Tin Biển Đông – 14/02/2019
TQ “kịch liệt phản đối”
Mỹ điều 2 tàu chiến ra Biển Đông
Trung Quốc ngày 11/2 đã lên tiếng phản đối việc Mỹ điều hai tàu chiến tiến vào khu vực tranh chấp trên Biển Đông.
Động thái này diễn ra trong bối cảnh các nhà đàm phán hai nước chuẩn bị nối lại các cuộc đàm phán nhằm chấm dứt cuộc chiến thương mại.
Phát biểu trong cuộc họp báo tại thủ đô Bắc Kinh ngày 11/2, người phát ngôn Bộ ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Doanh nói: “Các hoạt động của tàu chiến Mỹ đã gây tổn hại an ninh, hòa bình và trật tự tại các vùng biển liên quan. Phía Trung Quốc bày tỏ sự thất vọng và kịch liệt phản đối động thái này. Trung Quốc luôn tôn trọng và bảo vệ quyền tự do hàng hải cũng như các chuyến bay dựa trên luật pháp quốc
tế về Biển Đông, kiên quyết phản đối bất cứ nước nào gây tổn hại chủ quyền và an ninh của các quốc gia ven biển”.
Bộ Ngoại giao Trung Quốc cho biết thêm: “Trong bất cứ hoàn cảnh nào, hành động khiêu khích, gây căng thẳng tại Biển Đông là không chấp nhận được. Trung Quốc hối thúc Mỹ ngay lập tức dừng các hoạt động khiêu khích và tôn trọng những nỗ lực của các quốc gia trong khu vực để duy trì hòa bình và ổn định tại Biển Đông”.
Tuyên bố này được đưa ra không lâu sau khi hãng tin Reuters dẫn nguồn tin từ một quan chức Mỹ cho biết, Mỹ đã điều hai tàu khu trục USS Spruance và USS Preble tiến hành hoạt động tự do hàng hải trên Biển Đông, bằng cách di chuyển vào khu vực 12 hải lý quanh đá Vành Khăn [thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam – ND].
Theo quan chức nêu trên, chiến dịch này là nỗ lực mới nhất của Washington nhằm phản đối những nỗ lực của Bắc Kinh hạn chế tự do hàng hải trong khu vực. Đây là lần thứ 2 kể từ đầu năm nay Mỹ điều tuần tuần tra ra Biển Đông.
http://biendong.net/bi-n-nong/26233-tq-kich-liet-phan-doi-my-dieu-2-tau-chien-ra-bien-dong.html
Australia tiếp tục quan ngại
các hành vi phi pháp của TQ trên Biển Đông
Phát biểu trong chuyến thăm Singapore, Bộ trưởng Quốc phòng Australia Christopher Pyne (28/1) cho biết các hành động quân sự hóa trái phép của Trung Quốc trên Biển Đông sẽ làm gia tăng sự quan ngại về ý đồ trỗi dậy của Bắc Kinh trong khu vực; cho rằng cách tiếp cận của Trung Quốc đang làm xói mòn lòng tin trong khu vực và gia tăng quan ngại, đồng thời kêu gọi Trung Quốc xem xét lại cách tiếp cận trong vấn đề Biển Đông.
Bộ trưởng Quốc phòng Australia Christopher Pyne cho biết việc giải quyết các tranh chấp trên Biển Đông theo luật pháp quốc tế sẽ giúp xây dựng lòng tin rằng Trung Quốc ủng hộ và đề cao văn hóa chiến lược, trong đó tôn trọng quyền của tất cả các quốc gia khác. Theo ông Pyne, những cường quốc càng lớn
mạnh càng phải gánh trên vai nhiều trách nhiệm, do vậy Trung Quốc nên hành xử với trách nhiệm lớn tại Biển Đông. Ngoài ra, Bộ trưởng Pyne nhấn mạnh “việc xây dựng và quân sự hóa các thực thể nhân tạo trên Biển Đông không làm gia tăng lòng tin trong khu vực về ý đồ chiến lược của Trung Quốc, thay vào đó càng làm gia tăng sự lo lắng”; cho biết Australia “không có ý định kiềm chế Trung Quốc”, tuy nhiên Australia “quan tâm tới việc can dự và khuyến khích Trung Quốc triển khai sức mạnh theo hướng gia tăng lòng tin và sự tin cậy trong khu vực” và Australia sẵn sàng tiến hành các hoạt động đa phương trên Biển Đông để chứng minh rằng đó là vùng biển quốc tế.
Ngoài ra, ông Christopher Pyne cũng cho biết thêm, Australia sẽ đầu tư hơn 90 tỷ đô la Australia vào một đội tàu ngầm, tàu khu trục và các tàu khác để tăng cường khả năng hàng hải, nhấn mạnh Australia hy vọng sẽ tăng ngân sách quốc phòng lên hơn 2% tổng sản phẩm quốc nội vào năm 2021.
Thời gian qua, Australia đã điều tàu chiến và máy bay đi qua Biển Đông cũng như tiến hành các cuộc tập trận chung ở khu vực này. Hiện tại, các tàu Australia vẫn chưa vào trong phạm vi 12 hải lý quanh thực thể nhân tạo được quân sự hóa của Trung Quốc trên Biển Đông (như Mỹ đã làm). Nhưng trước áp lực của Mỹ dưới thời Tổng thống Donald Trump thì các hành động của Australia gần đây đã có dấu hiệu vỗ mặt Trung Quốc thật sự thay vì gắng đứng ngoài tranh chấp như thời ông Barack Obama làm chủ Nhà Trắng.
