì trong sự kiện Trung Quốc chiếm Gạc Ma, vì bản thân họ phải tính đến lợi ích của mình trước.”
Ông Thước còn viết: “Trong lịch sử quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc, cha ông ta đã từng đàm phán thành công khiến triều đình nhà Tống ở Trung Quốc trả lại phần đất đai họ xâm chiếm của Đại Việt thời Hoàng đế Lý Nhân Tông.
“Cha ông ta đòi được phần lãnh thổ đã mất là nhờ tài bang giao khéo léo của những người được triều đình phó thác trọng trách. Nhưng nền tảng cho thắng lợi ấy phải là thế và lực của một đất nước hòa bình, thịnh trị, chứ không phải một quốc gia nhược tiểu. Biết rằng Hoàng Sa, một phần Trường Sa là máu thịt của Tổ quốc Việt Nam đang nằm trong tay Trung Quốc và một số nước khác, con cháu đời đời không quên nghĩa vụ phải lấy lại, nhưng không phải là lúc này, càng không phải bằng vũ lực.”
10. Những tội ác chiến tranh của quân đội Trung Quốc cũng được nêu lại trong đợt kỷ niệm 40 năm này. Trang tin của Đài Tiếng nói Việt Nam nói “không ai quên được tội ác thảm sát, giết chết 43 phụ nữ và trẻ em tại Tổng Chúp” thuộc tỉnh Cao Bằng. Video được đăng tải nói về cuộc “thảm sát man rợ” trong đó lính Trung Quốc dùng “cọc tre, búa bổ củi đập chết 43 phụ nữ và trẻ em”.
Ông Nông Thanh Quế, nguyên chủ tịch Hội nhà báo Cao Bằng được dẫn lời nói: “Tại sao lại toàn nữ và trẻ em? Vì đấy là nhà trẻ của công ty giống, thức ăn gia súc của tỉnh Cao Bằng. Công ty ấy là trẻ con chạy chậm quá và cái ý đồ sơ tán của mình có nhưng chắc là bên công ty chưa chuẩn bị kịp. Phương tiện không có nên đi bộ thôi nên xảy ra chuyện trên đường đi bị quân Trung Quốc vây, dồn vào khu tập thể. Nhiều bà mẹ còn chưa đến đón con kịp.
Đài Tiếng nói Việt Nam cũng dẫn lời bà Nông Thị Kim Chung, người nhà của một trong các nhạn nhân nói: “Lên nhận xác, mẹ tôi có mái tóc dài… mới nhận dạng được. Còn một đứa em gái, tám tháng tuổi, vẫn địu trên lưng, bị nó đập vào đầu, đầu bị lõm một vệt trên đỉnh đầu.”
Những sự kiện được nhắc lại trong đợt kỷ niệm 40 năm Cuộc chiến Việt – Trung cũng lại làm một số người nhắc lại diễn biến Mậu Thân 1968 khi lực lượng cộng sản Bắc Việt tiến hành chiến tranh vào dịp Tết và cũng bị cáo buộc gây ra những cuộc “thảm sát” người dân của chính mình.
Mặc dù báo chí Việt Nam được cởi trói trong dịp kỷ niệm hiện nay, người ta chỉ có thể hy vọng sự thật lịch sử sẽ thực sự được tôn trọng khi không còn hệ thống đèn xanh, đèn đỏ trong lĩnh vực xuất bản ở Việt Nam. Hơn nữa sự cởi trói cũng không phải là toàn diện và các hoạt động tưởng niệm của người dân trong dịp này đều bị ngăn chặn một cách thô thiển. Người ta đã cho cẩu đi lư hương ở tượng đài Trần Hưng Đạo thuộc thành phố Hồ Chí Minh để người dân không thể thắp hương tưởng nhớ hàng vạn người thiệt mạng. Cách hành xử này cho thấy tư duy của nhiều lãnh đạo Việt Nam còn ở tầm của Thế kỷ 19 chứ không phải ở Thế kỷ 21.
https://www.voatiengviet.com/a/muoi-tiet-lo-ve-cuoc-chien-bien-gioi-viet-trung-1979/4791346.html
Hàn Phi Tử – Nguyễn Hiến Lê & Giản Chi
Chương 7 – Thuật
Chủ trương của Pháp gia là bậc vua chúa có nhiệm vụ làm sao cho dân theo đúng pháp luật, như vậy là nước trị. Công việc nhiều quá, vua không thể làm hết được, phải giao cho quan lại, hễ quan lại tốt thì dân không loạn, hễ dân nổi loạn thì luôn luôn là do quan lại xấu. Vì vậy bậc minh chủ trị quan lại chứ không trị dân.
聞有吏雖亂而有獨善之民,不聞有亂民而有獨治之吏。故明主治吏不治民。
(Văn hữu lại tuy loạn nhi hữu độc thiện chi dân, bất văn hữu dân loạn nhi hữu độc trị chi lại, cố minh chủ trị lại bất trị dân – Ngoại trừ thuyết hữu hạ – Kinh 4) Rốt cuộc thuật trị nước tức là trị quan lại.
Hàn Phi rất chú trọng đến thuật trị quan lại, để riêng cả chục thiên xét riêng về vấn đề đó: Bát thuyết, Bát gian, Bát kinh, Nam diện, Gian kiếp thí thần hai thiên, bốn thiên Ngoại trừ thuyết; ngoài ra hầu hết các thiên khác cũng có vài câu nhắc tới.
Danh từ “thuật” ông dùng có hai nghĩa:
– Kỹ thuật: Tức phương án để tuyển, dùng, xét khả năng của quan lại, đúng với định nghĩa của Thân Bất Hại:
“Thuật là nhân tài năng mà giao cho chức quan, theo cái danh mà trách cứ cái thực, nắm quyền sinh sát trong tay mà xét khả năng của quần thần” (Định pháp) Thuật đó là thuật hình danh hoặc danh thực (sẽ được xét ở sau) có thể để cho mọi người biết, vua không cần phải giấu.
– Tâm thuật, tức những mưu mô để chế ngự quần thần, bắt họ phải để lộ thâm ý của họ ra, như những thuật trong Ngoại trừ thuyết hữu thượng:
+ Làm bộ như ra lệnh và ra lệnh giả.
+ Giấu điều mình biết rồi mà hỏi để biết thêm những điều khác.
+ Nói ngược lại những điều mình muốn nói để dò xét gian tình của người.
+ Ngầm hại những bề tôi mình không cảm hoá đuợc, ….
Cuối thiên Nạn tam, Hàn Phi bảo: “Thuật thì không muốn cho người khác thấy… dùng thuật thì những kẻ yêu mến, thân cận cũng không được nghe”; chữ thuật ông dùng đó có nghĩa là tâm thuật.
Trong chương này chúng tôi không xét các tâm thuật vì chúng nhiều quá, thiên biến vạn hoá, không theo một qui tắc nào khác, ngoài qui tắc này: gạt người sao cho có kết quả; độc giả sẽ thấy chúng rải rác trong các cố sự Hàn đã ghi lại trong các thiên Nội trừ thuyết, Ngoại trừ thuyết, Nạn, Thuyết lâm… Dưới đây chúng tôi chỉ phân tích kĩ thuật trừ gian và dùng người của Hàn Phi
A – Trừ gian
Hàn cho rằng cái lợi của vua tôi khác nhau, mà ai cũng chỉ lo cho tư lợi, nên bề tôi nào cũng mang ý phản vua (chữ bề tôi ở đây có nghĩa rộng trỏ cả anh em, vợ con của vua) và ông khuyên các vua chúa: “Bậc minh chủ không nên ỷ vào cái lẽ bề tôi không phản mình mà ỷ vào cái lẽ họ không thể phản mình được; không ỷ vào cái lẽ họ không gạt mình mà ỷ vào cái lẽ họ không thể gạt mình được”
明主者,不恃其不我叛也,恃吾不可叛也;不恃其不我欺也,恃吾不可欺也。
(Minh chủ giả bất thị kì bất ngã bạn dã, thị ngô bất khả bạn dã; bất thị kì bất ngã khi dã, thị ngô bất khả khi dã – Ngoại trừ thuyết tả hạ).
Trong thiên Bát kinh, Hàn kể sáu hạng người có thể làm loạn: mẹ vua, hậu phi, con cháu vua, anh em vua, đại thần, người nổi danh là hiền, được lòng dân.
Trong thiên Bát gian, ông trở lại vấn đề đó, vạch ra tám hạng gian thần: bọn chung giường với vua (vợ vua, cung nhân, sủng thần đẹp trai), bọn tả hữu thân cận (hề, kép hát…), bọn cha anh của vua, bọn thoả lòng ham vui, ham sắc của vua, bọn làm hao tán của công để mua chuộc lòng dân, bọn ăn nói khéo léo làm mê hoặc vua, bọn tụ tập các hiệp sĩ, kiếm khách để tỏ cái uy của họ, và bọn thờ nước ngoài.
Sự liệt kê đó lộn xộn: sắp lại thì có thể chia làm hai hạng: kẻ thân thích của vua và quần thần. Cả hai đều đánh vào tình cảm, thị dục và nhược điểm của vua để lung lạc, che giấu vua. Họ lập bè đảng ở trong nước, ngầm giao kết với nước ngoài, nuôi uy thế để khi đủ mạnh rồi thì lật đổ vua. Để tự do hoành hành, họ ngăn cản, hãm hại các trung thần. Hàn Phi coi họ là bầy chó dữ của nước.
Thiên Ngoại trừ thuyết hữu thượng, ông kể truyện nước Tống có người bán rượu ngay thẳng, ân cần với khách, rượu lại ngon mà bán vẫn ế chỉ vì tiệm nuôi một con chó dữ, hễ thấy người tới mua là xông ra cắn.
Các trung thần muốn giết bọn gian thần nhưng vua lại che chở chúng, thành thử chúng yên ổn ỷ quyền thế mà bóc lột dân làm giàu, lập bè đảng để che giấu tội ác của nhau, bịt mắt vua; cũng như loại chuột khoét đất, đào hang ở trong nền xã (nơi thờ thần đất đai) mà không ai làm gì được vì nếu hun khói thì sợ cây cột (thần vị) cháy, mà dội nước thì sợ trôi mất lớp đất màu tô ngoài cây cột.
Để ngăn cấm bọn đó, vua chúa phải:
– Đừng để lộ sự yêu thích, giận ghét của mình. “Bậc minh chủ phải giữ bí mật, nếu để lộ niềm vui ra, thì bề tôi nhân dịp vua vui mà xin gia ân cho người khác, nếu để lộ nỗi giận ra thì bề tôi nhân đó mà thị uy với người khác” (Bát kinh).
+ Không cho họ biết mưu tính của mình, nếu là việc quan trọng thì vua phải ngủ riêng để hễ có nằm mơ, nói mớ thì cũng không ai biết được.
+ Không phải (cho?) họ mưu tính việc riêng, không để họ tự ý hành động, việc gì cũng phải hỏi mình trước.
+ Bắt họ phải theo đúng pháp luật mà chính vua cũng phải theo pháp luật trong việc thưởng phạt họ.
+ Xét xem hành động của họ có hợp với lời nói của họ không (coi tiết sau: thuật dùng người).
+ Không cho họ cùng phi tần, cung nữ xin riêng cái gì cả.
+ Không cho họ lấy tiền bạc trong kho, lúa trong lẫm để thi ân riêng cho dân.
+ Khi họ khen ai, chê ai, thì phải xét xem người được họ khen thực có tài năng không, người bị họ chê thực có tội lỗi không. Các yêu sách của chư hầu, hợp pháp thì nghe, không thì cự tuyệt (Bát gian).
° ° °
Có một cách để tìm kẻ gian là khi một việc xảy ra, hại cho nước hoặc cho một người nào đó thì xét xem ai là kẻ có lợi.
Ví dụ: Trần Nhu là bề tôi của vua Ngụy; nước Kinh đánh Ngụy, ông ta vì vua Ngụy đứng ra hoà giải, rồi nhờ thế lực của Kinh mà ông ta được làm tướng quốc Ngụy. Việc đó có lợi cho Trần Nhu, cho nên ta biết được ông ta đã ngầm xúi Kinh đánh Ngụy.
Một ví dụ nữa: “Chiêu Hi Hầu tắm, thấy trong nước có sạn, hỏi:
– Nếu người coi việc tắm gội mất chức thì có ai thay chân không? Kẻ tả hữu đáp có. Hi Hầu bảo: “Gọi nó vô” rồi mắng người đó:
– Tại sao ngươi bỏ sạn vô nước nóng?
Hắn đáp:
– Anh coi việc tắm gội mà mất chức thì thần được thay chân, vì vậy thần bỏ sạn vô nước tắm. (Nội trừ thuyết hạ)
° ° °
Muốn kiềm chế hạng người có địa vị cao, trách nhiệm lớn ta có ba cách:
– Nếu là người hiền, có thể bắt vợ con, thân thích của họ làm con tin;
– Nếu là kẻ tham lam thì cho họ tước lộc hậu hĩ như đã hứa với họ để “an định” họ, tức là mua chuộc họ để họ khỏi làm phản;
– Nếu là kẻ gian tà thì phải làm cho họ khốn khổ bằng cách trừng phạt (Bát kinh)
° ° °
Dùng những cách đó mà vẫn không cải hoá được thì phải trừ họ đi. Muốn trừ họ mà không thương tổn danh tiếng của vua thì nên đầu độc họ, hoặc dùng kẻ thù của họ để giết họ, như vậy là trừ gian một cách kín đáo (Bát kinh).
Điều cần nhất là phải diệt cho sớm, đừng để họ làm bậy lâu, mỗi ngày một chất chứa, sức họ mạnh lên, có thể giết mình được. Hàn Phi khuyên vua chúa nhớ lời của Tử Hạ (một môn đệ của Khổng tử): “Sách Xuân Thu chép cả chục vụ bề tôi giết vua, con giết cha; tất cả những vụ đó đều không phải chỉ trong một ngày mà xảy ra, mà do chất chứa lần lần rồi sau mới phát” (Ngoại trừ thuyết hữu thượng)
° °
Mà cách tốt nhất để theo lời Tử Hạ là đừng dùng những kẻ không nên dùng để khỏi phải đề phòng họ. Hàn Phi trong thiên Hữu độ cho ta biết năm hạng người không nên dùng:
1. Hạng người khinh tước lộc, dễ dàng bỏ chức vụ mà đi chọn vua khác.
2. Hạng người lánh đời, ở ẩn, chê bai vua.
3. Hạng người đặt lời giả dối trái pháp luật.
4. Hạng người thi ân để thu phục kẻ dưới.
5. Hạng người vì tư lợi mà giao thiệp với chư hầu. Rồi trong thiên Bát thuyết, ông lại kể thêm năm hạng người nữa 6. Hạng người vì người quen cũ mà làm việc riêng tư, họ là bạn tốt nhưng là quan lại gian.
7. Hạng người bỏ chức quan mà thích giao du.
8. Hạng người tranh thắng với bề trên.
9. Hạng người uốn cong pháp luật vì người thân (giống hạng 6)
10. Hạng người đem của công ra bố thí. (giống hạng 4).
Tuy nhiên ông cũng nhận rằng một số gian thần chính là kẻ tài giỏi, nếu vua có đủ thuật để khống chế họ thì họ sẽ trung thành với mình mà giúp mình đắc lực như trường hợp Triệu Giản Chủ dùng Dương Hổ, một phản thần của Lỗ mưu cướp quyền chúa, thất bại phải trốn qua Triệu. Kẻ tả hữu can Giản chủ: “Hổ giỏi cướp chính quyền, sao nhà vua lại dùng làm tướng quốc?” Giản chủ đáp: “Hổ lo cướp chính quyền, ta lo giữ” và ông dùng thuật, khống chế nơi Dương Hổ, Dương Hổ tận tâm phụng sự, làm cho Triệu mạnh lên. Rốt cuộc quan trọng hơn cả vẫn là phải có thuật.
Phòng gian, diệt gian là khía cạnh tiêu cực của thuật, tuyển người, dùng người để tăng công hiệu hành chánh mới là khía cạnh tích cực.
B – Dùng người
Qui tắc căn bản của thuật dùng người theo pháp gia là thuyết hình danh. Người đầu tiên lập thuyết về danh là Khổng tử. Thuyết chính danh của ông là một thuyết để trị nước: chính danh là để “minh phận”, phân sự sang hèn, cũng để nhắc nhở nhà cầm quyền nhớ đến bổn phận của họ: đã mang danh là vua, là cha mẹ của dân thì phải giữ tư cách ông vua, làm tròn sứ mệnh ông vua, cũng như cái “cô” – một bình rượu – thì phải có khía, có cạnh, không có khía, có cạnh thì không được gọi là cái “cô” (Luận ngữ – Ung dã – 23 – Cô cất cô, cô tai, cô tai!)
Vì vậy mà chương Tử Lộ, bài 3, khi Tử Lộ hỏi ông nếu được vua Vệ mời tham chính thì ông sẽ làm gì trước hết, ông đáp phải chính danh trước hết, vì nếu danh không chính thì lời nói không thuận, lời nói không thuận thì việc không thành; việc không thành thì lễ nhạc không hưng, lễ nhạc không hưng thì hình phạt không trúng, hình phạt không trúng thì dân không biết chỗ nào mà đặt tay chân (tức không biết hành động ra sao)
名不正則言不順,言不順則事不成,事不. 成則禮樂不興,禮樂不興則刑罰不中,刑罰不中則民無所措手足。
(Danh bất chính tắc ngôn bất thuận, ngôn bất thuận, tắc sự bất thành, sự bất thành tắc lễ nhạc bất hưng, lễ nhạc bất hưng tắc hình phạt bất trúng; hình phạt bất trúng tắc dân vô sở thố thủ túc).
Mạnh tử cũng theo thuyết đó nhưng gay gắt hơn, bảo vua mà tàn bạo như Trụ thì không phải là vua, chỉ là một thất phu, vậy giết Trụ không phải là thí vua mà chỉ là giết một tên thất phu (tàn tặc chi nhân vị chi thất phu; văn tru nhất phu Trụ hĩ, vị văn thí quân dã -Lương Huệ Vương, hạ – bài 8).
Rồi sau Công Tôn Long áp dụng nguyên tắc chính danh vào tất cả các lĩnh vực, chứ không riêng trong lĩnh vực chính trị. Chính danh của ông là để phân biệt đồng và dị (giống và khác nhau).
Mặc gia cũng chính danh để phân biệt đồng, dị và bước thêm vào khu vực tri thức luận, vào ngôn ngữ học, chia danh thành ra ba loại: đạt danh (danh phổ biến, như: vật), loại danh (danh chỉ loài, như: ngựa, mèo) và tư danh (danh riêng, như nhân danh, địa danh) 2.
Tuân tử tập đại thành Khổng tử, Công Tôn Long và Mặc gia. Mục đích chính danh của ông là vừa để “minh phận” vừa để phân biệt đồng và dị. Ông nêu lên phép chế danh gồm bốn qui tắc mà qui tắc chính là “thực cùng thì danh phải cùng”, “thực khác thì danh phải khác”, nghĩa là danh và thực phải hợp nhau. 3
Hàn Phi là môn đệ của Tuân Tử chắc đã trực tiếp chịu ảnh hưởng của Tuân hơn là của phái Danh gia, nhưng ông có óc thực tế, không bàn về tri thức luận, chỉ áp dụng thuyết của Tuân vào chính trị: mà trong phạm vi chính trị, ông cũng chỉ thu hẹp vào việc dùng người, gạt bỏ luân lí, đạo đức ra, vì vậy ông không hề nói đến việc chính danh, chỉ nói đến hình danh (刑名), hoặc danh thực (名實). Sự vật hễ có hình, có thực thì có danh. Danh và hình (hay thực) phải hợp nhau, như vậy là “tuần danh trách thực” (循名責實) theo cái danh mà đòi, cầu cái thực; “hình danh tham đồng” (刑名參同) hình và danh hợp với nhau; “thẩm hợp hình danh” (審合刑名) xét xem hình với danh có hợp nhau không.