Quan điểm, chủ trương, chính sách của Australia liên quan Biển Đông
Tuy Australia không có tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông, song khu vực này có ý nghĩa sống còn đối với Australia, nhất là việc vận chuyển, trao đổi hàng hóa thương mại qua Biển Đông. Hiện hầu hết các tuyến đường thương mại của Australia đến khu vực Đông Bắc Á, Đông Á đều đi qua Biển Đông. Cựu Thủ tướng Australia Tony Abbott (10/2013) từng nhấn mạnh gần 60% thương mại của Australia đều thông qua Biển Đông. Chính vì vậy, việc hàng hóa, tàu thuyền tự do lưu thông không bị cản trở, kiểm soát ở Biển Đông là một trong những vấn đề được Australia đặc biệt quan tâm. Trong những năm gần đây, Australia đã đóng vai trò tích cực nhằm đảm bảo an toàn hàng hải và giao lưu kinh tế cho các tuyến đường thương mại của Australia qua vùng biển này.
Không những vậy, việc Trung Quốc chiếm đóng, cải tạo phi pháp và trên khai vũ khí trên các thực thể nhân tạo ở Trường Sa, nhất là một số loại tên lửa có khả năng vươn tới một bộ phận lãnh thổ Australia đã đe dọa trực tiếp môi trường hòa bình và ổn định của Australia.Tình hình an ninh khu vực Biển Đông cũng có tác động trực tiếp đến hoạt động giao thông hàng hải và vận chuyển hàng hóa, sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến vấn đề thương mại của Australia. Ngoài ra, khi tình hình an ninh khu vực trở nên căng thẳng sẽ kéo theo một cuộc chạy đua vũ trang trong khu vực. Khi đó, Australia là nước có lợi ích thiết thực ở Biển Đông sẽ bị kéo theo và ảnh hưởng đến chính sách quốc phòng, nhất là hoạt động của hải quân Australia.
Xuất phát từ lợi ích thiết thực của mình, Australia đang ngày càng tăng cường hiện diện và can thiệp vào vấn đề Biển Đông. Về quan điểm chính thức, Australia tuyên bố sẽ không ủng hộ hoặc liên minh, liên kết với bất kỳ nước nào trong các tranh chấp ở Biển Đông, khẳng định Australia giữ vai trò trung lập, nhưng kêu gọi các nước liên quan giải quyết tranh chấp thông qua các biện pháp hòa bình, tuân thủ luật pháp quốc tế, đảm bảo tự do hàng hải, hàng không trong khu vực không bị ảnh hưởng, lên án các hành động quân sự hóa trong khu vưc. Về mặt công khai, Australia bày tỏ thái độ trung lập trong vấn đề Biển Đông nhằm tránh gây căng thẳng trong quan hệ với Trung Quốc. Nhưng trên thực tế Australia vần ủng hộ cách tiếp cận của Mỹ trong vấn đề Biển Đông. Một mặt thông qua các kênh ngoại giao cùng các diễn đàn quốc tế để tạo áp lực yêu cầu Trung Quốc tuân thủ luật pháp quốc tế, chấm dứt các hành động phi pháp ở Biển Đông; mặt khác Australia tăng cường hiện diện quân sự trong khu vực, tích cực tham gia các hoạt động tuần tra đảm bảo tự do hàng hải, hàng không ở Biển Đông.
Ngoài Bộ trưởng Quốc phòng AustraliaChristopher Pyne, nhiều lãnh đạo cấp cao của Australia cũng đã lên tiếng phản đối các hoạt động phi pháp của Trung Quốc trên Biển Đông. Khi vừa mới lên nắm quyền, tân Thủ tướng Australia Malcolm Turnbull (21/9/2015) kêu gọi Trung Quốc giảm hoạt động xây dựng trái phép đảo tại Biển Đông, cho rằng chính sách đối ngoại của Bắc Kinh về vấn đề Biển Đông “không mang tính xây dựng”, khẳng định đang có một số căng thẳng về vấn đề các đảo, bãi cạn ở Biển Đông và Trung Quốc cần có hành động hợp lý; nhấn mạnh “sự trỗi dậy của Trung Quốc không nên ảnh hưởng tới an ninh và sự hài hòa tương đối trong khu vực”, đồng thời cảnh báo “việc Trung Quốc có ý định chiếm trọn Biển Đông chắc chắn sẽ gây hậu quả ngược lại với những gì nước này mong muốn đạt được”. Tại Đối thoại Shangri-la năm 2017, ông Malcolm Turnbull cũng thể hiện sự quan ngại về tình hình Biển Đông, đã đưa ra tuyên bố mạnh mẽ nhất lên án những động thái của Trung Quốc thời gian qua ở khu vực, kêu gọi Bắc Kinh tôn trọng chủ quyền của các quốc gia khác trong khu vực. “Nếu chúng ta muốn duy trì tính
năng động của khu vực thì chúng ta phải bảo vệ cơ cấu vốn có dựa trên các quy tắc đã tồn tại bấy lâu nay. Điều này có nghĩa là hợp tác chứ không phải hành động đơn phương để tạo ra lãnh thổ, quân sự hóa các khu vực tranh chấp”, Thủ tướng Australia nhấn mạnh. Đồng thời, ông Turnbull cũng khuyến khích Trung Quốc xây dựng lòng tin trên toàn cầu thông qua việc giúp ngăn chặn các hành động khiêu khích của Triều Tiên. Ngoại trưởng Australia Julie Bishop nhiều lần đã khẳng định tầm quan trọng của việc duy trì hòa bình và ổn định tại khu vực, bảo đảm an ninh, an toàn và tự do hàng hải, hàng không và tuân thủ luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982, không sử dụng hay đe dọa sử dụng vũ lực; kêu gọi các bên kiềm chế và tránh các hành động có thể gia tăng căng thẳng trong khu vực; ủng hộ ASEAN và Trung Quốc đưa ra Bộ Quy tắc ứng xử (COC) trên Biển Đông.
Đáng chú ý, Đại sứ Australia tại Philippines Amanda Gorely (7/2016) từng đưa ra tuyên bố khẳng định vấn đề Biển Đông “là giá trị, nguyên tắc rất quan trọng và cơ bản, là cốt lõi trong chính sách đối ngoại của Australia”, cho rằng những cơ sở mà Trung Quốc đơn phương xây dựng trên Biển Đông sẽ làm gia tăng căng thẳng trong khu vực, đồng thời khẳng định cách tiếp cận và chính sách của Canberra đối với Biển Đông là rất nhất quán trong khoảng thời gian dài. Australia không ủng hộ các hành động của bất kỳ quốc gia nào đi ngược lại phán quyết của PCA, trong đó có hoạt động quân sự hóa, đồng thời khuyến khích cả Trung Quốc lẫn Philippines thực thi phán quyết này.
Hay Sách Trắng Ngoại giao của Australia (11/2017) nêu bật tình hình Biển Đông, coi đây như là “một vấn đề lớn của trật tự khu vực” và bày tỏ “đặc biệt quan ngại về tốc độ và quy mô chưa từng thấy” của các hoạt động bối đắp, xây dựng mà Trung Quốc tiến hành trong khu vực biển tranh chấp, nhấn mạnh “Australia phản đối việc sử dụng các thực thể tranh chấp và các cấu trúc nhân tạo trên Biển Đông để phục vụ cho các mục đích quân sự, đồng thời khẳng định Australia ủng hộ việc giải quyết các bất đồng thông qua đàm phán trên cơ sở luật pháp quốc tế”.
Một số hoạt động nổi bật của Australia ở Biển Đông trong năm 2018:
Trong năm 2018, Australia tiếp tục tăng cường hiện diện ở Biển Đông, đưa ra nhiều tuyên bố chỉ trích hoạt động phi pháp của Trung Quốc trong khu vực, đồng thời thúc đẩy hợp tác, giao lưu với các nước liên quan nhằm đảm bảo hòa bình, ổn định ở Biển Đông, cụ thể: (1) Australia (24/10) đang triển khai thêm nhiều tàu chiến đến Biển Đông và hoạt động tại các căn cứ quân sự trên khắp Thái Bình Dương trong bối cảnh Australia đang gồng mình trước việc Bắc Kinh gia tăng sức mạnh ở khu vực. Theo các số liệu được một Ủy ban trong Thượng viện Australia công bố, Hải quân Australia đã chậm rãi tăng cường sự hiện diện tại Biển Đông trong vòng 5 năm qua. Tại buổi điều trần trước Thượng viện Australia, Chỉ huy Lực lượng Quốc phòng Angus Campbell cho biết, việc con số tăng lên không chỉ phản ánh thực tế Australia đang hiện diện nhiều hơn ở khu vực mà còn cho thấy nước này “tham gia nhiều hơn với các đối tác trong khu vực tại một vùng biển trung chuyển đến 1/3 lượng vận tải thế giới và là tuyến đường tự nhiên giữa Australia và các đối tác thương mại lớn”. (2) Phát biểu bên lề Hội nghị của Viện các vấn đề quốc tế Australia tại Canberra, Ngoại trưởng Australia Marise Payne (15/10) đã thể hiện lập trường thận trọng một cách rõ ràng về việc tiến hành các cuộc tuần tra trên biển ở Biển Đông sau khi Cố vấn an ninh quốc gia Mỹ John Bolton tuyên bố Mỹ và các đồng minh sẽ hành động nhiều hơn ở vùng biển tranh chấp này. (3) Bộ trưởng Ngoại giao, Bộ trưởng Quốc phòng của Nhật Bản và Australia (10/10) đã thảo luận về khả năng hợp tác quân sự và an ninh trong khuôn khổ chiến lược của Tokyo về “Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và mở”. Bộ trưởng Ngoại giao Nhật Bản Taro Kono cho biết, có thể Nhật Bản sẽ tham gia tuần tra trên biển cùng với Australia tại Biển Đông. (4) Bộ trưởng Quốc phòng Australia Christopher Pyne (3/10) đã bày tỏ lo ngại về những “thủ thuật hung hăng” của Trung Quốc ở Biển Đông sau khi tàu khu trục Lan Châu của Trung Quốc (30/9) áp sát tàu chiến của Mỹ. Ông Pyne cho biết Chính phủ Australia sẽ coi bất cứ việc sử dụng hành động đe dọa nào trong khu vực đều là “bất ổn và tiềm ẩn nguy hiểm”, khẳng định “Australia đã nhiều lần thể hiện lo ngại về việc quân sự hóa Biển Đông đang diễn ra và chúng tôi sẽ tiếp tục thúc giục các bên tranh chấp kiềm chế không tiến hành các hoạt động đơn phương có thể làm gia tăng căng thẳng ở khu vực”. (5) Thủ tướng Australia Morrison (3/10) cho biết Australia sẽ đóng vai trò là “cái đầu lạnh” khi căng thẳng gia tăng ở Biển Đông giữa một bên là Mỹ – đồng minh an ninh, và Trung Quốc – đối tác thương mại lớn nhất của Australia. Trước đó, Thủ tướng Australia Malcolm Turnbull (25/2) khẳng định sẽ tiếp tục cho phép Hải quân Australia tham gia vào các hoạt động tự do hàng hải của Mỹ ở Biển Đông sau khi có sự ủng hộ của Tổng thống Mỹ Donald Trump. Trong khi đó, Thứ trưởng Ngoại giao và Thương mại Australia Frances Adamson cho biết an ninh hàng hải, bao gồm cả tự do hàng hải, là “cần thiết để bảo đảm cho các tuyến đường thương mại mà Australia phụ thuộc vào”. Theo bà Adamson, cạnh tranh Trung – Mỹ là không thể tránh khỏi, nhưng Australia cũng thấy có cơ hội để hợp tác, bởi “quan hệ giữa Trung Quốc và Mỹ đóng vai trò quan