Ví dụ một ông bạn hứa sẽ tới thăm ta, lời hứa đó là “danh”, mà việc ông ấy tới thăm là “hình” hay “thực”; nếu ông ấy giữ lời hứa, tới thăm thật thì “danh” và “hình” hợp nhau; “danh” và “thực” hợp nhau; nếu không thì chỉ có danh mà không có hình, không có thực.
Lấy pháp luật làm danh thì việc là hình: sự việc mà hợp với pháp thì danh và thực hợp nhau. Lấy quan vị làm danh thì chức vụ là hình: nếu hai cái không hợp nhau (chẳng hạn một người địa vị là trưởng ti mà không điều khiển nổi nhân viên trong ti, còn việc gì cũng giao cho một người phụ tá) thì là hình danh không hợp.
Hàn cho qui tắc hình danh hợp nhau là quan trọng bậc nhất trong việc trị quan lại (tức trị nước), nếu không theo nó thì không sao phân biệt được kẻ giỏi người dở, kẻ ngay người gian, không sao thưởng phạt cho đúng được, vua sẽ mất quyền, nước sẽ loạn.
Thiên Dương giác chép:
“Cái đạo (tức thuật) nắm được cái cốt yếu 4 là lấy danh làm đầu, danh chính thì vật định, danh lệch thì vật đổi… vua nắm lấy danh, bề tôi làm ra hình. Hình và danh so sánh mà giống nhau thì trên dưới hoà điệu”
用一之道, 以名爲首, 名正物定, 名倚物徒(…)君操其名,臣效其形,形名參同,上下和調
(Dụng nhất chi đạo, dĩ danh vi thủ, danh chính vật định, danh ỷ vật tỉ… quân tháo kì danh, thần hiệu kì hình, hình danh tham đồng, thượng hạ hoà điệu).
Thiên đó, hiển nhiên không phải của Hàn Phi, vì dùng thể văn cân đối bốn chữ, đôi khi có vần; lại dùng từ ngữ “chính danh” mà chúng tôi không thấy trong các thiên khác. Nhưng ý nghĩa giống câu này trong thiên Nhị bính:
“Bậc vua chúa muốn ngăn cấm gian tà tất phải xét xem hình và danh có hợp nhau không, danh là lời nói mà hình là sự việc”.
人主將欲禁姦,則審合刑名;刑名者,言與事也。
(Nhân chủ tương dục cấm gian, tắc thẩm hợp hình danh; hình danh giả, ngôn dữ sự dã).
Thiên Nạn nhị, Hàn cũng viết:
“Bậc nhân chủ tuy sai khiến bề tôi, nhưng tất phải có độ lượng (tức pháp độ, pháp luật) làm tiêu chuẩn; việc mà hợp với pháp thì làm, không hợp thì ngưng; công (tức kết quả) xứng với lời nói thì thưởng, không xứng thì phạt, dùng quy tắc hình danh mà thu phục bề tôi, lấy độ lượng làm tiêu chuẩn cho kẻ dưới”.
人主雖使臣必以度量準之,以刑名參之,事遇於法則行,不遇於法則止;功當其言則賞,不當則罰;以刑名收臣,以度量準下
(Nhân chủ tuy sử thần, tất dĩ độ lượng chuẩn chi, dĩ hình danh tham chi; sự ngộ ư pháp tắc hành, bất ngộ ư pháp tắc chỉ, công đáng kì ngôn tắc thưởng, bất đáng tắc phạt; dĩ hình danh thu thần, dĩ độ lượng chuẩn hạ).
“Dùng qui tắc hình danh hợp nhau mà thu phục bề tôi” (dĩ hình danh thu thần) thì không được nghe lời giới thiệu của người khác mà phải đích thân xét xem người mình muốn dùng có xứng đáng không, vì người giới thiệu có thể vì tình riêng, vì tư lợi, vì tinh thần bè đảng mà đề cử hạng bất tài, vô đức. Mà trong đời, kẻ có tài chưa nhất định đã đáng tin, kẻ có đức lại chưa nhất định là có tài 5, cho nên việc bổ nhiệm người, nếu không có thuật thì sẽ thất bại.
Muốn cho khỏi bị gạt, khỏi thất bại thì phải rất thận trọng, tham bác ý kiến của nhiều người, đích thân xét tài đức rồi mới giao việc.
Về điểm đó, Hàn cũng nghĩ như Mạnh tử. Mạnh tử khuyên các vua chúa:
“Như muốn dùng một người nào mà hỏi kẻ tả hữu, ai cũng bảo người đó là hiền, như vậy cũng chưa được; hỏi các đại phu, các đại phu cũng bảo người đó hiền, như vậy cũng chưa được, khi hết thảy quốc dân đều bảo người đó là hiền, lúc đó mới xét người ấy, xét xong mà thấy người đó quả là hiền thì mới dùng (Lương Huệ vương – hạ – 7).
Nhưng Mạnh tử nói vậy mà không chỉ cách xét người ra sao, Hàn Phi cho ta phương pháp “thính ngôn”, “tham nghiệm” và “thí chi quan chức”.
Thính ngôn: phương pháp nghe.
1- Khi nghe bề tôi nói thì vua phải trầm mặc, lầm lì, không khen không chê, không để lộ ý nghĩ cùng tình cảm của mình:
“Đạo nghe người nói là làm cho người say mèm. Môi chừ, răng chừ ta đừng hé trước. Răng chừ, môi chừ ta càng giữ yên, để kẻ đó tự hé môi, ta sẽ nhận đó mà biết ý và lòng họ”
廳言之道,溶若甚醉。脣乎齒乎,吾不为始乎;齒乎脣乎,愈惛惛乎。彼自离之,吾因以知之
(Thính ngôn chi đạo, dong nhược thậm tuý. Thần hồ, xỉ hồ, ngô bất vi thuỷ hồ! Xỉ hồ, thần hồ, dũ hôn hôn hồ! Bỉ tự li chi, ngô nhân dĩ tri chi – Dương giác)
Thiên Dương giác như chúng tôi đã nói không phải là của Hàn Phi nhưng ý trong đoạn trên đúng là ý của Hàn: bậc vua chúa phải bí hiểm, để bề tôi khỏi dò được lòng mình (coi cuối chương III phần này).
2- Phải bắt bề tôi nói, không được làm thinh, mà nói thì phải có đầu đuôi, có chứng cứ:
“Đạo làm chúa là khiến cho bề tôi biết rằng họ chịu trách nhiệm về điều họ đã nói, lại có trách nhiệm về chỗ họ không nói. Lời nói không có đầu đuôi, biện luận mà không có chứng cứ, đó là chịu trách nhiệm về điều đã nói: không nói để trốn tránh trách nhiệm, để giữ địa vị quan trọng của mình, đó là chịu trách nhiệm về chỗ không nói. Bậc vua chúa bắt bề tôi hễ nói thì phải có đầu đuôi, đúng với sự thực; nếu họ không nói thì phải hỏi họ lấy chỗ nào, bỏ chỗ nào trong đề nghị để rồi khi thực hành xét xem ý kiến họ có đúng hay không; như vậy bề tôi không dám nói bậy, cũng không dám làm thinh… “.
主道者,使人臣知有言之责,又有不言之责。言無端末辩無所验者,此言之责也;以不言避责持重位者,此不言 之责也。人主使人臣言者必知其端末以责其实,不言者必问其取舍以为之责。则人 臣莫敢妄言矣,又不敢默然矣
(Chủ đạo giả, sử nhân thần tri hữu ngôn chi trách, hựu hữu bất ngôn chi trách. Ngôn vô đoan mạt, biện vô sở nghiệm giả, thử ngôn chi trách dã. Dĩ bất ngôn tị trách, trì trọng vị giả, thử bất ngôn chi trách dã. Nhân chủ sử nhân thần ngôn giả, tất tri kì đoan mạt, dĩ trách kì thực; bất ngôn giả tất vấn kì thủ xã dĩ vi chi trách, tắc nhân thần mạc cảm vọng ngôn hĩ, hựu bất cảm mặc nhiên hĩ. – Nam diện).
3- Lời nói của bề tôi không được trước sau mâu thuẫn với nhau: “Đạo làm chúa là khiến cho lời nói trước của bề tôi không trái với lời nói sau, lời nói sau không trái với lời nói trước, (nếu trái thì) dù việc thành cũng phải chịu tội”.
主道者,使人臣前言不复于后,复言不复于前, 事虽有功,必伏其罪
(Chủ đạo giả, sử nhân thần tiền ngôn bất phục ư hậu, hậu ngôn bất phục ư tiền, sự tuy hữu công, tất phục kì tội – Như trên).
4- Bề tôi phải đưa ra ý kiến rõ rệt, không được mập mờ, ba phải để trốn tránh trách nhiệm.
“Bề tôi đưa ra nhiều ý kiến là để tỏ rằng mình có nhiều trí và khiến cho vua phải tự lựa lấy một ý kiến mà mình tránh được tội. Cho nên chỉ hạng vua dở mới để bề tôi đưa ra nhiều ý
kiến. Đừng để bề tôi đưa ra một ý kiến thứ nhì mà ý kiến đó với ý kiến thứ nhất xem ra giá trị như nhau… “.
眾諫以效智,使君自取一以避罪。故眾之諫也,敗君之取也。無副言於上以設將然
(Chúng gián dĩ hiệu trí, sử quân tự thủ nhất dĩ tị tội. Cố chúng chi gián dã, bại quân chi thủ dã. Vô phó ngôn ư thượng, dĩ thiết tương nhiên… Bát kinh).
5- Quan trọng nhất là lời nói phải có thiết thực, có công dụng, không phải là hư ngôn. Ý này, Hàn diễn đi diễn lại trong nhiều thiên: “Minh chủ nghe lời nói thì đòi phải có công dụng”.
明主聽其言必責其用
(Minh chủ thính kì ngôn tất trách kì dụng – Lục phản).
“Minh chủ dùng sức (của bề tôi) mà không nghe lời nói của họ”.
明主用其力,不聽其言
(Minh chủ dụng kì lực, bất thính kì ngôn -Ngũ đố) Nghĩa là lời nói hay mà không được việc thì cũng vô ích.
“Lời nói và hành vi, lấy công dụng làm cái đích để nhắm”
言行者,以功用爲的彀者也
(Ngôn hành giả, dĩ công dụng vi đích cấu giả dã).
“Bậc vua chúa khi nghe người nói mà không lấy công dụng làm mục đích thì kẻ biện thuyết sẽ nói nhiều về những thuyết mũi gai đâm và ngựa trắng”
人主之聽言也,不以功用為的,則說者多棘刺白馬之說
(Nhân chủ chi thính ngôn dã, bất dĩ công dụng vi đích, tắc thuyết giả dã cức thích, bạch mã chi thuyết (Ngoại trừ thuyết tả thượng – Kinh 2).
Thuyết “bạch mã phi mã” (ngựa trắng không phải là ngựa) của Công Tôn Long, chúng ta đã biết rồi; còn thuyết mũi gai đâm thì Hàn Phi đã chép lại trong phần truyện cùng thiên kể trên:
Một người nước Tống nói với vua Yên rằng có thể chạm hình con khỉ vào đầu một mũi gai, nhưng vua phải trai giới ba tháng rồi mới trông thấy hình cực nhỏ đó. Vua Yên tin, ban lộc cho anh ta để anh ta khởi công.
Một người hầu cận vua chỉ cho vua thấy sự vô lí của lời người nước Tống đó: mũi nhọn để chạm phải nhỏ hơn vật được chạm (tức mũi gai). Mà không có người thợ nào đúc được mũi nhọn như vậy. Vả lại vua không thể trai giới mười ngày mà không có một bữa tiệc, vậy thì làm sao trai giới luôn ba tháng được. Vậy lời của người đó chỉ là lời nói láo. Lúc đó vua Yên mới tỉnh ngộ, chất vấn, người đó phải thú tội.
Tham nghiệm
Tham nghiệm là khảo sát nhiều mặt để biết lòng bề tôi và để xem lời nói của họ có giá trị hay không.
Thiên Bát kinh tiết Lập đạo, Hàn Phi bảo muốn biết lời nói của người thành thực hay không thì phải:
“Khảo sát việc đã qua để biết rõ lời nói (trước kia) có đúng không; đặt bề tôi ở gần mình để xét nội tình của họ, đưa họ ra xa để xét tình hình ở ngoài của họ; dùng những điều mình biết rồi để tra hỏi về những điều chưa biết; (…) có thái độ khiêm nhường để thấy kẻ nào cương trực, kẻ nào a dua; tiết lộ những ý khác nhau để dễ biết ý kiến của kẻ dưới”.
Lại phải tham khảo ý kiến nhiều người để biết thực tình; nếu chỉ nghe, tin một người thì sẽ bị bề tôi che lấp.
觀聽不參則誠不聞,聽有門戶則臣壅塞。
(Quan thính bất tham, tắc thành bất văn; thính hữu môn hộ tắc thần úng tắc – Nội trừ thuyết thượng).
Phải bắt kẻ bề tôi trình bày ý kiến, nghe hết thảy ý kiến từng người một, mới phân biệt được ai trí ai ngu. (Nhất thính tắc ngu trí phân – Như trên).
Tuy nhiên ý kiến mọi người như nhau thì phải đề phòng. Hàn Phi kể trường hợp Lỗ Ai Công việc gì cũng bàn tính với quần thần mà nước càng loạn thêm. Ai Công không hiểu tại sao, hỏi Khổng tử, Khổng Tử đáp:
“Bậc minh chủ hỏi quần thần thì có người biết, lại có một người không biết, như vậy là minh chủ ở trên, quần thần bàn luận ở dưới. Nay quần thần đều răm rắp nói theo Quí Tôn (một trong ba đại phu chuyên quyền ở Lỗ), thành thử cả nước hoá là một, dù nhà vua có hỏi khắp người trong nước, nước cũng không khỏi loạn được” (Như trên).
Huệ tử trả lời vua Ngụy cũng như vậy, nhân việc hết thảy quần thần trừ Huệ tử đều theo Trương Nghi khuyên vua đánh Tề và Kinh.
“(Việc đó) cần phải xét kĩ. Nếu việc đánh Tề, Kinh quả thực có lợi (cho Ngụy) mà cả nước đều cho là có lợi thì sao người trí đông được đến thế! Nếu việc đó quả thực là bất lợi mà cả nước đều cho là có lợi thì sao người ngu lại đông đến thế! Sở dĩ còn phải bàn tính vì còn nghi ngờ: nếu quả thực có sự nghi ngờ thì tất phân nửa cho là nên, phân nửa cho là không nên. Nay cả nước cho là nên, tức thị nhà vua mất phân nửa người (đưa ý kiến) rồi đó. Chúa bị tấn hiếp nên mới mất phân nửa người như vậy”.
不可不察也。夫攻齊、荊之事也誠利,一國盡以為利,是何智者之眾也?攻齊、荊之事誠不利,一國盡以為利,何愚者之眾也?凡謀者,疑也。疑也者,誠疑,以為可者半,以為不可者半。今一國盡以為可,是王亡半也。劫主者固亡其半者也。
(… Bất khả bất sát dã. Phù công Tề, Kinh chi sự dã, thành lợi, nhất quốc tận dĩ vi lợi, thị hà trí giả chi chúng dã! Công Tề, Kinh chi sự thành bất lợi, nhất quốc tận dĩ vi lợi, hà ngu giả chi chúng dã! Phàm mưu giả, nghi dã; nghi dã giả, thành nghi, dĩ vi khả giả bán, dĩ vi bất khả giả bán. Kim nhất quốc tận dĩ vi khả, thị vương vong bán dã. Kiếp chủ giả, cố vong kì bán dã… – Như trên).
Vậy việc còn đáng ngờ, còn phải bàn mà thấy mọi người đều đưa ra một ý kiến như nhau, tất có sự âm mưu để gạt vua.
Giao chức
Giai đoạn cuối cùng là cho họ bắt tay vào việc rồi mới biết chắc được hay dở.
Nghe lời nói, biết đề nghị, kế hoạch của một người rồi, lại tham nghiệm để dò xét lòng kẻ đó có đáng tin không, tài năng kẻ đó có đủ không, rồi mới giao chức cho để thử, như vậy mới khỏi lầm được:
“Chỉ vạch mõm, coi răng và nhìn hình dáng thì Bá Lạc (hay Nhạc) (người giỏi xem tướng ngựa) cũng không quyết định được giá trị con ngựa nhưng nếu cho ngựa kéo xe, xem nó chạy hết con đường thì bọn nô bộc cũng biết được ngựa tốt hay không. Nhìn dung mạo, y phục, nghe lời nói một kẻ sĩ thì Trọng Ni cũng không quyết định được kẻ đó trí tuệ ra sao, nhưng nếu thử bổ nhiệm rồi xét thành tích thì người thường cũng biết rõ được kẻ đó ngu hay không (Hiển học).
Khi giao chức, phải nhớ ba qui tắc dưới đây:
1- Mới đầu hãy giao cho một việc nhỏ đã. Hàn Phi bảo: “Quan lại của vua chúa, thì tể tướng phải bắt đầu từ một chức ở châu quận, mà tướng soái phải bắt đầu từ chân lính trơn… Cấp bậc cứ tuần tự mà lên thì chức càng lớn càng có tài cai trị.
明主之吏,宰相必起于州部,猛将必发于卒伍(…)遷官襲級,則官職大而愈治。
(Minh chủ chi lại, tể tướng tất khởi ư châu bộ, mãnh tướng tất phát ư tốt, ngũ… Thiên quan tập cấp, tắc quan chức đại nhi dũ trị – Hiển học).
Thiên Vấn Điền chép một cố sự để giải thích qui tắc đó.
Từ Cừ hỏi Điền Cưu sao lại bắt một danh tướng là Nghĩa Cừ mới đầu phải làm chức trưởng đồn, ông Công Tôn Đàn Hồi, một bậc hiền minh, phải xuất thân từ một chức ở châu quận. Điền Cưu đáp: vì cần phải thử tài họ, nếu không thì có thể lầm vì những lời biện thuyết của họ mà nước sẽ suy vong như trường hợp nước Sở dùng Tống Cô làm tướng soái, nước Ngụy dùng Phùng Li làm tướng quốc.
Cách dùng người như vậy hiện nay được đa số các xí nghiệp lớn áp dụng: một kĩ sư tập sự dù có bằng cấp cao cũng phải qua một cuộc trắc nghiệm để dò xét tình hình, khả năng đã, rồi mới được giao một công việc thấp trong xí nghiệp, rồi từ địa vị đó càng ngày càng tiến lên những chức vụ quan trọng hơn. Như vậy các kĩ sư sẽ hiểu biết rõ mỗi ngành hoạt động, sau mới có đủ tư cách và kinh nghiệm để điều khiển.
2- Không cho kiêm nhiệm: Phải phân công rõ ràng, mỗi người lãnh một chức vụ, hoàn toàn chịu trách nhiệm về chức vụ đó thôi. Không phải là chức vụ của mình thì không được làm dù biết việc đó có ích cho nước. Hàn Phi rất ngại sự vượt chức; bề tôi mà vượt chức thì không sao kiểm soát được, mối loạn do đó mà ra. Vượt chức là trái với nguyên tắc “hình danh” (hình vượt danh).
Thiên Nhị bính, Hàn chép truyện Hàn Chiêu hầu nằm ngủ, viên quan coi về mão sợ ông lạnh, lấy áo đắp cho ông; khi thức dậy ông phạt viên quan coi về áo vì không làm nhiệm vụ, lại phạt cả viên quan coi về mão vì vượt chức vụ. “Không phải là ông không sợ lạnh, nhưng ông cho rằng bề tôi vượt chức vụ thì hại còn hơn là mình bị lạnh… Hễ vượt chức vụ thì chết”.