trọng nhất trong tương lai, và tình hình quan hệ đó sẽ tạo ra bức tranh chiến lược khu vực”. (6) 3 quân chủng hải, lục, không quân của Australia (2-19/10) đã tham gia vào cuộc tập trận an ninh quốc tế kéo dài hai tuần ở Biển Đông. Cụ thể, quân đội các nước Australia, Singapore, Malaysia, New Zealand và Anh sẽ tham gia cuộc tập trận Bersama Lima 18 từ ngày. Tư lệnh quân đội Australia, Đội trưởng Nicholas Pratt, cho biết cuộc tập trận Bersama Lima bao gồm các nội dung huấn luyện thực địa, bắn đạn thật cũng như luyện tập chỉ huy để kiểm tra khả năng hoạt động của các lực lượng hải quân, lục quân và không quân Australia. Cuộc tập trận này cũng sẽ tăng cường hiểu biết của các quốc gia đối tác về chiến thuật và quy trình triển khai hoạt động, chứng minh giá trị vô giá trong việc xây dựng khả năng tương tác giữa quân đội các nước trong khu vực và các tình huống huấn luyện thực tế liên quan. (7) Tại Đối thoại Chiến lược Ba bên tại Singapore, Ngoại trưởng Australia, Mỹ và Nhật Bản (4/8) đã bày tỏ quan ngại về những diễn biến trên Biển Đông, trong đó có vấn đề sử dụng các hệ thống vũ khí hiện đại trên các khu vực tranh chấp. Tuyên bố chung được đưa ra sau Hội nghị nêu rõ: “Các Bộ trưởng đã lên tiếng phản đối mạnh mẽ các hành động đơn phương áp đặt, làm biến đổi nguyên trạng và gây gia tăng căng thẳng”. Tuy nhiên, bên cạnh đó, Ngoại trưởng Australia Julie Bishop, Ngoại trưởng Nhật Bản Taro Kono và Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo đã ghi nhận những tiến triển về Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC), cho rằng COC cần phù hợp với luật pháp quốc tế và các bên cần đẩy mạnh cam kết về chấm dứt các hành động làm leo thang tranh chấp. Trước đó, tại Đối thoại Shangri-La 2018, Australia, Mỹ và Nhật Bản (2/6) đã nhất trí rằng cộng đồng quốc tế cần hợp tác nhằm đối phó với mọi nỗ lực đơn phương nhằm phá vỡ nguyên trạng trên Biển Đông, mà rõ ràng nhắm đến các hoạt động bành trướng của Trung Quốc ở khu vực. Các quan chức cũng nhất trí triển khai một chương trình hành động chiến lược về an ninh biển áp dụng cho cả ba nước. (8) Người phát ngôn Bộ Quốc phòng Australia Richard Marles (24/7) cho biết Đảng Lao động ủng hộ quyền của tất cả các quốc gia thực hiện tự do hàng hải (FONOP) phù hợp với luật pháp quốc tế, và sẽ cân nhắc việc phối hợp với các nước khác.
Phản ứng của Trung Quốc
Phản ứng trước sự quan ngại và tuyên bố của Australia về vấn đề Biển Đông, Trung Quốc liên tục đưa ra các tuyên bố cứng rắn phản đối, đe dọa Australia sẽ “gánh hậu quả nghiệm trọng” nếu tiếp tục có các hành động cản trở Trung Quốc.
Bộ Ngoại giao Trung Quốc nhiều lần đưa ra các tuyên bố cho rằng “Australia không phải là một bên liên quan trực tiếp trong vấn đề Biển Đôn, hy vọng Australia sẽ giữ cam kết là không nghiêng về bên nào trong vấn đề này và dừng ngay việc đưa ra các tuyên bố thiếu thận trọng”. Người phát ngôn Bộ Quốc phòng Trung Quốc Đại tá Ngô Khiêm cũng nhiều lần tuyên bố kêu gọi Australia trân trọng đà phát triển tốt đẹp trong quan hệ hai nước, không tham gia hoặc tiến hành bất kỳ hoạt động nào có thể làm tổn hại đến sự ổn định trong khu vực.
Truyền thông Trung Quốc, nhất là những trang mạng mang tính hiếu chiến như Thời báo Hoàn Cầu, Thiết Huyết… đăng nhiều bài viết đe dọa rằng Trung Quốc sẽ tung ra các biện pháp mạnh gây “ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế Australia” nếu Canberra nhúng tay vào Biển Đông, cảnh báo hành động của Australia sẽ “đầu độc quan hệ với Bắc Kinh và làm rung chuyển nền tảng cân bằng chiến lược (của Australia) trong quan hệ với Mỹ và Trung Quốc”; nhấn mạnh Australia nên công nhận sự trỗi dậy hòa bình của Trung Quốc và đừng để vấn đề Biển Đông làm tổn thương quan hệ song phương, hoặc trở thành “công cụ cho thế lực nước ngoài phá hoại ổn định khu vực”.
Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương
tự do và rộng mở: Tác động đối với Việt Nam
và tranh chấp Biển Đông
Việt Nam và Biển Đông là khu vực có vị trí địa chiến lược quan trọng đối với Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở. Từ khi Nhật Bản và Mỹ đưa ra Chiến lược trên đã có những tác động, ảnh hưởng nhất định đối với Việt Nam cũng như tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông.
Bối cảnh hình thành Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương
Theo các học giả Nhật Bản, chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương vốn ban đầu là ý tưởng của Nhật Bản. Trong chuyến thăm Ấn Độ năm 2007, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đã nêu quan điểm về “trục tự do và thịnh vượng dọc theo không gian Âu – Á” và sự kết hợp năng động giữa khu vực Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương”. Quan điểm này thực chất nhằm đề cao vai trò của bốn nền dân chủ hàng đầu thế giới là Mỹ, Nhật Bản, Australia và Ấn Độ. Ngay từ năm 2014, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe
đã thúc đẩy mạnh mẽ sáng kiến này, đồng thời nhiều lần vận động giới chính trị Mỹ ủng hộ và chia sẻ đối với sáng kiến. Nhưng đến khi Tổng thống Mỹ Donald Trmup đắc cử, chính quyền Mỹ mới chấp nhận và đưa sáng kiến này trở thành một chiến lược ở tầm quốc gia.
Trong Chiến lược An ninh quốc gia mới (NSS, 12/2017) và Chiến lược Quốc phòng mới (NDS, 1/2018), chính quyền Mỹ có đề cập tới “tầm nhìn này” nhưng không đi vào chi tiết. Đến tháng 3/2018, Mỹ mới chính thức gọi tầm nhìn này là “Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở”. Cũng trong tháng 3/2018, Chính phủ Mỹ đã cử nhiều quan chức cấp cao đi tham vấn các nước trong khu vực. Cuối tháng 5/2018, Trung tâm Nghiên cứu an ninh châu Á – Thái Bình Dương (APCSS) có trụ sở tại thành phố Hawaii đã tổ chức một cuộc hội thảo lớn về “Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương” với sự tham dự của đông đảo quan chức Chính phủ Mỹ và nhiều quan chức, chuyên gia, học giả đến từ các nước trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Từ sau cuộc hội thảo quan trọng đó, Mỹ cơ bản định hình xong về khuôn khổ và nội hàm của Chiến lược này.
Ngày 2/6/2018, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ James Mattis đã chính thức công bố một số nội dung chủ chốt nhất của Chiến lược. Theo đó, bốn nguyên nhân cơ bản dẫn tới việc Mỹ, Nhật Bản và các đối tác, đồng minh xây dựng “Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở” như sau: (1) Quá trình chuyển dịch quyền lực đang diễn ra rất mạnh mẽ tại khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương; sự phân bổ lại quyền lực ở khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương cũng đang làm thay đổi căn bản tương quan so sánh lực lượng, gây lo ngại đối với hầu hết các nước lớn. (2) Sau khi ông Donald Trump đắc cử Tổng thống Mỹ, nội bộ Mỹ, nhất là chính quyền của Tổng thống Donald Trump đã chỉ trích mạnh mẽ chính sách “kiên nhẫn chiến lược” của người tiền nhiệm và Đảng Dân chủ; cho rằng các chính quyền Mỹ trước đây đã không làm đủ mạnh để ngăn chặn sự trỗi dậy của Trung Quốc. Do vậy, chính quyền mới của Mỹ hiện nay đã điều chỉnh cách tiếp cận, từ “kiên nhẫn chiến lược” và “tích cực can dự nhằm thay đổi hành vi của Trung Quốc” sang “cạnh tranh trực diện về mọi mặt”. Trong NSS và NDS, Mỹ xác định cả Trung Quốc lẫn Nga đều là các “cường quốc xét lại”, thách thức sức mạnh, ảnh hưởng và các lợi ích của Mỹ trên nhiều phương diện, như tuyên truyền, công nghệ, kinh tế và quốc phòng. (3) Trong bối cảnh trào lưu dân túy đang trỗi dậy mạnh mẽ, các chính sách của Tổng thống Mỹ Donald Trump gây lo ngại sâu sắc trong số các đồng minh, đối tác của Mỹ ở khu vực, như Nhật Bản và Australia. Ông Donald Trump đã không ít lần đề cập tới khả năng rút quân Mỹ ở Hàn Quốc về nước hoặc gây sức ép buộc các nước này phải gánh thêm chi phí quốc phòng. Do vậy, các nước này đã chủ động điều chỉnh chính sách để tìm cách kéo Mỹ ở lại khu vực, gia tăng vai trò và hình thành các liên kết, tập hợp lực lượng mới có lợi cho mình. (4) Do Ấn Độ có vai trò rất quan trọng ở khu vực (cả Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương), quan hệ Nhật Bản – Ấn Độ, Mỹ – Ấn Độ đang ngày càng “nồng ấm”… Hai bên cũng chia sẻ nhiều quan điểm, lập trường chung, nhiều lợi ích chung to lớn nên Mỹ và Nhật Bản đều muốn lôi kéo Ấn Độ để gia tăng đối trọng với Trung Quốc ở trên toàn tuyến. Trong khi đó, do bố trí lực lượng của Mỹ và đồng minh từ khu vực Nam Đài Loan tới châu Đại dương còn khá mỏng, nên Mỹ và Nhật Bản có xu hướng muốn lôi kéo cả Australia và các nước có quan điểm, lập trường tương tự để tạo thế cân bằng chiến lược mới ở Nam bán cầu.
Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở của Mỹ
Ngày 2/6/2018, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ James Mattis khẳng định: “Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở là một bộ phận trong Chiến lược An ninh quốc gia của Mỹ”. Trong Chiến lược này, Mỹ coi việc làm sâu sắc hơn quan hệ với đồng minh đối tác là một ưu tiên hàng đầu; vai trò trung tâm của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) có ý nghĩa sống còn và hoan nghênh sự hợp tác với Trung Quốc bất cứ khi nào có thể.