(越官則死 Việt quan tắc tử)
3- Đã giao trách nhiệm cho một người nào rồi thì đừng dùng một kẻ khác để dòm ngó kẻ đó.
Đầu thiên Nam diện, Hàn viết:
“Cái lỗi của bậc vua chúa là đã giao trách nhiệm cho một bề tôi rồi lại dùng một bề tôi không được giao trách nhiệm đó để phòng họ. Sở dĩ vậy là vì chúa nghĩ rằng người không được giao trách nhiệm coi người được giao trách nhiệm là kẻ thù; nhưng hậu quả ngược lại, chính chúa bị người không được giao trách nhiệm đó chi phối… Chúa bỏ pháp luật mà dùng bề tôi để đề phòng bề tôi, thì những kẻ thân yêu nhau kết bè đảng mà khen lẫn nhau, những kẻ ghét nhau cũng kết bè đảng để chê lẫn nhau, hai bên khen chê lẫn nhau đó tranh nhau thì vua sẽ bị mê loạn”.
Vậy cứ tin họ, để họ làm việc, rồi tùy họ làm việc được hay không mà thưởng phạt họ đúng pháp luật chứ không phải cho người dòm ngó họ. Vả lại, đã có lệ trên dưới tố cáo lẫn nhau thì cần gì phải dùng thêm sự dòm ngó nữa.
Trong việc dùng người, quy tắc là như vậy, nhưng đó chỉ là để cho các hạng vua chúa tầm thường theo; còn hạng minh chủ có pháp thuật thì chẳng cần theo qui tắc nào cả, dù là phản thần như Dương Hổ cũng dùng được (coi tiết Trừ gian, chương VII), mà dù có hai trọng thần cũng không sao như Tề Hoàn Công dùng Quản Trọng lẫn Bão Thúc, Thành Thang dùng cả Y Doãn lẫn Trọng Huỷ (Nạn thất); trái lại, vua hôn ám, không có pháp thuật thì dùng người tốt họ cũng sẽ phản mình, dùng hai trọng thần thì họ sẽ tranh quyền nhau mà kết giao với nước ngoài, chỉ dùng một trọng thần thì họ sẽ chuyên quyền mà giết mình. Thành hay bại đều do tư cách, tài năng của vua hết. Tuy trọng pháp thuật nhưng yếu tố người vẫn là chính; vậy pháp trị hay nhân trị đều cần có người tốt cả, chỉ khác một bên trọng pháp thuật, một bên trọng nhân nghĩa, lễ giáo.
C – Thuật vô vi
Trung Hoa có điểm khác Ấn Độ, Ả Rập và phương Tây là các triết gia lớn của họ đều quan tâm tới đời sống của dân, đều muốn cứu đời bằng chính trị, mà bàn về chính trị thì hầu hết họ đều lấy sự “vô vi” làm lí tưởng.
Người ta quen cho “vô vi” là danh từ của Lão, Trang chỉ vì hai nhà ấy dùng nó nhiều nhất, sự thực thì chính Khổng tử đã dùng nó trước tiên, mà đa số học giả ngày nay nhận rằng Lão có nhiều phần chắc là sinh sau Khổng.
Luận ngữ, chương Vệ Linh công, bài 4, chép: “Khổng tử bảo: “Không làm gì mà thiên hạ được trị, là vua Thuấn đó chăng? Ông có làm gì đâu? Chỉ cung kính giữ mình, (ngồi trên ngôi) quay mặt về hướng Nam, thế thôi.”
子曰。無爲而治者。其舜也與。夫何爲哉。恭己正南面而已矣。
( Tử viết: Vô vi nhi trị giả, kì Thuấn dã dư? Phù hà vi tai? Cung kỉ, chính Nam diện nhi dĩ hỉ). Chu Hi chú giải rằng: bậc thánh nhân có đức cao, cảm hoá được dân, nên chẳng cần làm gì mà thiên hạ cũng bình trị. Sở dĩ vua Thuấn được như vậy, một phần là do nối nghiệp vua Nghiêu, lại được một số bề tôi hiền giúp sức.
Sau Khổng tử tới Lão tử. Chương XLVIII Đạo đức kinh, ông viết:
“Theo đạo thì càng ngày càng bớt, bớt rồi lại bớt đến mức vô vi… Vô vi thì không cái gì không trị…”
為道日損。 損之又損,以至於無為(…)無爲則無不治
( Vị đạo nhật tổn, tổn chi hựu tổn, dĩ chí ư vô vi… Vô vi tắc vô bất trị… )
Chương LVII, ông còn nói rõ hơn:
“Ta vô vi mà dân tự hoá, ta ưa tĩnh mà dân tự sửa mình, ta không mưu tính gì mà dân tự giàu, ta không ham muốn mà dân tự thành chất phác”
我無爲而民自化。我好靜而民自正。我無事而民自富。
(Ngã vô vi nhi dân tự hoá, ngã hiếu tĩnh nhi dân tự chính, ngã vô sự nhi dân tự phú, ngã vô dục nhi dân tự phác).
Ông cho rằng cứ theo đạo, tức theo tự nhiên, thì mọi sự hoàn hảo. Cứ cho dân tự lo lấy thì ai nấy được thoả ý mà trên dưới yên ổn, nhà cầm quyền càng can thiệp thì càng gây rối: bắt dân đóng thuế nặng thì dân sẽ đói, ruộng đất bỏ hoang, hình phạt càng nghiêm thì dân càng phạm tội. Phải giảm chính phủ, đừng dùng nhân nghĩa, lễ giáo: “Mất Đạo rồi mới có Đức, mất Đức rồi mới có nhân, mất nhân rồi mới có nghĩa, mất nghĩa rồi mới có lễ”. Trí tuệ cũng phải bỏ (khí trí), vì có bỏ “trí” rồi mới trở về tự nhiên được. Chỉ cần cho dân khỏi đói, khỏi rét, rồi để dân muốn làm gì thì làm. Ông muốn trở về chế độ cộng sản nguyên thuỷ: nước nhỏ, dân ít, không dùng khí cụ, xe thuyền, không có gươm giáo, không có văn tự, không ai đi đâu xa (coi thêm chương VII và phần XI – phần VI – Đại cương Triết học Trung Quốc, quyển hạ – Cảo Thơm – 1966).
Chủ trương vô vi của Liệt tử đại khái cũng như Lão tử (coi Liệt tử và Dương tử, phần II – Lá Bối – 1972).
Lão tử chỉ giảm thiểu chính phủ thôi, Trang tử mới hoàn toàn vô vi, cho chính phủ là vô dụng, không được dùng pháp độ mà phải theo tính của dân. “Con chim biết bay cao để tránh cái lưới và mũi tên; con chuột đồng biết đào hang sâu ở dưới gò thờ thần để tránh cái hoạ bị hun khói, đào hang. Lẽ nào người không khôn bằng hai con vật đó?” (Trang tử – Ứng đế vương). Dùng pháp độ, bắt dân vào khuôn vào phép theo ý riêng, thành kiến của mình thì sẽ thất bại.
Vậy phải để cho dân hoàn toàn tự do (đói thì kiếm ăn, no thì vỗ bụng đi chơi), như vậy dân mới thảnh thơi tự tại, mới “tiêu dao”, vui vẻ hưởng hết tuổi trời.
Trong thiên Ứng đế vương, Trang dùng một ngụ ngôn:
“Thiên Căn đi lên núi Ân dương, đến sông Liễu, gặp vô danh nhân, nói: “Xin hỏi làm sao trị thiên hạ”. Vô danh nhân đáp: “Cút đi, ngươi là kẻ quê mùa… Ta muốn cùng tạo vật mà làm người ( tức là hoà đồng với vạn vật ), chán thì cưỡi con chim mang diểu ra ngoài lục cực (trời đất và bốn phương), ngao du ở làng Vô hà hữu (tức Đạo)… ngươi sao lại lấy việc trị thiên hạ làm rộn lòng ta?
Vô danh nhân trong ngụ ngôn đó chính là Trang. Tương truyền Sở Uy vương mời ông làm tể tướng, ông từ chối, chỉ thích ẩn dật. Có thể coi ông là một triết gia theo chủ nghĩa vô chính phủ.
Pháp gia cũng nói tới vô vi. Trong Hàn Phi tử có dăm ba chỗ dùng chữ “vô vi”. Chẳng hạn:
Thiên Dương giác:
“Hư tĩnh vô vi là tình (thực) của Đạo. Tham khảo, đối chiếu, so sánh mọi việc là “hình” của công việc. Tham khảo để so sánh mọi vật, đối chiếu để nó hợp với sự không hư”.
虛靜無爲, 道之情也; 參伍比物, 事之形也. 參之以比物, 伍之以合虛.
(Hư tĩnh vô vi, đạo chi tình dã, tham ngũ tỉ vật, sự chi hình dã, tham chi dĩ tỉ vật, ngũ chi dĩ hợp hư).
“Vật có chỗ thích nghi, tài có chỗ dùng. Mọi người đều có việc thích nghi thì trên dưới đều vô vi”.
夫物者有所宜, 材者有所施, 各處其宜, 故上下無爲
(Vật giả hữu sở nghi, tài dã hữu sở thi; các xử kì nghi, cố thượng hạ vô vi – Như trên)
Thiên Nạn nhị:
“… Các ông già nước Trịnh có câu: “Hiểu đạo lí thì nên đừng làm gì, đừng cho thấy”
鄭長者有言:體道, 無爲無見也.
(Trịnh trưởng giả hữu ngôn: “Thể đạo, vô vi, vô hiện dã” )
Thiên Ngoại trừ thuyết hữu thượng, truyện 2 dẫn lời của Thân Bất Hại: “Sự sáng suốt của bề trên mà để lộ ra thì người dưới sẽ đề phòng, sự không sáng suốt của bề trên mà để lộ ra thì người dưới sẽ gạt bề trên, (…) sự không ham muốn của bề trên mà để lộ ra thì người dưới sẽ rình bề trên; sự ham muốn của bề trên mà để lộ ra thì người dưới sẽ nhử bề trên. Cho nên bảo: “Ta không dựa vào đâu mà biết người (tức bề tôi) được, chỉ có vô vi là có thể dò xét được họ thôi”.
吾無從知之, 惟無爲可以規之
(Ngô vô tòng tri chi, duy vô vi, khả dĩ qui chi).
Thiên Dương giác của người sau viết, mà những ý: “Hợp với sự không hư”, “trên dưới đều vô vi” trong thiên đó không hợp với chủ trương của Pháp gia; còn câu trong Nạn nhị, chỉ là một cách xử thế của các ông già nước Trịnh, chứ không phải là một đường lối chính trị, nhưng đoạn dẫn trên trong Ngoại trừ thuyết hữu thượng, thì tuy là lời của một Pháp gia, Thân Bất Hại mà cũng hợp với học thuyết của Hàn Phi. Trong thiên Hữu độ, Hàn viết:
“Làm vua mà đích thân xem xét các quan thì không đủ thời gian mà cũng không đủ sức. Vả lại bề trên dùng mắt thì kẻ dưới tô điểm bề ngoài, người trên dùng tai thì kẻ dưới sửa giọng nói, người trên dùng trí óc để đoán xét thì kẻ dưới khéo nói, nói nhiều”
夫为之人主,而身察百官,则日不足,力不给。且上用目则下飾觀,上用耳则下飾聲,上用虑则下繁辭。
(Phù vi nhân chủ nhi thân sát bách quan, tắc nhật bất túc, lực bất cập. Thả thượng dụng mục tắc hạ sức quan; thượng dụng nhĩ tắc hạ sức thanh; thượng dụng lự, tắc hạ phồn từ). Tiên vương cho ba cái đó ( mắt, tai, trí óc) là không đủ nên không ỷ vào tài năng của mình mà dựa vào pháp độ, xét kĩ việc thưởng phạt, tiên vương chỉ giữ cái cốt yếu, nên pháp độ giản dị, mà không bị vi phạm; một mình tự chế ngự dân trong bốn bể, khiến cho kẻ thông minh không gian trá được, kẻ miệng lưỡi không nịnh bợ được, kẻ gian tà không biết dựa vào đâu được; dù cho kẻ ở xa ngoài ngàn dặm cũng không dám đổi lời, kẻ thân cận như các lang trung cũng không dám che dấu cái tốt, tô điểm cái xấu; như vậy từ các bề tôi tại triều, tụ họp ở bên vua cho đến những kẻ thấp hèn ở xa cũng không dám lấn nhau mà đều giữ chức phận mình. Cho nên công việc cai trị ít, ngày giờ dư, được vậy là do vua biết dùng quyền thế để trị nước”
故治不足而日有馀,上之任势使然也。
( Cố trị bất túc nhi nhật hữu dư, thượng chi nhiệm thế sử nhiên dã).
Thiên Ngoại trừ thuyết hữu hạ, Hàn Phi chép truyện Tư Trịnh tử ngồi trên càng xe ca hát mà qua được cây cầu cao:
“Tư Trịnh tử đánh xe lên một cây cầu cao không được, bèn ngồi trên càng xe mà hát, (tức thì) người đi trước ngừng lại, người đi sau đẩy xe cho ông và xe lên được dốc cầu. Nếu ông không có thuật để lôi kéo người giúp ông thì dù ông có gắng sức đến chết, chiếc xe cũng không lên được cầu. Đằng này ông khỏi phải mệt thân mà xe lên được là nhờ ông có thuật lôi kéo người giúp ông”.
Nhưng có thật là không mệt thân không? Tuy không phải làm một việc gì đấy, nhưng phải dò xét, đề phòng mỗi bề tôi, lúc nào cũng sợ họ làm phản mình, phải tìm hiểu tình hình, tài năng họ để giao việc, khi giao việc rồi phải theo dõi xem có kết quả không, kết quả có hợp với lời nói của họ không, sau cùng đích thân định việc thưởng phạt…; vì vậy mà thiên Nạn nhị, chính Hàn cũng nhận rằng trị nước không phải là việc an nhàn:
“Sai khiến người lại không phải là việc an nhàn. Bậc vua chúa tuy (không làm gì) chỉ sai khiến người, (nhưng cũng ) phải dùng sự đo lường (pháp độ) làm tiêu chuẩn, dùng thuật hình danh để tham bác.
Việc nào hợp pháp thì làm, không hợp pháp thì ngưng: công trạng xứng đáng với lời nói thì thưởng, không xứng thì phạt. (…) Như vậy bậc vua chúa trị dân đâu được an nhàn!”.
使人又非所佚也, 人主雖使人必以度量準之, 以刑名參之, 以事; 遇於法則行, 不遇於法則止; 功當其言則賞, 不當則誅(…)君人者焉佚哉!
( Sử nhân hựu phi sở dật dã dĩ hình danh tham chi. Nhân chủ tuy sử nhân, tất dĩ độ lượng chuẩn chi. Sự ngộ ư pháp tắc hành, bất ngộ ư pháp tắc chỉ; công đáng kì ngôn tắc thưởng, bất đáng tắc tru… Quân nhân giả yên dật tai! ).
Vậy vô vi của Hàn khác vô vi của Lão, của Khổng: Lão vô vi được là nhờ theo tự nhiên, theo đạo, không can thiệp vào đời sống của dân; Khổng vô vi được là nhờ có đức khéo cảm hoá dân, dùng lễ, nhạc, ít dùng hình pháp; Hàn chỉ dùng hình pháp để trị dân, dùng thuật bắt dân cáo gian, can thiệp vào đời sống của dân, nhất là dùng tâm thuật, phải tính toán lo lắng nhiều, không tin cậy ai cả, có khi không dám ngủ chung với vợ con nữa, lại phải giữ ý, dụng ý trong mỗi cử chỉ, lời nói, nét mặt, chẳng hạn cúi đầu xá con ếch (để khuyến khích các dũng sĩ) như vua Việt, giữ kĩ chiếc khố cũ (để thưởng kẻ có công lao) như vua Hàn (Nội trừ thuyết thượng); như vậy đâu phải là vô vi, mà là cực hữu vi, đâu có ung dung, nhàn tản như họ Khổng, họ Lão.
Danh từ vô vi thời Chiến Quốc cũng như danh từ dân chủ ngày nay ai muốn hiểu sao thì hiểu. Phải chăng vì vậy mà nó thành một lí tưởng hấp dẫn.
——————————–
1 Coi thêm Đại cương triết học Trung Quốc – quyển thượng thiên II, chương II – Cảo Thơm 1965.
2 Coi thêm Đại cương triết học Trung Quốc – quyển thượng thiên II, chương II – Cảo Thơm 1965.
3 Coi thêm Tuân tử của tác giả – NXB Văn Hoá, 1994.
4 Nguyên văn là “dụng nhất”, chúng tôi hiểu theo Trần Khải Thiên, có sách giảng là “điều khiển công việc một mình”.
5 Thiên Bát thuyết:
“Bổ nhiệm người làm việc là cái then chốt của sự tồn vong trị loạn (…) Bậc vua chúa bổ nhiệm ai, nếu không lựa người có tài trí thì lựa người có đức; bổ nhiệm họ là cho họ có quyền hành. Nhưng kẻ sĩ có tài trí chưa nhất định đã đáng tin; vua thấy họ có tài trí không xét rằng vị tất họ đã đáng tin, nếu họ dùng mưu trí, dựa vào quyền hành của chức vụ mà làm việc riêng tư thì vua tất bị gạt. Vì kẻ tài trí chưa đáng tin, nên vua lại bổ nhiệm kẻ sĩ có đức. Bổ nhiệm ai là cho người đó quyết đoán công việc. Nhưng kẻ sĩ có đức chưa nhất định là có tài; vua thấy họ giữ mình cho liêm khiết mà không biết rằng vị tất họ đã có tài. Kẻ ngu hôn ám mà giao cho một chức quan, để họ quyết định công việc, họ quyết định bậy mà cho là đúng thì công việc tất phải rối loạn”.
Vui cười
Một ông béo phì, không có thì giờ thể dục, bèn đi bác sĩ khám xin thuốc giảm cân. Bác sĩ cho lọ thuốc màu hồng, dặn uống mỗi tối trước khi đi ngủ. Uống thuốc đều đặn mỗi đêm, cứ đi ngủ là ông lại mơ thấy lạc vô hoang đảo, trên đảo có bầy tiên nữ không mặc đồ, ông bèn rượt bắt, nhưng chẳng bao giờ bắt được. Cứ rượt bắt lòng vòng trên đảo như vậy suốt đêm đến sáng. Thức dậy hai chân mỏi nhừ, mồ hôi vã ra, thở hổn hển. Đêm nào cũng rượt bắt, cũng mỏi nhừ. Ba tháng sau sút cả chục ký.
Ông bạn thân nghe mách vậy cũng tới ông bác sĩ đó khám, xin thuốc để làm ốm bớt. Bác sĩ cho lọ thuốc màu xám, dặn uống mỗi tối. Uống thuốc đều đặn, đêm nào ông này lại cũng mơ thấy lạc vô hoang đảo, trên đảo có đám thổ dân ãn thịt nguời. Bị thổ dân rượt, ông chạy trối chết, suýt bị tóm trúng mấy lần, nhưng rồi lại thoát. Cứ chạy trốn quýnh quáng lòng vòng trên đảo suốt đêm đến sáng. Thức dậy hai chân mỏi nhừ, mồ hôi vã ra, thở hổn hển. Đêm nào cũng chạy trốn, cũng mỏi nhừ. Ba tháng sau sút cả chục ký. Nhưng ông này bực lắm, đi bác sĩ khiếu nại.
– Tại sao bạn tui cũng khám chỗ bác sĩ thì lại có giấc mơ đẹp, còn giấc mơ của tui hãi quá. Chưa kể thỉnh thoảng còn suýt bị thổ dân tóm được nữa chứ, có bực không nào!
Bác sĩ thủng thỉnh đưa giấy tờ ra giải thích:
– Bạn anh khám trả tiền mặt, còn anh thì xài Medical, so bì sao được!
Bùa Ngải Trở Lại Việt Nam – Nguyễn Thị Cỏ May
Thật vậy vì trong thời gian gần đây, trên nhiều mạng xã hội, bổng xuất hiện thị trường bùa ngải náo nhiệt không thua chợ Trời vùng biên giới.
Bùa ngải được quảng cáo rầm rộ là vô cùng linh nghiệm. Tình duyên trắc trở, bị tình phụ, nợ không đòi được, làm ăn thất bại, mua chức, mất tiền mà đợi hoài chưa có kết quả, bệnh tật kéo dài chạy chữa đủ thầy hết thuốc… Còn đợi gì nữa? Hãy tìm thầy thỉnh bùa, chuộc ngải là mọi chuyện sẽ được giải quyết vô cùng tốt đẹp.
Hìện tượng bùa ngải ở Việt nam ngày nay, không chỉ sôi nổi trên mạng xã hội, chợ thông tin vô thưởng vô phạt, mà cả trên báo Sài gòn Giải phóng, Cơ quan của đảng cộng sản ở Sài gòn (Ngày 29/09/2018) cũng loan tin nhưng không quên thêm câu thiệu «Việc bán bùa ngải và tuyên truyền mê tín dị đoan là hành vi vi phạm pháp luật, gây nhiễu loạn đời sống».
Trước đây, vào nửa đầu thế kỷ XX, giai đoạn cuối của chế độ thực dân, ở Việt nam, nhứt là ở Nam kỳ, cũng rộ lên những hoạt động bùa, ngải, lên đồng, gồng, …vừa thỏa mãn mê tín dân gian, vừa là bình phong cho những hoạt động chống Tây của các Hội kín.
Cho tới chiến tranh kết thúc, hiện tượng bùa ngải, lên đồng mới tàn lụi.
Loại «khoa học huyền bí» này thật ra không phải chỉ có ở Việt nam vì nước chậm tiến mà ngày nay cũng đầy rẫy ở cả những nước tiên tiến như Pháp và Âu châu. Nó là sản phẩm của con người và xã hội.
Khi nói về bùa ngải ở Việt nam, người ta có nhận xét người Nam giỏi về bùa ngải, người Trung giỏi về thư phù, người Bắc thì giỏi về độc trùng (nuôi thuốc độc). Sự nhận xét này nếu đúng, phải chăng là do hoàn cảnh lịch sử và địa lý? Người Nam chịu ảnh hưởng của huyền bí Cao Miên và Lào nên sự phát triển về ngải nghệ cũng do đó mà ra. Người Trung chịu nặng ảnh hưởng của văn hóa và đạo thuật Chiêm Thành nên thịnh về phù thư, ếm đối và người Bắc thì chịu ảnh hưởng nặng của Trung Hoa do gần gũi, nơi xưa kia từ vua quan tới thứ dân chuyên dùng hương mê và thuốc độc để triệt hạ đối thủ.
Nhưng cũng may mắn là số người sử dụng những thứ huyền bí này chỉ là số thật ít. Và có sử dụng nhưng sự ứng nghiệm có được như ý mong muốn hay không lại là chuyện khác nữa. Bởi xưa nay người ta thường nói «Đức trọng quỉ thần khinh». Hay giữ được «Chánh niệm» thì mọi thứ tà đạo đều không thể ảnh hưởng.
Đủ mặt hàng
Cứ lướt một vòng qua các chợ bùa ngải trên mạng, người ta sẽ thấy rất nhiều trang đăng bán bùa ngải, với đủ các loại được giới thiệu quả quyết là có tác dụng thần kỳ không có gì bằng khi muốn nhờ giúp giải quyết thuận lợi tình duyên, kinh doanh. Đặc biệt có nhiều loại có thể sai khiến người khác hành động theo lời mình, hoặc làm cho đối phương tán gia bại sản, hay đem lại may mắn tiền vào như nước… Chưa biết sự lợi hại thật sự như thế nào nhưng thực tế đã có không ít người, đang trong hoàn cảnh bức bách hay vì lòng tham thúc đẩy, đã dám bỏ ra số tiền lớn để mua về sử dụng.
Hễ có người bán thì có người mua. Đã bảo là chợ mà!
Cách thức mua bán cũng rất đơn giản. Giá cả hoàn toàn phụ thuộc theo độ linh ứng của bùa. Bùa mắc tiền dĩ nhiên phải mạnh hơn bùa rẻ tiền.
Mua bán tuy nói là chợ nhưng chỉ diễn ra trên mạng. Chợ trên mạng. Sau khi giá cả ngã ngũ qua thương lượng bằng điện thoại, hàng sẽ được giao tận nhà bằng đường bưu điện. Cách quảng cáo bán hàng cũng vô cùng hiện đại. Họ đưa ra nhiều người đã xài bùa rồi, nói cho biết kết quả, làm nhân chứng. Chưa đủ thuyết phục những người khó tánh, họ vận dụng cả kỹ thuật livestream giới thiệu khách hàng đã hài lòng và cả thầy bùa đang luyện bùa. Cho sống động hơn. Ai coi mà không tin?
Giá của một đạo bùa? Từ 5 triệu đồng tới 10 triệu và 20 triệu đồng nữa. Bùa của Việt nam rẻ hơn bùa Thái lan. Hàng nội dĩ nhiên giá rẻ hơn hàng nhập. Qui luật thị trường nước ta mà.
Chế độ cộng sản phủ nhận mọi sanh hoạt tâm linh, cả tôn giáo còn bị lên án là thuốc phiện. Thế mà sau hơn nửa thế kỷ cai trị Miền Bắc và gần 50 năm ở Miền Nam, ngày nay bùa ngải lại xuất hiện trở lại, với mức độ ồ ạc phi thường. Đặc biệt hơn, giới trẻ tin tưởng mạnh ở quyền lực bùa ngải, rất nhiều người mua về xài. Chợ bùa ngải đang phát đạt. Người buôn bán bùa ngải đang ăn nên làm ra.
Tìm hiểu đôi chút về chợ bùa ngải
Nhiều người đều nghe nói về bùa ngải. Công dụng của bùa ngải là đem lại lợi lạc cho người sử dụng hoặc điều xấu cho người bị ám hại.
Tuy sản phẩm có nhiều nhãn hiệu khác nhau, có thứ nội hóa (thứ lô-can), có thứ nhập ngoại nhưng tựu trung đó đều là thứ pháp thuật sai khiến theo ý muốn nhằm đạt mục đích của người sử dụng. Nên có thể nói bùa ngải tự nó không có «tốt» hay «xấu», «lành» hay «dữ» mà hoàn toàn do lòng người thiện hay ác khi sử dụng mà thôi.
Mời bạn đọc theo chơn nhà báo của báo Dòng Đời (Em Đẹp, 26/01/2016, internet) viếng một thầy bùa tại nhà riêng của ông ở Quận Bình Thạnh để có vài ý niệm về người của bùa ngải. Đặc biệt ông thầy bùa này là một người có bằng cấp Cử nhơn Luật, năm nay hơn bốn mươi tuổi, không làm ăn theo sự hiểu biết của mình mà chuyên tâm học hỏi, nghiên cứu bùa ngải. Điều này cho thấy ông khác hơn nhiều thầy bùa khác phần đông đều học ít, thích làm thầy vì sướng hơn làm việc khác. Ông ở đây một mình vì gia đình ở nước ngoài.
Căn nhà của ông khá rộng nhưng thường cửa đóng then gài. Bên trong, ông để rìêng một căn phòng làm nơi làm việc, đèn nhang nghi ngút. Dụng cụ làm việc của ông trên bàn là giấy, viết và mực. Trên tường treo đầy hình ảnh các Tổ sư bùa ngải của Tàu, Thái, Ấn độ, …Theo ông, ngoài bùa ngải, còn có nhiều pháp thuật khác như thần thông, thôi miên, nham độn,…
Bùa ngải và các pháp thuật liên hệ, theo ông, có lịch sử lâu đời, ít nhứt phải từ 8000 năm. Nó gần gũi với sanh hoạt con người và tôn giáo.
Ở Việt nam có nhiều thứ pháp thuật bản địa hoặc du nhập. Như trường phái xuất phát từ các dòng Nam Tông (Ấn độ, Thái lan, Miến điện, Cao miên, Lèo, …), hoặc dòng Tiên Đạo (Tàu, Tây tạng, …) và bản địa như từ người Thượng (người Mường). Mỗi thứ có cái hay, có mặt yếu nhưng đều vận dụng để chữa bệnh cứu người, chớ không để ám hại người cho những mục đích mờ ám như thưòng xảy ra.
Người làm bùa ngải hay pháp thuật với mục đích hại người đã phạm vào đại kỵ và quả báo rất lớn. Như trường hợp một thầy bùa ở Tây Ninh chuyên ếm bùa hại người theo yêu cầu. Ông này sống đến 60 tuổi thì bị điên rồi chết. Con cháu ông không hiểu vì sao đều bị điên cùng lúc. Thầy khẳng định việc trả giá như vậy trong huyền giới không hiếm.
Có những dòng huyền thuật hơn 2.000 năm vẫn báo ứng, nhiều thế hệ “chịu tội” là chuyện bình thường. “Đáng buồn là cuộc sống càng phát triển, dục vọng con người càng lớn. Thầy bùa hoạt động công khai, nhiều người chỉ học lỏm được ít kỹ năng đã xưng thầy và hành nghề”.
Ông kể có người bạn chuyên vẽ bùa ở Sài Gòn, khách đông đến nỗi mỗi ngày ông “vẽ bùa” gần 10 tiếng đồng hồ. Mỗi khách như vậy lại “cúng tổ” ít nhất 100 ngàn đồng. Mỗi ngày ông này thu nhập trên dưới 10 triệu đồng. “Nghề” thầy bùa hấp dẫn đến mức con trai ông đang là sinh viên đại học cũng nghỉ ngang, theo cha học lóm 3 năm và đến nay cũng đang vẽ bùa để làm giàu.
Để minh chứng cho “đẳng cấp” thu nhập thầy bùa, ông «Thầy bùa Cử nhơn Luật» dẫn nhà báo Dòng Đời đi gặp pháp sư N., một thầy có tiếng cao tay nghề ở Sài Gòn. Trước khi đi, ông dặn kỹ không được quay phim hay ghi âm và không được nêu danh ông thầy này vì để tránh phiền phức (làm lén, ổng biết được sẽ ếm bùa làm hại?). Nhà thầy N. nằm sâu trong một con hẻm ngoằn nghoèo ở Quận Bình Thạnh. Căn nhà được canh gác cẩn mật, vòng trong vòng ngoài cả chục người và thường xuyên đổi địa điểm để tránh bị phát hiện. Phòng khách nhà thầy N. dù còn sớm đã có vài chục người ngồi chờ. Những người đến xin bùa phép đều ăn mặc sang trọng, có cả nhiều cô gái trẻ xinh đẹp.
Theo “giá cả” mà mọi người dặn nhau, vào diện kiến thầy N. thì ít lắm cũng phải “đặt tổ” 500.000 đồng mới xứng với tên tuổi của thầy. Vì vậy, thu nhập của thầy N. mỗi ngày vài chục triệu, thuộc loại «đỉnh» của giới thầy bùa.
Khách xin bùa đều thuộc giới giàu có. Các cô xinh đẹp tới xin bùa yêu để ếm các đại gia. Nghe đâu trong giới đại gia cũng có lắm người là thân chủ trung thành của thầy.
Thầy bùa Cử nhơn Luật cho biết hiện tại có rất nhiều người xưng pháp sư, quảng cáo tràn lan, công khai trên mạng. Nhưng để học được huyền thuật, phải có duyên, người không được chọn thì suốt đời không học được. Tùy vào dòng phái mà thời gian cảm thụ huyền pháp dài hay ngắn. Ít nhất cũng phải mất 5 năm tu luyện khổ cực.
Chính ông dù chưa ở ngưỡng giới cao nhứt nhưng để duy trì pháp lực, một năm phải mất một trăm ngày luyện công. Mỗi lần như vậy phải giữ trai giới, ở một mình trong phòng, cắt hết liên lạc với thế giới bên ngoài. Phải làm như vậy thì huyền lực mới thẩm thấu, mới lưu giữ được.
Làm pháp sư phải chịu gian khổ. Việt Nam hiện có 200 pháp sư. Nếu nói đạt đến bực cao thủ thì chỉ có 3 người. “Muốn đi đến bực Thầy thật sự, bực chơn sư, thì không thể dùng huyền thuật mưu sinh hay làm giàu”. Hiện nay, chính người cho bùa chú cũng không hiểu mục đích chơn truyền của huyền thuật. Còn người ham mê bùa chú thì tin mù quáng nên chợ bùa nhờ đó mới nở rộ.
Bùa ngải
Theo thói quen, người ta thường nói chung thành một danh từ ghép «bùa ngải». Thật ra «bùa» và «ngải» là 2 thứ hoàn toàn khác nhau tuy mục đích sử dụng không khác nhau.
Bùa là ký tự viết hay vẽ trên gìấy, trên một mặt phẳng nào đó để «ếm», tạo chuyện lành hay chuyện dữ. Vì là ký tự nên chữ bùa không đọc được. Thầy bùa chỉ nhớ tự dạng mà biết đó là loại bùa xài cho mục đích gì. Khi trẻ con mới tập viết, thường chúng viết chữ nghuệch ngoạc, bị rầy là «viết như vẽ bùa»!
Nhưng nếu bùa chỉ là những chữ lăng quăng thì sẽ không có nghĩa gì hết. Nó phải có một sức mạnh để nó sai khiến. Nên bùa là những ký tự sai khiến nhằm đạt mục đích mong muốn. Như vậy, thầy bùa phải luyện bùa. Bằng nhiều cách. Điều kiện là chỗ yên tịnh, sạch sẽ, ngồi tập trung tư tưởng vào chữ bùa vừa hiện trong đầu. Giữ như vậy, đầu óc không xao lãng, càng lâu, càng vững, càng tốt, rồi nuốt chữ bùa vào bụng. Giai đoạn kế, người luyện tập tiếp tục với tư thế ngồi nhìn mặt trăng, rồi nhìn mặt trời, hình dung chữa bùa, hít hơi dài và nuốt vào bụng. Sau cùng, nhìn ánh chớp khi Trời chuyển mưa, trong trí vẽ mau chữ bùa và nuốt vào. Tới đây là đạt được nội lực cao rồi, có thể vận dụng bùa theo ý muốn của mình được. Để giữ cho bùa linh ứng, thầy bùa phải năng luyện tập. Và giữ nhiều kiêng cữ. Như thầy tu giữ giới luật. Đúng là «Văn ôn, võ luyện». Nếu không thì bùa chỉ còn là hình vẽ mà thôi.
Ở Nam kỳ, vào tiền bán thế kỷ trước, bùa Lỗ Bang thịnh hành nhứt. Là bùa của thợ mộc. Lỗ Bang là ông Tổ của thợ mộc. Thợ mộc cất nhà là phải ếm chủ nhà. Tùy theo sự đối xử của chủ nhà mà ếm nặng hay nhẹ. Nặng là gia chủ làm ăn ngày càng suy sụp, bệnh hoạn, có khi mất mạng vì tai nạn. Nhẹ là chỉ gây xáo trộn trong nhà. Như ếm ở cửa giữa nhà trên và nhà sau. Khi con dâu đi qua cửa thì vỗ vào cửa và cười mấy tiếng, làm cho bà mẹ chồng nổi giận vì cho rằng con nhỏ này sao cứ giỡn hoài, không giữ gìn ý tứ của đàn bà con gái.
Xin kể lại trường hợp của chính tác giả. Đúng vậy. Nhà của Cỏ May ở nhà quê trước kia bị thợ mộc ếm bùa lỗ bang trên đầu cây cột cái, tức hàng cột chánh giữa nhà. Tôi còn nhớ nghe ba tôi nói chuyện lại. Hôm sáng dựng đòn dông, vào đúng giờ tốt được chọn lựa, má tôi sửa soạn một mâm cơm cúng đất đai. Thợ chánh leo lên để điều khiển đưa cột kèo, đòn dông, … Gia chủ cũng leo lên đỡ cây đòn dông, gác lên, một cử chỉ biểu hiện uy quyền chủ nhà. Nhưng đúng vào lúc đó, người thợ chánh không bước lên thang được, và miệng lại ú ớ không ra lệnh được. Thợ phụ làm theo tay chỉ trỏ của thợ chánh. Sườn nhà vẫn được dựng lên đàng hoàng.
Nhà cất xong. Cả nhà sống trong nhà mới.
Cứ đến tối, sau khi tắt đèn, thì ở chưn cột cái liền với vách, phát ra tiếng gõ cộp… cộp…. Ba tôi ngồi dậy, thắp đèn, thì tiếng động hết. Tắc đèn, nằm trở lại, thì tiếng cộp cộp lại vang trở lại.
Sáng ra, ba tôi tìm kiếm chung quanh gốc cột, xới đất bên ngoài coi có con gì ẩn núp không, thì không thấy có gì hết. Dĩ nhiên ba tôi cũng rước thầy bùa, thầy ngải, ếm, cúng kiến nhưng vẫn không hết.
Một hôm, ba tôi lên Chợ lớn, vùng Phú thọ, thăm Tổ đình, nơi thờ ông thầy bùa mà ba tôi trước đó có theo học tuy ông là y tá học ở nhà thương Chợ Rẫy. Vừa bước vào, người học trò giữ đền, ứng khẩu, nói với ba tôi “Hôm lên đòn dông nhà mầy, thằng thợ chánh muốn leo lên ếm trên đầu cột cái, ếm nặng hại mầy. Thấy vậy, tao bóp họng nó, không cho nó leo lên. Nó ếm dưới chưn cột. Nó lấy cây đinh, xỉa răng chảy máu, vẽ bùa ở dưới chưn cột. Cứ để đó, lâu ngày, nó hết. Không hại gì đâu. Nó sợ nên không dám làm ác”.
Thợ mộc ở Cần đước (Quận của tỉnh Chợ lớn thời đó, sau này thuộc tỉnh Long an) có tiếng thợ giỏi. Ghe Cần đước nổi tiếng ghe đẹp. Và ở đây cũng là xứ sở của bùa Lỗ bang.
Thầy bùa Lỗ Bang cao thắp là do công phu luyện tập. Chuyện khá ly kỳ xảy ra ở Cần đước. Một gia đình làm ăn khá giả, cất nhà mới. Rước thợ tới cất nhà. Việc làm phải mất nhiều tháng, có khi cả năm. Gia chủ có trách nhiệm nuôi ăn, nuôi ở cho ê-kiếp thợ. Thường gia chủ rất mực hầu hạ thợ mộc để tránh mích lòng, sanh ra “chuyện không hay” sau này. Thế mà nhà cất xong, gia chủ vẫn bị ếm nặng. Việc làm ăn gặp rủi nhiều hơn may. Ông chủ nhà bị bệnh liên miên. Người xuống sắc, trông phờ phạt. Một hôm đi trên lề đường liên tỉnh (Cần đước đi Gò công), bổng ông băng qua lộ trong lúc xe đò chạy tới. Ông bị xe đụng, té xuống đường nhưng may mà tánh mạng an toàn.
Có lẽ do chuyện ở nhà làm tinh thần của ông bị khủng hoảng trầm trọng mà ông trở thành như người mất trí. Cứ tối, sau khi tắc đèn đi ngủ, chỉ còn để trên bàn thờ ngọn đèn nhỏ, ai còn thức, sẽ thấy thằng nhỏ từ trên đầu cột cái, tuột xuống gần tới đất thì mất.
Cả nhà phải rút vào một phòng cho khỏi sợ.