Trong khi tìm kiếm các cơ hội mới để thúc đẩy hợp tác đa phương thực chất, Mỹ sẽ đẩy mạnh can dự với các cơ chế khu vực hiện có. Chính quyền Mỹ coi khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương là địa bàn ưu tiên chiến lược. Về chính trị, Mỹ ủng hộ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của mọi quốc gia, bất kể lớn, nhỏ; ủng hộ tự do cho mọi quốc gia, tiếp cận không hạn chế đối với các vùng biển, không gian quốc tế, giải quyết hòa bình các tranh chấp và không sử dụng sức mạnh chèn ép các nước láng giềng, tuân thủ luật pháp và các chuẩn mực quốc tế – vốn tồn tại từ lâu và là nền tảng cho hòa bình, thịnh vượng từ nhiều thập niên qua… Về kinh tế, Mỹ khẳng định sẽ cạnh tranh công bằng với tất cả các bên; theo đuổi chính sách thương mại công bằng, đầu tư tự do, bình đẳng và “có đi có lại”. Để thực hiện các nguyên tắc trên, Mỹ công bố các nhóm giải pháp cơ bản, bao gồm: (1) Mở rộng sự quan tâm đối với không gian biển. Mỹ sẽ duy trì các không gian chung trên biển bằng cách trợ giúp các đối tác xây dựng những lực lượng hải quân và các lực lượng thực thi pháp luật mạnh, hỗ trợ các đối tác xây dựng năng lực nhằm tăng khả năng giám sát và bảo vệ lợi ích và trật tự trên biển. (2) Tăng cường năng lực và tính liên thông
trong tác chiến. Để thực hiện điều này, Mỹ sẽ tài trợ và bán các trang thiết bị quốc phòng tiên tiến cho các đối tác an ninh khu vực, tạo cơ hội về đào tạo quân sự chuyên nghiệp (theo tiêu chuẩn Mỹ) cho các sĩ quan và hạ sĩ quan quân đội các nước trong khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. (3) Tăng cường thượng tôn pháp luật, thúc đẩy pháp quyền và quản trị minh bạch. Mỹ cho rằng điều này sẽ giúp hạn chế những tác động xấu có thể ảnh hưởng tới phát triển kinh tế. Sự can dự về quốc phòng của Mỹ sẽ hỗ trợ, bổ sung thêm cho vấn đề này. (4) Thúc đẩy phát triển kinh tế do khu vực tư nhân dẫn dắt. Mỹ công nhận khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương có nhu cầu rất lớn về đầu tư, bao gồm cả kết cấu hạ tầng.
Về các đối tác và các cơ chế khu vực, Mỹ sẽ tiếp tục tham gia sâu rộng vào các thiết chế khu vực hiện hành. Trong số đó, Mỹ sẽ ủng hộ và trợ giúp để ASEAN đóng vai trò trung tâm trong chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Một ASEAN đoàn kết và chung tiếng nói có thể giúp duy trì một khu vực tự do và tôn trọng luật pháp quốc tế. Mỹ sẽ tiếp tục tham gia các cơ chế do ASEAN thành lập, như Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+), Cấp cao Đông Á (EAS), APEC và các cơ chế hợp tác ba bên, nhiều bên với các đối tác khác.
Ở khu vực Đông Bắc Á, Mỹ đang tập trung nâng cấp, hiện đại hóa các quan hệ liên minh giữa Mỹ và Nhật Bản để đối phó với các thách thức trong thế kỷ XXI. Ở Đông Nam Á, Mỹ sẽ khôi phục quan hệ đồng minh với Phi-líp-pin và Thái Lan, thúc đẩy quan hệ đối tác bền vững với Singapore và phát triển quan hệ đối tác mới với các nước chủ chốt ở khu vực, như Indonesia, Malaysia và Việt Nam. Ở châu Đại Dương, Australia vẫn là một trong những đồng minh lâu đời nhất của Mỹ. Mỹ cũng sẽ khôi phục quan hệ đối tác quốc phòng với New Zealand, đồng thời tăng cường can dự, kết nối với các đồng minh có lực lượng đang đồn trú ở khu vực Thái Bình Dương, như Anh, Pháp và Canada để thúc đẩy lợi ích tương đồng. Ở Nam Á, Mỹ đang tăng cường quan hệ đối tác với các nước trong khu vực, nhất là với Ấn Độ. Mỹ coi quan hệ Ấn Độ – Mỹ là mối quan hệ “đối tác tự nhiên” giữa hai nền dân chủ lớn nhất thế giới, dựa trên sự tương đồng về lợi ích chiến lược, các giá trị chung, tôn trọng lẫn nhau và tôn trọng một trật tự quốc tế dựa trên luật lệ. Với Trung Quốc, Mỹ chỉ trích mạnh mẽ việc Trung Quốc quân sự hóa các đảo nhân tạo ở Biển Đông, bao gồm việc triển khai tên lửa đất đối hải, đất đối không, các hệ thống ra-đa gây nhiễu và triển khai máy bay ném bom cỡ lớn…
Như vậy có thể khẳng định, chính quyền Mỹ dưới thời của Tổng thống Donald Trump có những nỗ lực lớn nhằm định hình các mục tiêu, nguyên tắc, nội hàm và định hướng lớn trong Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở. Trong thời gian tới, khi các nội hàm của chiến lược này được triển khai, sẽ có nhiều tác động và hệ lụy đối với cả thế giới và khu vực nói chung, cũng như Việt Nam nói riêng.
Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở của Nhật Bản
Tương tự như Mỹ, ngay từ rất sớm, Chính phủ của Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đã định hình được các mục tiêu, nguyên tắc, nội hàm của chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở. Theo các chuyên gia Nhật Bản, chiến lược này bao gồm ba trụ cột. (1) Phổ biến và định hình các giá trị cơ bản, như thượng tôn pháp luật, tự do, an ninh, an toàn hàng hải – hàng không. Để triển khai trụ cột này, Mỹ và Nhật Bản sẽ tăng cường bảo vệ các quy tắc và chuẩn mực chung về hàng hải. Mỹ và Nhật Bản cũng sẽ tăng cường phối hợp để đưa ra các thông điệp tại các diễn đàn song phương và đa phương ở khu vực; tăng cường liên kết đồng minh và các nước có cùng quan điểm, lập trường. (2) Tăng cường sự phồn vinh kinh tế ở khu vực. Để triển khai trụ cột này, Mỹ và Nhật Bản sẽ tăng cường gắn kết kinh tế với khu vực, như kết nối thương mại, xúc tiến đầu tư và đẩy mạnh hỗ trợ các nước trong khu vực xây dựng kết cấu hạ tầng chất lượng cao, kiến trúc kinh tế khu vực với tiêu chuẩn cao và quản trị minh bạch, hiệu quả; hỗ trợ xây dựng năng lực trong các lĩnh vực, như nguồn nhân lực, môi trường kinh doanh và cải cách thể chế… (3) Bảo đảm hòa bình, ổn định. Để triển khai trụ cột này, Mỹ và Nhật Bản sẽ tăng cường hợp tác giao lưu quốc phòng, mà trọng tâm là hợp tác an ninh biển. Đặc biệt, cả hai nước sẽ đẩy nhanh việc hỗ trợ xây dựng năng lực cho các quốc gia ven biển ở châu Á, chủ yếu là ở xung quanh Biển Đông. Đây là điểm đặc biệt có lợi cho các nước khu vực. Mỹ và Nhật Bản sẽ đồng thời vừa tăng cường hợp tác chia sẻ thông tin, kể cả thông tin tình báo, tăng cường chống khủng bố, cướp biển, vừa giúp nâng cao năng lực cho các nước trong khu vực về cứu trợ thảm họa, viện trợ nhân đạo…
Trong quá trình triển khai, Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương sẽ được thúc đẩy theo nhiều hướng, như song phương (Nhật Bản – Ấn Độ…), ba bên (Mỹ – Nhật Bản – Ấn Độ, Nhật Bản – Ấn Độ – Australia), bốn bên (Nhật Bản – Mỹ – Ấn Độ – Australia) và khu vực (hợp tác với ASEAN, EAS, ADB…).
Nhìn chung, giới chuyên gia cho rằng, ASEAN có vị trí quan trọng trong chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương của Nhật Bản khi xét tới vị trí địa lý và ảnh hưởng của ASEAN đối với trật tự khu vực trong
tương lai. Trong thời gian tới, Nhật Bản sẽ đẩy mạnh can dự đối với ASEAN và Đông Nam Á, chủ yếu tập trung vào các đối tác chủ chốt, như Việt Nam, Philippines, Singapore, Indonesia và trên các lĩnh vực thương mại. ASEAN tiếp tục là đối tác quan trọng của Mỹ và Nhật Bản. Quan hệ Mỹ – ASEAN và Nhật Bản – ASEAN là một phần trong chính sách can dự đa tầng nấc của hai nước này đối với khu vực Ấn – Thái, đồng thời góp phần vào nỗ lực chung nhằm duy trì sự can dự của Mỹ/Nhật Bản ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Những ẩn số đối với Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở
Để chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương đạt được kết quả và dấu ấn, sẽ còn nhiều ẩn số phải giải đáp. Trước hết, cần lưu ý rằng ý tưởng Ấn Độ Dương -Thái Bình Dương dựa trên bốn trụ cột là Mỹ, Nhật, Ấn, Australia và trùm lên đó là tấm màn tầm nhìn về một khu vực tự do, rộng mở. Bốn nước dường như ở những vai tương đối ngang nhau.
Còn tấm màn tầm nhìn đó lại không phải là một cơ chế ràng buộc thiết thực gì trong thời điểm hiện tại, và nó đặc biệt mơ hồ chưa rõ rằng mục đích chính đằng sau là đem lại lợi ích cho khu vực, cho bốn nước nói riêng hay để kiềm tỏa Trung Quốc. Trong thời kỳ hiện đại, nhìn chung các tập hợp lực lượng của phương Tây đều có một cường quốc dẫn dắt, đó là Mỹ. Bối cảnh nội bộ nước này hiện nay liệu có cho phép chính quyền Tổng thống Trump thực hiện những toan tính đối ngoại của mình hay không là một câu hỏi sẽ còn bỏ ngỏ trong thời gian tới.
Bốn nước trụ cột của Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương đều là cường quốc, phân bổ ở 4 vị trí địa lý khá xa nhau. Điều này đồng nghĩa với việc mỗi nước có một đặc điểm tình hình, lợi ích và tầm nhìn khu vực riêng. Việc điều phối, phân vai của nhóm sẽ không đơn giản. Sự khác biệt của nhóm “Bộ tứ” này với NATO, SEATO hay đơn thuần là liên minh Mỹ – Nhật – Hàn đó là khoảng cách địa lý. Muốn phối hợp tốt, ít nhất về mặt quân sự hay đảm bảo an ninh biển sẽ đòi hỏi phải có kinh phí, năng lực quản trị và sự hiểu biết lẫn nhau tương đối sâu sắc. Đây là điều còn thiếu.
Quan trọng hơn nữa, sự hình dung ra một khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương còn mơ hồ và chưa nhận định được vai trò của các nước khác trong khu vực, trong đó bao gồm các nước ASEAN, Hàn Quốc, và cả Pakistan cũng như các nước Châu Phi. Không thể không tính đến vai trò của các nước “ngoài Bộ tứ” này. Họ có thể không tham gia, nhưng nếu một vài nước này không ủng hộ thì sẽ rất khó để tầm nhìn Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương thành hiện thực, bởi lẽ: biển không phải của riêng ai.