Nghe tiếng ông Hương thân Lịch ở làng Vĩnh thanh, Cần giuộc, là thầy bùa giỏi. Ông chủ nhà tới rước thầy giải bùa cứu giúp. Nghe chuyện, ông Hương thân Lịch bảo ông về mời ông thợ mộc tới ăn cơm và báo tin để ông cũng tới gặp ông thợ mộc. Tại bữa cơm, ông Hương thân Lịch bảo ông thợ mộc ếm như vậy là quá nặng trong khi gia chủ ăn ở biết điều với mình. Thôi, tới nay, như vậy cũng đã quá lắm rồi. Hãy giải cho người ta đi.
Ông thợ mộc chối, bảo ông có ếm gì đâu. Ông Hương thân Lịch nghiêm mặt “Nếu ông không làm, để tôi làm, thì có hại cho ông. Chắc ông biết điều đó mà?”
Ông thợ mộc vẫn chối.
Ông Hương thân Lịch bèn lột cái khăng đỏ đội trên đầu, thắc làm một hình nộm như con chuột, bước tới cây cột, hất tay một cái, con chuột phóng lên đầu cột. Mọi người đang ngồi đó đều xanh mặt. Dĩ nhiên có cả ông thợ mộc. Tới lúc này, ông thợ mộc mới chịu giải bùa. Ông mượn thang, leo lên đầu cột, gỡ ra đồng tiền có hình người, bỏ túi.
Mọi người, ai cũng thở ra nhẹ nhỏm. Ông Hương thân tỏ ra vui vẻ với ông thợ mộc.
Từ đó, gia đình ông chủ nhà trở lại bình thường.
Ngải là thảo mộc. Nó là loại củ. Ngải trở thành linh nghiệm cũng do người ta đem vào nó sức mạnh tinh thần để sai khiến theo ý của người luyện ngải. Giống như với bùa. Nhưng với Ngải, người ta nói là «nuôi ngải». Tức người luyện ngải là sống với ngải. Cho ngải ăn uống, nói chuyện với nó. Nuôi ngải bằng máu tươi của người chủ ngải, và bằng gà, hay một con vật sống,… Nghe nói tới ngày cho ngải ăn, người ta đem con gà buộc vào chỗ trồng ngải. Chỉ trong một chốc lác, bổng nghe con gà kêu lên. Sau đó, tới coi, chỉ thấy một nhóm lông gà.
Nhưng ông Hương thân Lịch thì cắt nghĩa ngải đơn giản hơn. Ông chỉ mấy chậu kiểng trước nhà và bảo «Đó, ngải của tôi đó». Bên cạnh, ông có giăng cái võng.
Ông nói tiếp «Muốn biết ngải linh hay không, lên nằm võng, thì biết».
Có người lên võng nằm thử. Vừa nằm gọn trong võng, chỉ vài phút sau là buồn ngủ và nhắm mắt lại ngủ. Nhưng chỉ kịp ngủ là bị té xuống đất. Thử vài lần, cũng đều bị như vậy.
Ông Hương thân nói rõ hơn ngải là bất kỳ cây, cỏ, bông hoa gì cũng đều được. Nó trở thành ngải linh là do mình sai khiến nó làm theo ý của mình. (Muốn biết chuyện bùa ngải ở Nam kỳ, coi Sociétés secrètes en Terre d’Annam, luận án Tiến sĩ Văn chương của Georges Coulet, in ở Sài gòn, 1926, Giáo sư dạy ở P. Ký trong những năm 1930).
Sau này, ông tu theo đạo Cao Đài và nơi ông ở, cất lại, thành Thánh thất Vĩnh thanh. Ngày nay chắc còn.
Bùa ngải và Phan Xích Long Hoàng đế
Bùa ngải ở xứ Nam kỳ vào đầu thế kỷ XX là một thứ quyền lực giúp kẻ yếu chống lại kẻ mạnh. Phan Xích Long và đảng của ông tập luyện bùa ngải làm thứ võ khí vừa hộ thân, vừa chống thực dân Pháp bênh vực người dân bị ức hiếp.
Lúc bấy giờ, Thiên Địa Hội theo chơn người Minh Hương qua Việt nam nhưng Thiên Địa Hội đó là tổ chức của người Minh Hương mưu cầu phản Thanh phục Minh. Nhưng cho tới đầu thế kỷ XX, họ vẫn chưa làm được việc gì ngoài việc cướp bóc, bảo vệ những sòng bạc, …
Theo cách tổ chức hội kín, người Việt nam cũng tổ chức Thiên Địa Hội, qui tụ những người Việt nam yêu nước chờ cơ hội đánh Tây, cướp chánh quyền.
Cho tới năm 1912-1913, thanh niên Phan Xích Long ở Chợ Lớn, mới 20 tuổi, học hành ít nhưng có chí lớn, tự xưng Đông cung Thái tử, con vua Hàm Nghi, nhà vua yêu nước, rồi xưng Hoàng đế để lãnh đạo phong trào Thiên Địa Hội nổi lên đánh Pháp.
Ông có tên thật là Phan Phát Sanh, tự Lạc, sinh năm Quý Tị (1893), con trai của Phan Núi làm nghề cảnh sát cho Pháp ở Chợ Lớn. Ông làm bồi cho Tây, rồi bỏ việc. Sau khi xưng Hoàng Đế, ông tự sắm áo mão, dây đai vàng, và lập đảng kín, tuyển mộ người, chế tạo súng, bôm, rồi kêu gọi dân chúng cùng nổi dậy chống Pháp. Nhiều người biết chuyện, không ai dám tin việc làm của ông là thiệt. Nhưng ông lại cho mình có số mệnh Thiên Tử, có bùa phép không sợ súng đạn, có thể thắng được Pháp để cứu nước thoát khỏi ách nô lệ của thực dân Pháp.
Phan Xích Long cũng đưa ra tuyên cáo “Phản Pháp phục Nam” như Nghĩa Hòa Đoàn của người Trung Hoa “Phản Thanh phục Minh”. Từ đây người Việt nam bắt đầu ủng hộ ông.
Thấy lực lượng của mình với 300 người như vậy đã đủ sức đánh Tây, Phan Xích Long đưa ra tuyên cáo đêm 28 tháng 3 năm 1913, toàn dân Việt nam sẽ nổi lên chống Pháp. Vì vậy, đêm 28 tháng 3 hàng trăm người từ Mỹ tho, Tân an, Cần giuộc, Cần đước, Gò công, Chợ lớn, kéo nhau lên Sài Gòn. Họ đều chít khăn trắng, mặc áo trắng không cổ, tay cầm kiếm gổ, gậy, tầm vông, đao, búa… tiến vào trung tâm Sài Gòn. Nhưng vì bọn mật thám biết trước nên cuộc xuất phát mới bắt đầu từ Chợ Lớn đã bị lính Pháp tới bao vây bắt trọn và dẹp tan.
Phan Xích Long bị Pháp bắt tại Phan Thiết trước đó hai ngày. Nhưng nhiều hội viên của Thiên Địa Hội lẩn trốn được nên tiếp tục hoạt động lẻ tẻ ở nhiều tỉnh miền Tây, miền Đông Nam Kỳ.
Phan Xích Long bị giải về Sài Gòn, đưa ra Tòa xét xử chung với 111 người khác cùng đảng. Ông và 5 người nữa bị án chung thân.
Trước tòa, Phan Xích Long dám nói: ông chống đối chính sách thuế khóa nặng nề của người Pháp và đặt những trái bom trong thành phố là để hăm dọa người Pháp, để mong người Pháp giảm thuế cho dân. Và cách chế tạo mấy quả bom là học được ở bên Xiêm-la (Thái Lan). Phan Xích Long vẫn giữ được tinh thần vững chắc, trả lời với tòa rằng ông xem thường cái chết “sẵn sàng chết vì nước và muốn được xử tử”.
Phan Xích Long đặt cơ sở đầu tiên trên đất Cao Miên tại Cần Vọt, cất ngôi chùa do tiền lạc quyên để làm nơi tụ họp. Trước đây, vùng Cần Vọt (Kampot) được xem là nơi trú ngụ lý tưởng của những chiến sĩ Cần Vương sau khi phong trào ở làng An Định (núi Tượng) thất bại, dân làng bị tống xuất về quê cũ.
Máy chém trong Khám
Sau khi xử vụ Phan Xích Long ở phiên tòa Đại hình, người Pháp coi như Thiên Địa Hội là rắn mất đầu, vì một số tay chân của Phan Xích Long đã bị xử tử, còn Phan Xích Long thì bị giam tại Khám Lớn Sài Gòn. Song, một số dư đảng của Thiên Địa Hội vẫn còn lẩn trốn, Pháp chưa bắt hết được.
Bốn năm sau, nhơn Pháp bị thua ở Đệ I Thế chiến, dư đảng của Thiên Địa Hội liền qui tụ những đảng viên còn lại chuẩn bị một cuộc nổi loạn tại Sài Gòn, dự trù vào đêm 12 tháng giêng Âm lịch, để giải thoát “Hoàng đế” Phan Xích Long khỏi Khám Lớn. Ngay chiều ngày 11 tháng Giêng, ở dưới chân cầu Móng Khánh Hội đã có nhiều ghe thuyền từ lục tỉnh kéo lên đậu sẵn ở đó. Đúng 3 giờ đêm thì họ khởi sự. Các đảng viên Thiên Địa Hội từ ghe thuyền lên bờ, người nào cổ cũng đeo bùa phù hộ, súng bắn không chết, tay cầm kiếm gổ, dao, rựa, tầm vông… kéo vào trung tâm Sài Gòn, hướng về Khám Lớn.
Khi đoàn người đến gần Khám Lớn để xông vào phá khám, bị lính Pháp bắn chết 2 người. Tuy họ cũng gây thương tích cho một vài lính pháp nhưng sau cùng, tất cả đều thoát chạy về hướng Chợ lớn.
Ngày xưa, dân chúng dùng bùa ngải làm sức mạnh chống lại thực dân đô hộ để giành độc lập. Trong tay không ai có tất sắt làm võ khí. Ngày nay, dân chúng ở Việt nam chạy theo bùa ngải để mưu cầu quyền lợi cho bản thân bởi họ không thể tin tưởng ở luật pháp hay sự công bằng xã hội. Bùa ngải vì thế cũng không còn là thần quyền, mà trở thành thứ tà quyền – như đảng cộng sản và Nhà nước Hán ngụy ở hà nội – và được rao bán trên thị trường bùa ngải.
Vui cười
Hỏi: Sự khác nhau giữa báo Sự Thật và báo Tin Tức là gì?
Đáp: Trong báo “Sự thật” thì không có tin tức, còn trong báo “Tin tức” thì không có sự thật.
Luật pháp XHCH bảo đảm quyền tự do ngôn luận. Nhưng nó không bảo đảm quyền tự do sau khi ngôn luận.
Hỏi: Có đúng là nhà thơ đã tự sát hay không?
Đáp: Vâng. Đúng vậy. Người ta còn thu âm lại được những lời nói cuối cùng của nhà thơ: “Các đồng chí, xin đừng bắn.”
Hỏi: Thế nào là người cộng sản?
Đáp: Người cộng sản là người đã đọc cuốn “Kapital” (Tư bản luận) của Marx.
Hỏi: Còn thế nào là người tư bản?
Đáp: Người tư bản là người đã hiểu nội dung cuốn “Kapital” của Marx.
Hỏi: Có đúng là điều kiện sống ở các trại lao động cải tạo là tuyệt vời không?
Đáp: Về nguyên tắc là đúng. Năm năm trước một thính giả của chúng tôi không tin điều này và vì thế ông ta đã được gửi tới đó để điều tra. Vị thính giả này có vẻ đã thích ở kia tới mức mà giờ này ông ta vẫn còn chưa thèm quay về lại…
Ba công nhân vừa bước vào nhà tù, hỏi nhau vì sao bị tù.
Người thứ nhất: “Ngày nào tôi cũng đi muộn 10 phút, họ bảo tôi phạm tội phá hoại.”
Người thứ hai: “Ngày nào tôi cũng tới sớm 10 phút, họ bảo tôi là gián điệp.”
Người thứ ba: “Ngày nào tôi cũng đến đúng giờ, họ bảo tôi có đồng hồ ngoại quốc.”
Tin nóng: Sẽ đóng cửa các BOT trên toàn lãnh thổ? – Từ Thức
Một nguồn tin đáng tin cậy cho hay chính phủ VN sẽ quyết định dẹp bỏ tất cả các BOT trên toàn quốc, trước phong trào chống đối việc lạm thu ở các trạm này.
Việc dẹp bỏ các BOT sẽ được chính thức công bố một ngày gần đây, nếu một dự án khác, hiện đang nghiên cứu, được các giới lãnh đạo có thẩm quyền chấp nhận.
Dự án này, duy nhất trên thế giới, với chi tiết dưới đây, sẽ mang lại một ngân khoản khổng lồ, không những khiến việc thâu tiền trên các hệ thống lưu thông không cần thiết nữa, mà còn giải quyết nạn khủng hoảng kinh tế đang đe dọa chế độ.
Các BOT mọc ra như nấm ở VN là một nguồn bất mãn càng ngày càng sâu rộng. Trước đây, sáng kiến trả tiền lẻ ở BOT Cai Lậy đã gây tiếng vang, cả ở quốc nội lẫn quốc ngoại. Nếu sáng kiến này lan tràn, sẽ trở thành một phong ,
2 tỷ hay 1 tỷ same same
Để đương đầu, nhà cầm quyền đã huy động một lực lượng công an hùng hậu để bảo vệ các BOT, trong khi nhiệm vụ của họ là bảo vệ an ninh cho dân.
Người ta chứng kiến những cảnh quái đản là bọn đâm thuê giết mướn, được các BOT tuyển dụng, đánh trọng thương những người phản đối, với sự đồng lõa của công an.
Việc lạm thu càng lộ liễu, khi một BOT bị đánh cướp 2,2 tỷ trong khi khai báo chỉ thu 1 tỷ. Việc người ta chống chế, nói đó không phải là tiền thu nhiều ngày, không phải một ngày, đã trở thành chuyện tiếu lâm, ở một nước các giới lãnh đạo thi nhau tuyên bố ngớ ngẩn.
Ít ai tưởng tượng chủ BOT khi đóng cửa, chỉ mang về nhà chổi cùn rế rách, để bạc tỷ ở một cái BOT hẻo lánh, tại một xứ người ta sẵn sàng giết người vì một con gà, có chậu hoa Tết trước cửa cũng phải trang bị xích sắt để khỏi bị đánh cắp.
Bot
Việc xây các trạm trên xa lộ không phải chỉ ở VN mới có.
Tại nhiều quốc gia, để tránh gánh nặng cho ngân quỹ, người ta trao cho tư nhân thực hiện các đường cao tốc. Sau một thời gian khai thác, thí dụ 15 hay 20 năm, đường xá trở thành tài sản quốc gia.
Đó cũng là nguồn gốc của từ ngữ BOT : Build, Operate, Transfer ( tư nhân xây dựng: Build , khai thác một thời gian: Operate , rồi trao lại cho nhà nước: Transfer . )
Luật lệ về đấu thầu, thể lệ khai thác ( thời hạn khai thác, giá tiền người xử dụng phải trả, phẩm chất của đường xá vv..) được ký kết giữa chính phủ và các công ty tư nhân, với sự kiểm soát của quốc hội.
Ở VN, theo truyền thống Cộng Sản, người ta làm ngược lại: nhà nước xây dựng, trao cho tư nhân (nghĩa là bà con, vợ cả, vợ bé) khai thác vô thời hạn
Nơi nào có xe cộ qua lại, người ta nổi hứng, dựng một cái BOT, thâu tiền vô tội vạ, với giá cả theo sở thích. ‘’Người ta‘’ ở đây là những người có quyền thế, hay giới thân cận, coi đường xá, đất nước là của riêng.
BOT là một nguồn lợi khổng lồ, vô hạn, được khai thác một cách mờ ám, với võ lực nếu cần, như cách quản trị của những nhóm mafia, với sự dung túng, hỗ trợ của nhà nước .
Dân VN hiền lành, thấy BOT là móc tiền trả ; quen sợ chính quyền, thấy bóng công an là tuân lệnh. Ít người đặt câu hỏi chủ BOT nhân danh gì để thâu tiền, nhất là trên những đoạn đường đã có sẵn, không bảo trì, đầy ổ gà, tai nạn chết người như cơm bữa
Hiện nay, đời sống càng ngày càng khó khăn, đã có nhiều nhóm chống BOT hoạt động tích cực. Không ngày nào không có tin những người can đảm chống BOT bi bọn cướp ngày đánh đập tài nhẫn .
Cục chất xám
Để ra khỏi bế tắc, chính quyền, cách đây vài tháng, đã huy động cả guồng máy hành chánh, cán bộ các cấp suy nghĩ để tìm một giải pháp, vừa giải quyết vấn đề BOT, vừa mang lại lợi tức lớn.
VN là nơi có hàng ngũ công chức, chuyên viên đông đảo. Cơ quan nào cũng ngổn ngang những cục lớn, cục nhỏ , với những chức tước rất nhiêu khê, khó hiểu đối với thường dân. Đó cũng là môi trường chất xám cực kỳ phong phú, với lực lượng các tiến sĩ, thạc sĩ đủ loại.
Trong hàng triệu sáng kiến từ các địa phương nặn óc, tìm tòi gởi về, bộ Lưu thông và Chính phủ đã đồng thuận lựa một kế hoạch độc đáo nhất, thông minh nhất, hữu hiệu nhất.
Nếu được Đảng và phủ Chủ tịch chấp nhận, chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng sẽ chính thức thông báo với quốc dân trong những ngày tới.
Khoa học
Theo nguồn tin đáng tin cậy, giải pháp này đặt cơ sở trên những yếu tố khoa học khách quan, không ai có thể chối cãi. Giải pháp đó là ĐÁNH THUẾ HÍT THỞ KHÍ TRỜI .
Như chúng ta biết, mỗi ngày mỗi người thở ra hít vào trung bình 12.000 lít ( litres ) khí trời. Bốn triệu lít mỗi năm. Chỉ cần đánh thuế , dù nhỏ, trên mỗi lít khí trời, với số dân gần 100 triệu, ngân sách quốc gia, nghiã là ngân sách Đảng, nghĩa là ngân sách cho các Đảng viên chia nhau, sẽ là con số khổng lồ, khiến chuyện kinh doanh các loại như BOT, bán rừng, cướp đất, cướp vườn rau trở thành những trò làm ăn vặt.
Sở dĩ nhà nước chưa công bố, vì còn giải quyết vài vấn đề nhỏ. Thí dụ có nên miễn thuế cho các đầy tớ chỉ sống bằng đồng lương, có nên đánh thuế nặng các thế lực tư bản như các công ty trà đá vỉa hè, các đại doanh nhân vé số, ve chai, các nhân viên vệ sinh môi trường mỗi năm nhận được tiền lì xì từ khắp nơi?
Thuế thân
Trước đây, thời Pháp thuộc, đã có thuế thân, nghĩa là thuế đánh trên cái tội đã sinh ra làm người. Vấn đề là đánh thuế hít thở khí trời có chính đáng không với XHCN ?
Các chuyên viên quả quyết hoàn toàn thuận ý trời, hợp ý dân. Luật pháp VN đã quy định nhà nước là sở hữu chủ của đất cát, chỉ cần thêm khí trời vào các đạo luật này, việc đánh thuế sẽ hoàn toàn hợp hiến, hợp pháp. Đất đai, sông rạch, rừng núi, khí trời, ánh sáng, tất cả đều thuộc quyền sở hữu của Đảng CS.
Quốc Hội chắc chắn sẽ phê chuẩn dự án, vì các dân biểu, mặc dù có thói quen kiểm soát, phê phán, chỉ trích hành pháp gắt gao, nhưng trước hết là những chính trị gia khả kính, có tinh thần ái quốc rất cao, đặt quyền lợi của dân tộc lên trên hết.
Tóm lại, các BOT đang sống những ngày cuối cùng. Vì vậy, đừng ngạc nhiên nếu thấy tiền mãi lộ qua BOT sẽ tăng trong những ngày tới
(tuthuc-paris-blog.com )
CHUYỆN LẠ : Sống bằng lương
Phó Thủ Tướng Vương Đình Huệ hy vọng từ 2021, cán bộ, công chức sẽ sống bằng lương. Thì ra từ trước tới nay, các đầy tớ sống bằng khí trời. Hay bằng lý thuyết Mác Lê. Nghe nói uống nước lạnh, đọc kinh Mác Lê cũng no và yên ổn tâm hồn. Như những người lương thiện ngồi thiền. Sống bằng lương, nghĩa là tất cả mọi chi tiêu trông vào đồng lương . Nhiều cán bộ, nhân dịp ông Phó thủ tướng nổ, mới khám ra ra 2 chuyện . Thứ nhất : VN có phó thủ tướng và ông ta tên là Vương đình Huệ . Thứ 2 : thì ra mình đi làm đầy tớ cũng có lương tháng. Nhưng khi tò mò đọc sổ lương, sẽ rất thất vọng : lương bổng công chức VN thuộc loại thấp nhất thế giới. Lương thủ tướng Phúc mỗi tháng 1000 dollars, 12.075 $/năm ( theo Business Insider ), so với 80.000 dollars / năm của người phu đổ rác ( xin lỗi, nhân viên vệ sinh môi trường ) ở New York. Nếu là đầy tớ cấp trung bình, hay cấp nhỏ, tôi lãnh giỏi lắm 300 dollars mỗi tháng, 3600 $ một năm. Với lợi tức đó,300$, dù có bằng tiến sĩ kinh tế, kinh doanh như đa số các đồng chí biết đọc biết viết ( hay không biết đọc, biết viết ) khác, rất khó quản trị ngân sách gia đình. Tạm nêu vài mục chi
tiêu cơ bản nhất, ngắn hay dài hạn :
-cất một căn lều 10 triệu dollars -mua một căn lều ở nước ngoài cho con học : 2 triệu đô. -học phí cho con, mỗi đứa ít nhất 35.000 đô/năm, chưa kể ăn uống, di chuyển, cư trú -mua xe hơi 500.000 đô mỗi chiếc -iPhone 1000 đô cho mỗi người trong gia đình -tiền đong gạo cho vợ cả 10.000 đô, vợ bé 20.000, bồ nhí 30.000 mỗi tháng -tiền shopping ở Singapour, đi nghỉ cuối tuần ở Nha Trang, Phú Quốc, đánh bài ở Sihanoukville, Macao rất khó kê khai vì tùy hứng, tùy may rủi. Đó là chưa kể những thứ lặt vặt, nhưng càng ngày càng đắt. Một chiếc đồng hồ Philip Patek loại đeo được năm ngoái 150.000 dollars, năm nay nó cứa cổ gần 200.000 . Một cái ‘’ sac ‘’ Chanel hạng xoàng , để đựng dầu cù là xoa rốn cho vợ, năm ngoái 5500 đô, năm nay 7000. Một chai rượu súc miệng 5, 6 trăm đô Đó là chưa kể các món lỉnh kỉnh khác, như tiền cúng chùa để có giao hảo tốt với Phật, phong bì vài chục, vài trăm ngàn đô chỗ này chỗ kia để duy trì tình nghĩa đồng chí, để nhớ những ngày nằm rừng nằm bụi bên nhau, tiền lì xì cho người nghèo trước máy quay phim, tiền mua cá, mua chim phóng sinh, tiền mua đất xây lăng cho mẹ vợ bé vv… Với lợi tức 300 dollars/ tháng, dù tôi có tuyển dụng một chuyên viên kinh tài ( cả ngàn đô ) để cố vấn, cũng hơi khó đi tới quân bình trong ngân quỹ gia đình, trong thời buổi gạo châu củi quế này. Quyết định nói trên của Phó Thủ tướng sẽ gây bức xúc, làm mất nhuệ khí phục vụ của cán bộ đảng viên, cho tới nay vẫn tận tụy với Đảng và nhân dân. Cán bộ, đảng viên các cấp sẽ tủi thân không kém các tướng lãnh, các chiến sĩ văn hóa.
Chúng tôi đồng ý sống bằng đồng lương là một điều hợp lý, nhưng xin chính phủ và Đảng nói rõ hơn để cán bộ an tâm : sống bằng lương không có nghĩa là chỉ có lương của mỗi cán bộ, nhưng có thể gôm cả lương của hàng xóm, của thiên hạ, tóm lại của nhân dân, nếu nhân dân tự nguyện dâng hiến, như vẫn tự nguyện dâng hiến đất cát, nhà cửa, để bày tỏ lòng ưu ái với những người hết lòng phục vụ đất nước Trong trường hợp đó, chúng tôi ủng hộ chính sách ” sống bằng lương ” anh minh và mới lạ của chính phủ XHCN.
https://vietnamnet.vn/…/pho-thu-tuong-ky-vong-nam-2021-cong…
https://www.businessinsider.fr/comparaison-salaire-chef-eta…
Chống Tàu thật hay giả ?
Những ngày gần đây, báo chí trong nước thi nhau viết bài lên án Tàu xâm lược, thi nhau đưa những sự thực, đúng ra là một phần sự thực, từ lâu vẫn bị cấm đoán, về cuộc xâm lăng trắng trợn, đẫm máu dân Việt, cách đây 40 năm ở biên giới.
Lý do thực sự của sự thay đổi thái độ này đối với Tàu Cộng, chưa ai giải thích thỏa đáng. Nhưng chắc chắn đằng sau có những lý do chính trị, mưu toan, tính toán, hay hoàn cảnh bắt buộc.
Chưa ai biết hư thực, vì, theo truyền thống, đảng CS vẫn quản trị quốc gia như đất nước là của riêng . Họ bán khi có giá, họ bán cho ai có giá hơn. Không cần, không thèm giải thích cho dân biết họ sẽ dẫn dân đi đâu.
Sự thay đổi đó, nếu có thực và công khai trong những ngày tới, không liên hệ gì tới một ý thức dân tộc chợt đến, một sự hối hận muộn màng đã cắn rắn cõng gà nhà.
Không phải vì lòng yêu nước giờ chót, mà hôm trước không dám nói tới tên ‘’ nước lạ ‘’ mỗi khi Trung Cộng cướp đảo, giết ngư dân Việt, hôm sau tố cáo đích danh Tàu là kẻ xâm lược.
Những bọn điếu đóm vài ngày trước còn đả kích những người chống giặc là làm sứt mẻ tình hữu nghị lớn, đã tạm chui vào bóng tối, chờ một cơ hội khác. Bởi vì chúng biết rằng trong quá khứ, người CS sẵn sàng thay đổi chính sách theo nhu cầu sống còn của Đảng. ‘’Còn Đảng, còn mình ‘’ vẫn là phương châm hành động.
Trong quá khứ, những người hăng say ca ngợi, hay đả kích Nga Tàu, theo chiều hướng nhất thời của Đảng , đã thi nhau vào tù khi Đảng đổi thái độ, hay khi phe thân Tàu, hoặc thân Nga thắng thế .
Vì lý do gì, vì tính toán gì, thời gian sẽ trả lời, nhưng trước mắt là một sự kiện không thể biện bạch, chối cãi : báo chí nhà nước, nghĩa là nhà nước, đã NHÌN NHẬN TÀU CỘNG LÀ BỌN XÂM LĂNG, là kẻ thù không đội trời chung của dân tộc.
Hãy ghi nhận điều đó, hãy gào trên các nóc nhà điều đó : chính người Cộng Sản nhìn nhận Tàu Cộng là bọn xâm lăng đã dày xéo đất nước.
Đã nhìn nhận Tàu Cộng là bọn cướp nước, để khỏi mâu thuẫn với chính mình một cách lố bịch, thô bỉ, nhà cầm quyền CS phải :
– trả tự do lập tức cho những người đang bị cầm tù chỉ vì có lòng với đất nước, bất chấp đe dọa, đã can đảm lên tiếng hay hành động chống lại kẻ thù phương Bắc
– chính thức cho phép nhân dân biểu tình, bày tỏ lòng yêu nước, tưởng niệm những đồng bào đã bị giặc thảm sát
– khởi kiện Trung Cộng tại các toà án quốc tế về tội cướp biển đảo VN
– ngưng việc bán dần mòn đất đai, tài nguyên của quốc gia qua những cuộc đấu giá gian sảo
– chấm dứt việc củng cố, bành trướng các đặc khu, biến từng phần lãnh thổ trọng yếu của đất nước thành những tô giới Tàu
– ngưng ngay việc trao việc quản trị quốc gia, đào tạo cán bộ, kể cả quốc phòng, cho Bắc Kinh, một việc không một quốc gia nào làm, nếu còn đôi chút liêm sỉ
– tẩy chay Huawei và các đại công ty Tàu, trên thực tế là những con ngựa thành Troie, những dụng cụ xâm lược của đế quốc Trung Cộng
Nếu không thực hiện những điều đó, lập tức, những bài báo đả kích cuộc xâm lăng man rợ, đẫm máu dân Việt, sẽ trở thành những lời chế độ tự sỉ vả mình.
Những tính toán nhất thời trên xương máu của dân tộc , thời buổi Internet, sẽ là gậy ông đập lưng ông, sẽ là cái boomerang quay lại, đập vào ngực những tay phù thủy chơi với lửa
(tuthuc-paris-blog.com )
https://www.tuthuc-paris-blog.com/home/ch%E1%BB%91ng-t%C3%A0u-th%E1%BA%ADt-hay-gi%E1%BA%A3
Đểu cáng
Gồng mình dở trò yêu nước, nhưng không dám nhắc tên ”nước lạ ” đã dày xéo quê hương, đã giết hại đồng bào mình. Sai bọn du côn vác cờ búa liềm ra hành hung người dân đến thắp nén hương cho người chết. Đem giấu cái lư hương, để thiên hạ khỏi tưởng niệm Phải bơi lội trong cái văn hóa đểu cáng từ nhỏ mới nghĩ ra những trò đó . Người bình thường, có nặn óc cũng không tưởng tượng nổi . Đó không chắc chỉ là quyết định của cấp nhỏ. Không một bí thư quận ủy nào dám tự tiện, nếu không phải là quốc sách, nếu không có chỉ thị của cấp trên. Albert Einstein nói : ” Có 2 cái vô cùng : vũ trụ và sự ngu dốt của con người. Về vũ trụ, tôi không dám quả quyết ”. Ông ta quên cái thứ 3 : sự đểu cáng. Nhất là khi cái đểu cáng là nghệ thuật sống, là bí quyết thành công, dưới một chế độ đầu trộm đuôi cướp. Rùng mình, khi nghĩ những người với tư duy, và tư cách bệ rạc đó dẫn đường, chỉ đạo cho gần 100 triệu dân, ở thế kỷ 21 Muốn ôm bụng cười, khi nghe nói có một chế độ bệnh hoạn , trơ trẽn như vậy . Nhưng không cười được, trái lại, đau khi nhớ ra: cái quốc gia đó là đất nước của chính mình.
Nghiên cứu
Đọc trên báo nhà nước: ”Nhà nghiên cứu Nguyễn Hùng Vĩ: bỏ lư hương trươc tượng đài Trần Hưng Đạo là tốt cho quy hoạch không gian thành phố ”. Chỉ trong một cái tựa ngắn, 4, 5 từ ngữ hoặc tối om, từ điển cũng lắc đầu chịu thua, hoặc chữ chửi cha nghĩa, hay ngược lại. Thí dụ : nhà nghiên cứu , hùng vĩ, quy hoạch, không gian thành phố vv… Nghiên cứu cái gì, hùng vĩ ở chỗ nào, quy họach gì, không gian thành phố là cái quái quỉ gì, ở một xứ ô nhiễm nhất thế giới ( ô nhiễm theo nghĩa đen, nghĩa bóng ) ? Ngày nay, ra đường phải đeo khẩu trang vì ô nhiễm. Có lẽ phải lấy bông gòn bịt tai, để tránh cái ô nhiễm còn tai hại hơn nữa, là các nhà nghiên cứu đúng quy trình..
Câu hỏi : Các ” nhà nghiên cứu ” nói với ai nghe, viết cho ai đọc ? Cho người Tàu hay người ta ? Cuộc thi nổ, để kiếm cơm thừa canh cặn, đã bắt đầu. Nhiều nhân tài, nhân sĩ đã và sẽ đua nhau xuất hiện. Đồng chí Quang Lùn có thể yên tâm về hưu
Đề nghị một giải pháp
Vụ cất giấu lư hương, mới đầu tưởng là tuyệt chiêu, nay trở thành một chuyện tang gia bối rối. Thay vì sai các ‘’nhà nghiên cứu ’’ ra ăn nói lảm nhảm, cạnh tranh bất chính với Thủ tướng và các bộ trưởng, dân biểu, chúng tôi đề nghị giải pháp sau đây để giúp Đảng tìm lối thoát : 1. Trả lại lư hương, nhưng VN và Huawei tuy hai mà một, xin Huawei trang bị, trong lư hương, các máy quay phim, chụp hình để ghi mặt người nào lai vãng, máy ghi âm để biết họ bàn gì với nhau, nói gì với người đã khuất 2. Đốt nhang có chất độc, để trừng trị những người ngoan cố tiếp tục tới tụ tập đông người 3. Nếu lư hương bằng đồng, nên bán lấy tiền chia nhau, thay bằng lư giả bằng nhựa, ma dzê in China, vừa rẻ vừa có nhiều mầu sắc xanh đỏ bắt mắt. Nếu các biện pháp này không hữu hiệu, phải tiến hành kế hoạch B : tuyên bố Đức Thánh Trần đã cư ngụ bất hợp pháp và giải tỏa công viên , như Đảng ta đã làm, một cách quyết liệt và anh dũng, ở vườn rau Lộc Hưng. Chỉ cần một nhóm cờ đỏ yêu nước . Nếu địch kháng cự mạnh, sẽ huy động các tướng lãnh đông đảo, lúc nào cũng sẵn sàng chiến đấu bảo vệ quê hương. Đó là chuyện bình thường, nhưng hữu hiệu nhất. Nghe nói đất khu này rất được giá.
https://www.tuthuc-paris-blog.com/home/%C4%91%E1%BB%83u-c%C3%A1ng
Thán phục và miệt thị
Trên mạng, nhiều người trầm trồ thán phục những người lính Mỹ cao lớn, trang bị võ khí tối tân tới VN bảo vệ an ninh cho Donald Trump. Và nhạo báng những công an VN nhỏ con, gầy còm đứng bên cạnh. Cũng như trước đây đã chụp hình, chế riễu một nữ công an có khuôn mặt trời bắt xấu.
Cái đáng cảm phục của Mỹ là một thể chế dân chủ, sự tôn trọng quyền làm người, một xã hội phát triển. Không phải là những người lính lớn con, trực thăng tối tân bảo vệ tổng thống. Cái đáng chỉ trích của VN không phải là những anh công an gầy yếu, quê mùa, những chị cán bộ không có nhan sắc top models. Cái đáng xấu hổ, cái nhục của VN, là một đội ngũ an ninh hùng hậu, thay vì bảo vệ dân, đã dùng bạo lực để giữ Đảng, để đàn áp, để làm tiền, để cướp của giết người.
https://www.tuthuc-paris-blog.com/home/th%C3%A1n-ph%E1%BB%A5c-v%C3%A0-mi%E1%BB%87t-th%E1%BB%8B
Vui Cười
Hỏi: Chủ nghĩa Cộng Sản có khác Chủ nghĩa Tư Bản không ?
Đáp: Về nguyên tắc là có. Trong chế độ tư bản chủ nghĩa có tình trạng người bóc lột người. Còn trong chế độ cộng sản chủ nghĩa thì là ngược lại.
Hỏi: Có đúng là ở VN XHCH có tự do ngôn luận giống như ở Hoa Kỳ không?
Đáp: Đúng thế. Ở Hoa Kỳ, quý vị có thể đứng trước cửa Tòa Bạch Ốc và hét to, “Đả đảo Reagan!” và quý vị sẽ không bị trừng phạt. Ở VN, quý vị có thể đứng ở Quảng trường Đỏ và hét to “Đả đảo Reagan!” và quý vị cũng sẽ không bị trừng phạt.
Một người Mỹ và một người Nga tranh luận xem ai vĩ đại hơn ai: Tổng thống Hoover? hay Lê Duẫn?
– Tất nhiên là Hoover rồi! Bởi lẽ ông đã “cai nghiện” cho chúng tôi!
– Đã có gì gọi là to tát! Lê Duẫn còn “cai ăn” cho chúng tôi thì sao!
Tôi đi thăm chồng ‘cải tạo’ – Minh Hòa
Vâng, chúng tôi nghiễm nhiên nhận chồng chúng tôi là “các ông cải tạo” như người miền Nam vẫn kêu với tấm tình trân quý, để phân biệt với những người tù hình sự. Vâng, những người đàn ông ở miền Nam mà đang đi tù Cộng Sản mới là những người xứng đáng với đàn bà con gái miền Nam ở lứa tuổi tôi. Chị em chúng tôi gọi đó là “tấm bằng tù cải tạo” của các ông để chọn gửi cuộc đời, dù là trao gửi vào một nơi bất định…
Tôi quen anh năm 17 tuổi, khi còn cắp sách đến trường. Lúc ấy anh là sinh viên sĩ quan năm thứ ba, hai mươi tuổi đời, nhưng dạo đó trong mắt tôi anh thật chững chạc, lại tài hoa, và cũng không thiếu… si mê.
Anh nhất định đòi cưới tôi ngay sau khi ra trường, nói rằng thầy mẹ anh sẽ ưng ý, không thể phản đối. Tôi hình như có hơi ngạc nhiên và hơi… sợ sợ, vì tuổi 18, 19 thời đó còn nhỏ lắm, chẳng biết gì, chỉ biết rằng tôi hình như cũng… yêu anh nhiều lắm. Tôi còn nhớ, tuy còn nhỏ và ngây thơ lắm, nhưng những ngày giữa năm thứ tư của anh, từng đêm tôi đã thổn thức một mình. Cảm giác lúc ấy là chỉ sợ mất anh vào nơi gió cát mịt mù mà biết bao người trai đã ra đi không hẹn ngày về. Và tôi nhất quyết lấy anh, tuy anh làm phiền lòng ba má tôi không ít, khi anh dứt khoát từ chối mọi công lao chạy chọt của song thân tôi ngay từ truớc ngày anh tốt nghiệp. Gia đình tôi ngần ngại, nhưng tôi là con gái út, được cưng nhất nhà, vả lại cả nhà ai cũng quý mến anh…
Thế là tôi rời ghế nhà trường năm 19 tuổi, lên xe hoa mà tưởng như đang trong giấc mộng tình yêu thời con gái. Rồi thì giã từ quê huơng Đà Lạt yêu dấu, giã từ những kỷ niệm yêu đương trên từng con dốc, từng vạt nắng xuyên cành trong hơi lạnh thân quen, từng hơi thở thì thầm trong ngàn thông thương mến, tôi theo anh về làm dâu gia đình chồng ở Sài Gòn. Tôi chưa hề được chuẩn bị để làm dâu, làm vợ, đầy sợ hãi trong giang sơn nhà chồng, còn chưa biết ứng xử ra sao, nhưng được cha mẹ và các em chồng hết lòng thương mến.
Các chú em chồng nho nhã luôn luôn hoan hô những món ăn tôi nấu nướng.
Tuần trăng mật thật vội vã nhưng vô cùng hạnh phúc, chỉ vỏn vẹn trong thời gian anh nghỉ phép ra trường, rồi trình diện đơn vị mới. Mùng sáu Tết Tân Hợi 1971, Sư đoàn Dù của anh đi mặt trận Hạ Lào. Hôm ra đi anh vui tưng bừng như con sáo sổ lồng, trong khi tôi thẫn thờ… Anh siết tôi thật chặt, không cho tôi khóc, nói rằng ra đi trong dòng nước mắt vợ hiền là điều xui rủi.
Tôi vội vã gượng cười, để rồi từng đêm thổn thức một mình trong căn phòng lạnh vắng, run rẩy lắng nghe từng tin chiến sự miền xa… Thư anh từ mặt trận toàn những điều thương nhớ ngâp tràn, pha lẫn những lời như những tràng cười say sưa của người tráng sĩ đang tung mình trên lưng ngựa chiến. Mẹ chồng tôi chẳng vui gì hơn tôi. Hai mẹ con buôn bán xong thường đi lễ chùa, khấn nguyện. Bà cụ bảo tôi: “…phải khấn cho nó bị thương nhẹ để mà về, chứ vô sự thì lại không được về, vẫn còn bị nguy hiểm”… Tôi càng hoang mang, thảng thốt, quỳ mãi trong khói hương với đầy nước mắt, chẵng khấn được câu nào… Má tôi trên Đà Lạt cũng vội lặn lội lên tận cốc xa, thỉnh cho được tượng ảnh Bồ Tát Quán thế Âm để chồng tôi về sẽ đeo vào cổ.
Sau trận đầu tiên ở Hạ Lào anh trở về với cánh tay trái treo trước ngực. Tôi run run dội nước tắm cho anh để nước khỏi vào vết thương, mà không giấu được nụ cười đầy sung sướng, pha lẫn… đắc thắng, cảm ơn Trời Phật linh thiêng…
Rồi anh lại ra đi. Tây Ninh, Cam Bốt, cùng những địa danh trong các dòng tin chiến sự mà tôi thuộc nằm lòng. Trảng Bàng, Trảng Lớn, Suông, Chúp, Krek, Đam Be… Anh đi toàn những trận ác liệt một mất một còn với quân thù quái ác. Vừa lành vết thương là lại ra đi. Tôi thành người chinh phụ, thao thức từng đêm, vùi đầu vào gối khóc mùi trong lời khấn nguyện Phật Trời che chở cho sinh mạng chồng tôi. Còn anh, anh cứ đi đi về về trong tiếng cười vui sang sảng, hệt như các bạn chiến đấu trong cùng đơn vị, mà nay tôi vẫn còn nhớ tên gần đủ: các anh Tường, Hương, Trung, Dũng, Sinh, Chiêu, anh Sĩ, anh Tâm, anh Quyền….
Mỗi lần trở về bình an là một lần cả nhà mở hội, và mỗi khi nhận lệnh đi hành quân là một lần tôi thờ thẫn u sầu trong lúc anh hăng hái huýt gió vang vang khúc hát lên đường. Con người ấy không biết sợ hãi là gì, không cần sống chết ra sao, và không hề muốn nghe lời than vãn, chỉ thích nụ cười và những lời thương yêu chiều chuộng. Anh nói không biết tại sao anh có niềm tin kỳ lạ là không có việc hiểm nguy nào hại đựơc thân anh. Tôi chỉ còn biết chiều theo ý chồng, không bao giờ dám hé môi làm anh buồn bực, vì thời gian gần nhau quá ngắn ngủi, tôi chỉ lo cho anh những phút giây hạnh phúc hiếm hoi của người lính chiến, không muốn để anh bận lòng vì những nỗi lo âu. Lấy chồng hơn hai năm sau mà tôi vẫn chưa có cháu, vì anh cứ đi, đi mãi đi hoài, những ngày gần nhau không có mấy.
Rồi mùa Hè đỏ lửa nổ ra. Anh nhảy vào An Lộc, lăn lóc đánh dập đánh vùi với địch quân đông gấp bội trong gần ba tháng trời, mất cả liên lạc bưu chính, ở nhà không hề nhận một chữ một lời. Người hạ sĩ quan hậu cứ mỗi tháng ghé lại gia đình thăm hỏi đều phải vẫy tay tươi cười ngay từ đầu ngõ. Anh về được đúng một tuần, thì lại lên đường đi Quảng Trị… Rồi anh lại bị thương ở cửa ngõ Cổ Thành, trở về trong phòng hồi sinh Tổng Y Viện Cộng Hòa. Trên đường tới bệnh viện cùng với gia đình, tôi ngất xỉu trên xe của người anh chồng…
Nhưng rồi anh vẫn đứng dậy, lại khoan khoái cất bước hành quân. Ôi, không biết tôi mang nợ anh từ tận tiền kiếp xa xôi nào, mà tôi yêu thương cái con người chỉ biết miệt mài say mê chiến trận. Tôi chỉ biết ước nguyện của anh là trở thành một Tướng Patton của Việt Nam, “Rồi nước mình sẽ phải tự chủ hơn lên, mấy năm nữa phải khác hẳn đi chứ. Nền nếp quân đội sẽ phải thay đổi. Anh sẽ làm tư lệnh đại đơn vị, để anh điều động liên quân chủng, cả thiết giáp, máy bay, đánh giặc như Patton cho mà coi. Cam bốt, Hạ Lào Trung Thượng Lào ăn nhằm gì… Hà hà.” Tôi chỉ ậm ừ vì chẳng hiểu gì, khi anh thì thầm bên tai tôi vào một đêm tôi dần thiếp đi trong đôi cánh của hạnh phúc, một lần anh về phép hành quân…
Sinh cháu gái đầu lòng năm 1973 ở Đà Lạt, anh về thăm mẹ con tôi và trường cũ, xong lại bay đi trấn thủ đường ranh giới ngưng chiến ở vùng Tây Nam Huế…
Tháng Tư năm 1975, đơn vị anh đóng quân ở Thủ Đức, chuẩn bị tử chiến với quân thù. Chú em chồng là sĩ quan chuyển vận tàu HQ505. Tàu ghé Sài Gòn để chuẩn bị đi công tác Phú Quốc. Chồng tôi bảo cả gia đình, gồm thầy mẹ, các chú và cả mẹ con tôi, xuống tàu đi Phú Quốc lánh nạn chiến sự, rồi khi yên sẽ lại trở về. Tôi tưởng anh cũng định ra đi, nhưng anh quắc mắt nói tại sao anh lại phải bỏ đi lúc quân lính của anh vẫn còn chưa nao núng, “bọn nó làm gì thắng nổi khi cả Sư Đoàn Dù đầy đủ bung ra phản công, cho nó ăn một cái Mậu Thân nữa thì mới hết chiến tranh, quân Dù đánh giặc một chấp bốn là thường, còn trận cuối này là xong.” Anh hăng say như sắp xung trận, nhưng rồi anh quay lưng lại, run giọng bảo tôi hãy bế con theo xe của ông anh ra bến tàu. Đến nước đó tôi không còn gì sợ hãi, ôm con nhảy xuống, nhất định đòi ở lại. Vợ chồng sống chết có nhau…
Ba lần toan vượt thoát từ đầu đến giữa Tháng Năm đều thất bại não nề. Anh lên đường đi trại tập trung vào Tháng Sáu, khi tôi đang mang bầu cháu thứ nhì… Bé Dung ưỡn người đòi theo bố. Anh quay lại, vẫy tay cười với mẹ con tôi. Vẫn nụ cười ấy, anh vẫn chẳng nệ âu lo sống chết là gì, nhưng còn mẹ con em, anh ơi???…
Gia đình nhà chồng tôi thiệt có phước, hầu hết đã theo tàu HQ505 đi Phú Quốc rồi sang Mỹ, kể từ hôm tôi ôm con ở lại với chồng. Gia đình tôi từ Đà Lạt chạy về Sài Gòn, sống chen chúc quây quần đùm bọc lẫn nhau. Hàng quán của gia đình chồng tôi bị tịch biên hết. Tôi nhất định giữ chặt ngôi nhà của cha mẹ chồng để lại, đuổi mấy cũng không đi. Chị ruột tôi bỏ dần vốn ra mua được ngôi nhà khác, vì ông chồng ôm vợ bé chạy mất, nhà cửa xe cộ bị tịch biên hết. Tôi và các anh chị em tôi chạy vạy đủ điều để lo sinh kế, nuôi con thơ cha già mẹ yếu. Chồng tôi mịt mù tăm tích, chỉ có đôi ba lá thư viết về từ trại Long Giao. Lên Long Giao cũng không gặp. Anh bị đưa ra Bắc.
Năm đó tôi tròn 25 tuổi, dung nhan tuy tiều tụy nhưng vẫn khiến nhiều kẻ phải suýt soa dòm ngó. Biết bao người mai mối thì thầm bên tai tôi, thôi hãy lo cuộc đời mới, sĩ quan ngụy đi Bắc chẳng có ngày về… Bao nhiêu nỗi khổ đau dồn nén đột nhiên bùng nổ. Tôi vùng lên như một con cọp cái: bác thử nghĩ coi cả bọn cả lũ tụi nó đó có đáng xách dép cho chồng tôi không!!! Rồi ba mẹ con tôi ôm nhau khóc vùi trong tủi hận.
Không, không, một ngàn vạn lần không. Quanh tôi chỉ còn toàn rác rưởi. Vâng, những người đàn ông ở miền Nam mà đang đi tù Cộng Sản mới là những người xứng đáng với đàn bà con gái miền Nam ở lứa tuổi tôi. Chị em chúng tôi gọi đó là “tấm bằng tù cải tạo” của các ông để chọn gửi cuộc đời, dù là trao gửi vào một nơi bất định… Còn gì nữa mà chọn lựa! Thà vậy, đành thôi. Tôi đã là vợ anh, tôi vẫn tôn thờ anh trong tim óc, làm sao khỏi lợm giọng trước bọn người lường lọc, bướm ong, hèn hạ… Chị em tôi buôn bán từ thuốc lá đến bánh cuốn, bánh ướt, bánh mì, thuốc tây, thuốc nam, kiêm luôn cắt chải gội uốn tóc, làm móng tay… nhưng luôn tránh chỗ công quyền và nơi phồn hoa nhan nhản những con mắt hau háu của bọn ăn cướp và bọn trở cờ. Mấy anh chị em tôi đồng lòng, đùm bọc lẫn nhau, nên áo rách nhưng một tấm lòng son tôi vẫn vẹn với câu thề…
Vượt qua được thời gian khó khăn cực khổ nhất lúc ban đầu, sau ba mẹ con tôi được gia đình chồng từ Mỹ chu cấp, tuy không dư dả nhưng cũng đủ gửi quà ba tháng một lần, rồi lại dành dụm cho môt chuyến thăm nuôi…
Anh từ miền cực Bắc bị đưa về Thanh Hóa chừng một năm, thì tôi xin được giấy phép đi thăm nuôi. Tôi và chị tôi chạy đôn chạy đáo mua đủ một trăm năm chục ký quà để tôi đem ra Bắc cho chồng. Bà cụ buôn bán quen ngoài chợ lại nhờ đem thêm năm chục ký thăm dùm con trai, vì con dâu cụ đã vượt biên. Cháu Dung đã lên 6, em Long nó 4 tuổi và chưa lần nào thấy được mặt cha. Tôi đem cả hai con đi cho anh gặp đứa con trai.
Xuống ga Thanh Hóa, cả đoàn quân khuân vác vây quanh gọi mời giục giã. Tôi và mấy chị cùng thăm chồng chia nhau giữ chặt hàng hóa không cho ai khiêng vác, rồi tự mình kéo lê kéo lết đi thuê nhà trọ. Có người đã đi về kể rằng cứ sơ ý là bị vác hàng chạy mất. Chúng tôi cũng phải chia nhau ở lại nhà trọ coi chừng hàng và đi chợ. Tôi nhờ một chị mua thêm được ký mỡ, về rang tóp mỡ ngoài sân nhà trọ. Nghe con khóc, tôi vội vã chạy vô nhà. Chưa kịp dỗ con thì nghe tiếng ồn ào. Quay ra, hai kẻ cắp đã bưng chảo tóp mỡ ù té chạy, chị bạn rượt theo không kịp. Tôi khóc thầm tiếc hoài, cứ nghĩ những tóp mỡ kia đáng lẽ đã giúp chồng mình đỡ bao đói khát.
Xe đò đi Thanh Cẩm chật ních những bà thăm chồng. Chúng tôi năm người lớn và hai cháu xuống ngã ba Nam Phát để vô Trại 5. Tôi lê từng bao hàng rồi lại quay lui kéo lê bao khác, chừng hơn nửa cây số mới đến trạm xét giấy tờ vào trại, hai cháu còn quá nhỏ chẳng muốn chúng đụng tay. Cô Út thiệt giỏi, xong phần mình lại xông xáo giúp hết người nọ tới người kia.
Xong giấy tờ, chờ một lát thì một người tù hình sự đánh xe trâu đến. Hàng hóa và hai con tôi được lên xe trâu, tôi và chị Phước, chị Điệp cùng hai mẹ con cô Út lẽo đẽo theo sau. Đường đi xuyên trại xuyên rừng dài tám cây số. Chúng tôi chưa biết lúc trở ra mới càng thê thảm.
Chân tay rã rời, tới chiều tối mới thấy cổng trại 5 Lam Sơn. Đêm xuống bé Dung còn phải phụ tôi gom lá mía cho tôi vội nấu hết gạo thành cơm, nắm lại từng vắt, vì nghe nói công an không cho tù chính trị đem gạo sống vô, sợ các anh âm mưu trốn trại. Đêm chờ sáng để thăm chồng, nhìn hai con thơ ngây ngủ say sưa vì mỏi mệt, tôi rời rã vô cùng nhưng không sao ngủ được. Hằng trăm hình ảnh chồng tôi nhảy múa trong đầu… Chồng của tôi, người lính dù hăng hái húyt sáo mỗi khi nhận lệnh hành quân ấy, nay đã ra sao???
Sáng, đến lượt ra nhà thăm nuôi ngong ngóng chờ chồng, tôi không được phép ra khỏi cửa căn buồng nhỏ xíu, kê một bàn gỗ dài và hai ghế băng dọc hai bên. Đột nhiên một ông lạ hoắc đứng lù lù ngay cửa. Tôi ngỡ ngàng chưa biết điều gì. Cô nữ công an nhìn chòng chọc, hằn học, đợi chờ như con gà chọi sắp tung đòn. Tôi không thể hiểu người con gái Bắc cỡ cùng tuổi tôi kia thù hằn tôi điều gì. Tôi ngó lại, lát sau cô ta coi sổ xong, mới nói đây là anh Đức mà bà cụ nhờ tôi đi thăm dùm. Mất nửa tiếng giao quà và kể chuyện gia đình cho anh Đức nghe, tôi được biết chỉ còn một tiếng rưỡi gặp chồng. Thế là tôi bắt đầu ôm mặt khóc, càng lúc càng nức nở vì tủi cực, không thể nào cầm được. Trên thế giới này có ai phải lặn lội hằng ngàn cây số để chỉ được gặp chồng có một giờ ba mưới phút không hả Trời?!!
Hai cô công an lớn tiếng dọa dẫm, những là phải động viên học tập tốt, không lau sạch nước mắt thì không cho ra thăm… Nhưng kìa, ai như chồng tôi vừa bước ra khỏi cổng trại. Tôi không còn nhớ quy định luật lệ gì nữa, vùng đứng dậy chạy nhào ra như một tia chớp. Hai đứa nhỏ vừa khóc vừa chạy theo. Hai công an nữ bị bất ngờ không cản kịp, đứng nhìn.
Tôi chạy tới ôm anh, và càng khóc dữ, đôi chân khụyu xuống, không còn sức lực. Trời ơi, chồng tôi ốm yếu đến nỗi tôi ôm không trọn một vòng tay. Người anh nhỏ thó hẳn lại, chỉ có đôi mắt sáng với tia nhìn ngay thẳng là vẫn hệt như ngày nào, nhưng nay đượm nét u buồn khiên tôi đứt ruột. Anh vẫn không nói được lời nào, chỉ bặm môi nhìn tôi nhìn con thăm thẳm. Tôi biết anh đang cố trấn tĩnh, vì không muốn rơi nước mắt trước mặt công an. Anh dìu tôi và dắt con trở vào nhà thăm nuôi. Anh nắm chặt tay tôi, đưa vào chiếc ghế băng. Cô công an lạnh lùng chỉ anh bước sang chiếc ghế đối diện, rồi ngồi sừng sững ở đầu bàn, cứ chăm chăm nhìn vào sát tận mặt tôi. Anh khuyên tôi ở nhà ráng nuôi dạy con cho giỏi. Rồi thật nghiêm trang, anh bảo tôi phải đưa con đi vùng kinh tế mới, về tỉnh Mỹ Tho chỗ bác Chánh với chú Cương và cô Huyền đã tự nguyện đi khai hoang rồi, đang chờ vợ chồng mình lên lao động sản xuất. Tôi hơi sững sờ, rồi chợt hiểu, đang khóc lại suýt bật cười hân hoan, khi thấy nét khôi hài tinh anh của chồng tôi vẫn còn nguyên vẹn. Bác Chánh là tên gọi của thầy mẹ chúng tôi, chú Cương và cô Huyền chính là chú Cường, chú em chồng đã đưa cả nhà xuống tàu HQ 505 đi lánh nạn. Cô công an có vẻ rất đắc ý, nhắc tôi:
– Chị phải nói gì động viên anh ý đi chứ.
Anh nhìn mắt tôi, cười thành tiếng. Tôi chợt cười, nhưng lại chợt giận hờn.
Tôi cúi mặt giận dỗi:
– Em không đi đâu hết, em chờ anh về đã rồi muốn đi đâu cũng được…
Tôi lại khóc, hai tay nắm chặt tay anh, chỉ sợ phải xa rời. Cô công an cứ quay nhìn hết người nọ đến người kia, lên tiếng:
– Chị này hay nhỉ! Phải đi kinh tế mới, lao đông tốt thì anh ấy mới chóng được khoan hồng chứ! Trại giáo dục anh ý tiến bộ thế đấy, còn chị thì cứ… Chỉ được cái khóc là giỏi thôi!!
Anh không nhịn được, lại cười khanh khách và nói:
– Đó em thấy chưa, cán bộ ở đây ai cũng tiến bộ như vậy hết, em phải nghe anh mới được… Em cứ thấy anh bây giờ thì biết chính sách nhà nước ra sao, cũng đừng lo gì hết, ráng nuôi dạy con cho nên người đàng hoàng đừng học theo cái xấu, nghe…
Tôi dở khóc dở cười, chỉ nắm chặt tay anh mà tấm tức, dỗi hờn. Anh gọi hai con chạy sang ngồi hai bên lòng. Cô nữ công an do dự, rồi để yên, lại tiếp tục nhìn sững vào mặt tôi. Anh ôm hôn hai cháu, nói chuyện với hai cháu. Đôi mắt chúng tôi chẳng nỡ rời nhau. Mắt tôi nhòa lệ mà vẫn đọc được trong mắt anh những lời buồn thương da diết. Tội nghiệp hai con tôi đâu biết chỉ được gần cha trong giây lát nữa thôi.
Tôi như một cái máy, vừa khóc vừa lay lay bàn tay anh, nhắc đi nhắc lại, em sẽ đợi anh về, anh đừng lo nghĩ gì nghe, em sẽ đợi anh về, em nhất định đợi anh mà… anh về rồi mình cùng đi kinh tế mới… anh ráng giữ gìn sức khỏe cho em và con nghe… Em thề em sẽ đợi anh về…. Em không sao đâu… Anh đừng lo nghĩ, cứ yên tâm giữ gìn sức khỏe nghe, em thề mà, anh nghe…
Tôi chợt thấy chồng tôi nhòa nước mắt. Cô công an lúng túng đứng dậy, bỏ ra ngoài nhưng lại trở vào ngay, gõ bàn ra hiệu cho người ở ngoài. Người nữ công an kia chẳng biết núp ở đâu, lập tức xuất hiện, báo hết giờ thăm… Vợ chồng tôi lại ôm chặt nhau ở đầu bàn bên kia ngay trước cửa phòng, bất chấp tiếng gõ bàn thúc giục. Anh nắm chặt hai bàn tay tôi, chỉ nói được một câu:
-Anh sẽ về đưa em và con đi, không thể quá lâu đâu, đừng lo nghe, cám ơn em… đã quyết đợi anh về… Rồi anh nghẹn ngào…
Tôi bị ngăn lại ngay cửa nhà thăm nuôi, cháu Dung chạy ù theo cha, cu Bi nhút nhát đứng ôm chân mẹ cùng khóc. Tôi ôm cây cột gỗ nhìn dáng anh chậm chạp buớc tới hai cánh cổng gỗ to sầm, mà không thể nào ngưng tiếng khóc.
Anh ngoái đầu nhìn lại hoài, bước chân lảo đảo, chiếc xe cút kít một bánh mấy lần chao nghiêng vì hàng quá nặng…
Sáng hôm sau tôi như người mất hồn. Các chị bạn cũng chẳng hơn gì. Mấy chị em và bà bác dắt díu nhau ra, mới biết không được về lối cũ, mà phải đi vòng bên ngoài trại cả gần hai chục cây số nữa để trở lại chỗ ngã ba Nam Phát.
Đường xuyên rừng, rồi lại ra đồng trống, nắng hanh chang chang như muốn quật ngã ba mẹ con tôi. Cu Bi mệt lắm, có lúc ngồi bệt xuống, áo quần mồ hôi ướt nhẹp. Tôi phải đứng giữa nắng đem thân mình che nắng cho hai con, dỗ dành chúng, rồi lại bế cu Bi, lầm lũi bước thấp bước cao. Bà bác và hai chị cùng cô Út cứ phải đi chậm lại chờ mẹ con tôi. Bao nhiêu cơm gạo đã giao cho chồng hết, chúng tôi không còn gì ăn uống. Dọc dường mua được mấy cây mía, tôi róc cho các con ăn cho đỡ đói. Hai đứa không khóc lóc một lời. Bé Dung thiệt ngoan, luôn miệng dỗ em cố gắng. Bụng đói, chân mỏi rã rời trong lúc chiều cứ xuống dần. Đám người lang thang trong những cánh rừng tre nứa âm u, trên miền đất không một chút tình thương. Ai cũng lo sợ, dớn dác nhìn trước ngó sau, tự nhiên túm tụm lại mà đi, càng mệt lại càng như muốn chạy. Tôi bế cu Bi, mỏi tay quá lại xoay ra cõng cháu, vừa mệt vừa đói vừa sợ, lếch thếch vừa đi vừa chạy, không biết sẽ ngã gục lúc nào. Cháu Bi nhìn thấy mẹ mệt quá, đòi tuột xuống, rồi lại hăng hái tiến bước. May sao, đến hơn 6 giờ chiều, trời gần tối hẳn, thì trở lại được ngã ba Nam Phát. Hai công an dắt xe ra đạp về nhà, dặn chúng tôi ở đó đón xe đò ra Thanh Hóa.
Đám người ngồi bệt xuống bên đường. Lâu lắm mới có một xe chất đầy người chạy qua, nhưng đều chạy thẳng, không ngừng. Đã hơn chín giờ đêm. Dáng cô Út cao mảnh rắn chắc đứng vẫy xe in lên nền trời đêm đầy sao như một pho tượng thần Vệ Nữ. Một xe lớn có hai bộ đội chở đầy tre nứa, từ xa chiếu đèn pha sáng lòa trên dáng người con gái đảm đang ấy, từ từ dừng lại. Chúng tôi xúm lại hứa trả thật nhiều tiền, rồi bà bác cùng hai con tôi được lên ngồi ca bin, còn tôi với hai chị và cô Út đẩy kéo nhau leo lên ngồi nghiêng ngả trên tre nứa, tay bám, chân đạp chặt vô thành xe, qua năm tiếng đồng hồ trên con đường đất dằn xóc kinh hồn, nhiều lần tưởng đã văng xuống đất. Hai bộ đội tử tế, không lấy tiền, chỉ ăn hai tô cháo lòng mà chúng tôi mời mãi. Ra đến Thanh Hóa là hai giờ sáng. Các chị đi thăm chồng xuống tàu đêm thật đông, thăm hỏi tíu tít, trả lời không kịp. Khi ấy sao mà chị em chúng tôi thương nhau quá sức.
Vé về Nam không có, phải mua vé ra Hà Nội rồi mới đi ngược trở về. Đêm hôm sau mới đến ga Hàng Cỏ, mấy bà con ra đường đang ngơ ngác thì các chị đằng xa đã đôn đáo vẫy chào, kéo chúng tôi tới chỗ… lề đường, đầy những chiếu với tấm ni lông, nơi tạm trú mà các bà “vợ tù cải tạo” gọi là… Hotel California.
Vâng, chúng tôi nghiễm nhiên nhận chồng chúng tôi là “các ông cải tạo” như người miền Nam vẫn kêu với tấm tình trân quý, để phân biệt với những người tù hình sự. Cho nên danh từ thường đi theo với ý nghĩa nào mà người ta hiểu với nhau, không còn giữ được nguyên cái nghĩa mà nó được đặt cho vì mục đích chính trị sâu xa.
Ngủ lề đường nhưng chẳng ai thấy khổ, vì gần nhau thấy ấm hẳn tình người đồng cảnh. Các chị em thì thầm trò chuyện suốt đêm, kẻ thì khóc rấm rứt, người lại cười khúc khích. Tôi vừa ôm con ngủ gật vừa quạt muỗi cho hai cháu, hình ảnh chồng tôi quay cuồng mãi trong đầu, khi anh nói, khi anh cười, lúc anh đầy nước mắt… Sau những nguồn cơn cực nhọc và xúc động mạnh này, về nhà tôi bị thương hàn nhập lý, rụng hết mái tóc dài, gần trọc cả đầu, tôi đã trối trăn cho bà chị nuôi dạy hai cháu, tưởng không còn được thấy mặt chồng tôi lần nữa…
…Chín năm sau, đúng ngày giỗ đầu Ba tôi, anh đột ngột bước vô nhà. Tôi suýt té xỉu vì vui mừng, cứ ôm chặt anh mà.. khóc ngất. Anh cười sang sảng:
– Cái chị này chỉ được cái khóc là giỏi thôi, phải động viên cho chồng đi sang Mỹ đi chứ… Hà hà..
Các chị em tôi từ Đà Lạt tất bật xuống thăm. Vừa xong ngày đám giỗ thì cả nhà đã vui như hội. Tất nhiên tôi là người mừng vui nhất….
Hạnh phúc đã trở về trong vòng tay tôi. Tôi sẽ ôm thật chặt lấy nguồn hạnh phúc này, không bao giờ để cho đi đâu xa mất nữa…
Bà Tôi – Phùng Thành Chủng
Bà tôi được truy tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”.
Cháu tôi hỏi: “Bà gọi là bà?”
“Ừ, bà gọi là bà, bà nội.”
“Thế bố cháu?”
“Bố cháu là chắt gọi là cụ, cụ ngoại.”
“Còn cháu?”
“Cháu là chút gọi là kỵ…”
Ngừng một lát như để ghi nhớ những điều vừa hỏi, nó tiếp: “Bà ơi, thế kỵ làm gì mà được phong anh hùng?”
“Vì kỵ có một người con trai độc nhất là liệt sĩ!”
“A, vậy là cháu biết rồi.” – nó reo lên – “Vậy cháu là chắt gọi liệt sĩ là cụ ngoại. Bố cháu là cháu gọi liệt sĩ là ông ngoại; còn bà… bà là… con của liệt sĩ.”
“Ừ bà là con…”
“Thế mà chẳng bao giờ cháu thấy bà nói chuyện về cụ, về kỵ…”
“Lâu quá rồi! Bà cũng quên mất…”
Không nhận ra có điều gì đó không bình thường trong câu trả lời của tôi, cháu tôi hồn nhiên: “Thế cụ hy sinh năm nào hả bà?”
“Năm 1950!”
“Năm ấy cụ bao nhiêu tuổi?”
“Hai ba tuổi!”
“Còn kỵ? Kỵ mất năm nào?”
“Sau đó bốn năm!”
“Năm đó kỵ bao nhiêu tuổi?”
“Bằng tuổi bà bây giờ…”
“Bằng tuổi bà là bao nhiêu?”
“Năm mốt (51)!”
“Năm mốt” – nó nhẩm tính – “vậy nếu còn sống thì năm nay kỵ cũng chỉ mới ngoài chín mươi…”
“Còn sống thì năm nay kỵ chín lăm (95); cũng gần trăm tuổi rồi…”
“Giá như kỵ còn sống để biết mình được phong là anh hùng bà nhỉ?”
“Ừ, giá như kỵ còn sống…!” – Tôi lặp lại những lời của đứa cháu mà thấy tim mình như bị ai bóp chặt và nước mắt cứ chực trào ra…”
***
Bà tôi bị quy là địa chủ và bị xử bắn trong cải cách ruộng đất! Không hiểu nghe ai xui khôn xui dại, mẹ tôi đã tố bà tôi:
“Thủ đoạn bóc lột người làm của mụ rất tinh vi, xảo quyệt! Mụ luôn lấy tấm gương “thờ chồng nuôi con” của mình ra để ngăn cản không cho tôi tái giá, nhằm mục đích biến tôi thành một người làm việc kiêm đứa ở không công trong nhà!”.
… Hơn bốn mươi năm đã trôi qua, bây giờ ngồi hồi tưởng lại, những kỷ niệm đau buồn – vết thương lòng của một thời – nhờ thời gian đã kịp kéo lên một lớp da non, lại tấy lên nhức nhối như mới hôm nào! Nói thế chẳng để oán hận ai, bởi tôi cũng không còn muốn nhớ và nhắc lại những chuyện ấy nữa, mà nhớ và nhắc lại chỉ là sự bất đắc dĩ phải nhớ và nhắc lại, vậy thôi!
Bố tôi hy sinh trong Chiến dịch Biên giới khi tôi mới ba tuổi! Thời gian còn chưa đủ để cho bà tôi có thể nguôi ngoai thì năm sau tiếp đến cái chết của ông tôi! Làm nghề thuốc, chuyên bốc thuốc trị bệnh cứu người, nhưng rốt cục ông tôi đã không thể cứu được mình thoát khỏi lưỡi hái của tử thần, bởi sự buồn phiền trước cái chết của bố tôi đã khiến căn bệnh nan y của ông tôi tái phát!
Sau hai cái tang gần như cùng một lúc, bà tôi nằm liệt giường mất mấy tháng! Vừa vục dậy được, có người đến rỉ tai là có mấy nhà ở làng đang muốn bán ruộng với một cái giá rất phải chăng, bà tôi liền quyết định bán căn nhà ở phố phủ vốn là cửa hàng thuốc của ông tôi cộng với gánh hàng xén của mình và số vốn liếng dành dụm được trước đó để tậu ruộng! Bà tôi không ngờ rằng những người bán ruộng cho mình đều là những nhà có con em ở vào những cương vị cao trong hàng ngũ cách mạng, nên biết trước được tình thế, họ đã bán tống bán tháo số ruộng đang canh tác để… chạy làng…
Như vậy, tính đến khi bị quy là địa chủ và bị xử bắn, bà tôi mới chỉ là địa chủ được trên dưới ba năm! Lý do mà họ đưa ra là nhà chỉ có một lao động (người ta không tính mẹ tôi, bởi mẹ tôi cũng coi mình là người bị bà tôi bóc lột) mà có hơn chục mẫu ruộng – là người nhiều ruộng nhất làng và do đó cũng là người có nhiều người làm thuê nhất làng!
Trước đó, cũng không nghĩ là mình có thể bị bắn, nhưng lo tôi sẽ theo mẹ tôi “cắt đứt” với bà, nên một lần bà đã gọi tôi lại ướm thử: “Mẹ cháu bảo mấy hôm nữa sẽ về đón cháu đi đấy!”. Tôi đã bảo bà: “Không! Cháu sẽ không đi đâu cả, cháu ở với bà…”. Bà đã âu yếm kéo tôi vào lòng, xoa đầu khen tôi ngoan, hứa sẽ mua cho tôi một bộ quần áo mới để mặc tết, rồi cả hai bà cháu ngồi ôm nhau khóc! Tôi không ngờ (và bà tôi hẳn lại càng không ngờ) đó cũng là lần cuối cùng hai bà cháu còn được ngồi với nhau!
Sau đó, bà tôi đã gửi tôi về bên ngoại, cách nhà tôi chừng hai cây số nhờ các ông cậu, bà mợ trông nom. Về sau tôi mới biết là trong thời gian đó bà tôi đã phải chịu đựng biết bao nhiêu là nhục nhã, ê chề! Không kể ruộng đất, toàn bộ của nả, từ thóc lúa, con trâu, cái cày cho đến cái chổi cùn, cái rế rách trong nhà tôi đều bị tịch thu. Năm gian nhà ngói và ba gian nhà ngang trên mảnh đất mười hai thước được chia cho ba hộ thuộc thành phần bần cố nông. Bà tôi bị giam lỏng một nơi, có dân quân canh gác; đi đái, đi ỉa phải xin phép và phải chào hỏi, vâng dạ, phải xưng con và phải kêu là ông, là bà với tất cả những người mình gặp kể từ đứa trẻ con còn ẵm ngửa trở đi…
Ngày bà tôi bị bắn, như có linh tính mách bảo, tôi từ bên ngoại trốn về. Đến nhà, không thấy bà đâu lại thấy nhà cửa tan hoang như vừa bị mất cướp, tôi bất giác oà khóc bởi nỗi sợ hãi là tai hoạ đã giáng xuống đầu bà tôi; rằng đúng vào lúc bà tôi cần đến tôi thì tôi lại không có mặt và tôi đã vĩnh viễn mất bà! Đúng lúc đó thì một “ông” dân quân vai đeo súng dẫn hai người đàn ông đã đứng tuổi (sau này tôi mới biết một người cũng bị quy là địa chủ, còn một người làm nghề thầy cúng) đi vào. Theo lệnh của “ông” ta, hai cánh cửa sổ buồng nhà tôi được tháo xuống và mỗi người một cánh mang đi. Tôi vội chạy theo:
“Sao các ông lại tháo cửa nhà tôi?”
“Ông” dân quân quay lại: “Nhà nào của nhà mày! Đây là nhà của nông dân!” – Rồi ông ta nhìn tôi cười nhăn nhở – “Mà… tháo hai cánh cửa này… là… tháo cho… bà mày đấy!”
“Bà tôi đâu?”
“Ơ…! Thì ra mày vẫn chưa biết gì thật à! Có muốn chia tay bà mày thì ra đồng Trước…”
Đồng Trước! Bà tôi ra đồng Trước làm gì? Và người ta đang làm gì bà tôi ở đồng Trước? Tôi vội hớt hải chạy theo…
Cánh đồng Trước vừa gặt xong còn trơ gốc rạ, bây giờ là cả một biển người với cờ, loa, khẩu hiệu; với cả rừng những cánh tay giơ lên, hạ xuống và những tiếng hô: “Đả đảo! Đả đảo! Đả đảo!” trong niềm phấn khích của đám đông nghĩ là mình đã đổi đời!
Tôi đến nơi đúng lúc người ta vừa thi hành án xong với bà tôi và Toà án Nhân dân cách mạng đã tuyên bố kết thúc phiên toà. Đến đây, tôi mới hiểu hai cánh cửa sổ được mang ra đây để làm gì! Một cánh thay cho tấm “địa”, một cánh làm tấm “thiên” rồi với hai vòng thừng hai đầu và một chiếc đòn tròn (một loại đòn được dùng để gánh rạ), ông địa chủ và ông thầy cúng mỗi người một đầu – theo lệnh của “ông” dân quân – hai người khiêng xác bà tôi ra bãi tha ma! Nghĩa tử là nghĩa tận, ngoài việc dành cho bà tôi hai cánh cửa để làm “cỗ áo”, người ta còn chứng tỏ lòng nhân đạo bằng việc đốt cho bà tôi cả một bó nhang!
Với ai đó thì “chết là hết” nhưng số bà tôi còn khổ cả sau khi chết! Vốn người thấp, bé nhưng vì hai cánh cửa sổ quá ngắn, nên suốt dọc đường đi mái tóc và hai chân của bà tôi, đoạn từ đầu gối trở xuống cứ lê thê quết đất! Khi chỉ còn cách bãi tha ma một đoạn, bó nhang phía đầu “áo quan” bỗng nhiên bùng cháy và bén vào tóc bà tôi. “Ông” dân quân liền lệnh cho hai người hạ bà tôi xuống, và thật bất ngờ khi “ông” ta chỉ vào ông thầy cúng rồi chỉ vào đám tóc đang cháy của bà tôi ra lệnh: “Thằng này! Đái!…”
Ông thầy cúng lắp bắp mãi mới thốt được nên lời: “Dạ… thưa ông… con… con không mót!”
“Ông” ta liền quay sang ông địa chủ: “Thằng này!…”
Cùng lúc, nhận ra đũng quần của ông địa chủ đã ướt sũng, “ông” ta liền xăm xăm tiến đến trước mặt bà tôi và vén quần lên…
Tôi vội nhào đến và chỉ kêu được hai tiếng “Bà ơi!” rồi không biết gì nữa…
***
Do có một người tham gia cách mạng và lại là liệt sĩ, nên trong sửa sai, gia đình tôi được xếp thuộc diện “địa chủ kháng chiến”. Năm gian nhà ngói và ba gian nhà ngang trên mảnh đất mười hai thước được trả lại. Trả giá cho lỗi lầm của mình, mẹ tôi đã tìm đến cái chết, nhưng không dám chết ở làng mà ra Hà Nội, tìm đến tận hồ Hale tự tử…
Bà tôi được truy tặng danh hiệu: “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”.
Anh hùng? Không! Bà tôi không phải là anh hùng, cũng như trước đây bà tôi không phải là “cường hào ác bá”! Có gì mà “cường hào ác bá”! Bà tôi chỉ là một người phụ nữ Việt Nam như bao người phụ nữ Việt Nam bình thường khác! Vậy xin hãy để cho linh hồn bà tôi được yên nghỉ, bởi tôi muốn mãi mãi bà tôi vẫn chỉ là bà tôi.
http://music.vietfun.com/tview.php?cat=13&ID=6822
Vui Cười
Le Duẫn quyết định một mình đi thanh tra quanh thành phố xem dân chúng sống như thế nào. Một lần ông ta bí mật ra khỏi Điện. Sau đó ông rẽ vào rạp chiếu bóng. Phim vừa hết thì quốc ca vang lên và trên màn ảnh xuất hiện hình Le Duẫn. Tất cả đều đứng dậy và hát quốc ca, riêng Le Duẫn vẫn tiếp tục ngồi, tỏ vẻ rất hài lòng. Rồi ông ta thấy một người ngồi phía sau ghé vào tai thì thầm:
“Này đồng chí, tất cả chúng tôi đều cảm thấy như thế, nhưng hãy tin tôi đi, đứng dậy sẽ an toàn hơn rất nhiều.”
Một sĩ quan công an vào công viên và trông thấy một ông già đang cầm cuốn sách. Người sĩ quan hỏi:
“Ông đang đọc gì đấy?”
Ông già đáp: “Tôi đang tự học tiếng Anh.”
“Ông học tiếng Anh làm gì? Xin giấy tờ đi “Mỹ” phải chờ mấy năm lận. Có lẽ ông sẽ chết trước khi làm xong giấy tờ.”
“Tôi học tiếng Anh để khi lên Thiên đàng tôi có thể nói chuyện với Abraham và Mose. Trên Thiên đàng chỉ nói bằng tiếng Anh thôi.”
Người sĩ quan công an lại hỏi : “Thế nếu ông xuống địa ngục thì sao?”
Ông già trả lời: “Tiếng Việt thì tôi đã biết rồi.”
Hỏi: Điều gì là vĩnh cửu ở XHCH?
Đáp: Những khó khăn tạm thời.