Điều đáng lo ngại cũng nằm ở tính khả thi. Tầm nhìn ý tưởng Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương được phác họa đẹp đẽ, nhưng chưa nêu rõ rằng liệu các nước sẽ phải phân bổ nguồn lực kinh tế, chính trị, quân sự như thế nào. Dường như hiện nay mới chỉ nêu nhiều về giá trị, và một vài hướng giải pháp về quân sự, nhưng nội hàm về kinh tế chưa có gì. Việc Mỹ rút khỏi TPP đồng nghĩa với việc quốc gia này rút một chân kinh tế và đẩy mạnh một chân quân sự tại khu vực. Với tình hình thế giới nhìn chung vẫn ưa chuộng hòa bình và hợp tác như hiện nay, thiếu vắng một trụ cột về kinh tế sẽ khiến Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương trở nên kém hấp dẫn, nhất là khi BRI đang được đẩy mạnh.
Ẩn số cuối cùng cần phải nói đến đó là phản ứng và đối sách của Trung Quốc. Hiện nay Trung Quốc vẫn giữ thái độ tương đối kín tiếng về ý tưởng này, trong khi họ tập trung vào củng cố nội bộ và phát triển các ý tưởng và con đường đi ra ngoài của riêng mình. Trong thời gian tới, Trung Quốc sẽ làm gì là một điều còn bỏ ngỏ.
Biển Đông có vị trí địa chiến lược quan trọng trong chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương
Biển Đông là một biển nửa kín, có diện tích khoảng 3,5 triệu km2, trải rộng từ vĩ độ 3° lên đến vĩ độ 26° Bắc và từ kinh độ 100° đến 121° Đông. Biển Đông được bao bọc bởi 9 nước là Việt Nam, Trung Quốc, Philippines, Indonesia, Brunei, Singapore, Thái Lan, Campuchia và Đài Loan. Biển Đông là một trong các khu vực có tầm quan trọng chiến lược đối với các nước trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương nói riêng và các quốc gia khác trên thế giới.
Biển Đông nằm trên tuyến đường giao thông biển huyết mạch nối liền Thái Bình Dương – Ấn Độ Dương, châu Âu – châu Á, Trung Đông – châu Á. Đây được coi là tuyến dường vận tải quốc tế nhộn nhịp thứ hai của thế giới. Mỗi ngày có khoảng từ 150 – 200 tàu các loại qua lại Biển Đông, trong đó có khoảng 50% là làu có trọng tải trên 5.000 tấn, hơn 10% là tàu có trọng tải từ 30.000 tấn trở lên. Thương mại và công nghiệp hàng hải ngày càng gia tăng ở khu vực, nhiều nước và vùng lãnh thổ ở khu vực Đông Á có nền kinh tế phụ thuộc sống còn vào con đường biển này như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore và cả Trung Quốc. Đây là mạch đường thiết yếu vận chuyển dầu và các nguồn tài nguyên thương mại từ Trung cận Đông và Đông Nam Á tới Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc. Hơn 90% lượng vận tải thương mại của thế giới thực hiện bằng dường biển và 45% trong số đó phải đi qua vùng Biển Đông. Lượng dầu lửa và khí hoá lỏng được vận chuyển qua vùng biển này lớn gấp 15 lần lượng chuyên chở
qua kênh đào Panama. Hàng năm có khoảng 70% khối lượng dầu mỏ nhập khẩu và khoảng 45% khối lượng hàng hoá xuất khẩu của Nhật Bản được vận chuyển qua Biển Dông. Khoảng 60% lượng hàng hóa xuất nhập khẩu, 70% lượng dầu mỏ nhập khẩu của Trung Quốc được vận chuyển bằng đường biển qua Biển Đông. Khu vực Biển Đông có những eo biển quan trọng đối với nhiều nước, trong đó eo biển Malacca là eo biển nhộn nhịp thứ hai trên thế giới. Do đó, vùng biển này hết sức quan trọng đối với tất cả các nước trong khu vực về địa – chiến lược, an ninh, giao thông hàng hải và kinh tế.
Không những vậy, Biển Đông còn là nơi chứa đựng nguồn tài nguyên thiên nhiên biển quan trọng cho đời sống và sự phát triển kinh tế của các nước xung quanh, đặc biệt là nguồn tài nguycn sinh vật (thuỷ sản), phi sinh vật (dầu khí, khoáng sản). Biển Đông được coi là một trong năm bồn trũng chứa dầu khí lớn nhất thế giới. Các khu vực thềm lục dịa có tiềm năng dầu khí cao là các bồn trũng Brunei, Sarawak, Malay, Pattani Thái, Nam Côn Sơn, Mê Công, sông Hồng, cửa sông Châu Giang. Các khu vực có tiềm năng dầu khí còn lại chưa khai thác là khu vực thềm lục địa ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và bờ biển miền Trung, khu vực thềm lục địa Tư Chính. Ngoài ra, Biển Đông còn là một vùng biển nước sâu rộng lớn, có nhiều tiền đề thuận lợi cho việc thành tạo và tích tụ băng cháy (còn gọi là khí hydrat).
Khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương, được Mỹ và các đồng minh cổ vũ, bao gồm vùng biển phía Bắc Ấn Độ Dương và toàn bộ vùng biển giữa Thái Bình Dương, kéo dài đến bờ Tây Mỹ, trong đó Biển Đông nằm ở vị trí trung tâm. Đối với chính quyền Tổng thống Donanld Trump, khu vực “dân cư đông đúc nhất và năng động nhất hành tinh về mặt kinh tế” này là nơi cạnh tranh của hai quan điểm đối kháng, một bên cổ vũ cho “tự do”, “dựa trên luật pháp quốc tế”, bên kia chủ trương dùng “vũ lực”. Washington chỉ đích danh Trung Quốc như là bên chủ trương dùng vũ lực để thao túng con đường hàng hải chiến lược, với việc “thúc đẩy quân sự hóa tại Biển Đông”, thách thức chủ quyền của nhiều quốc gia ven bờ.
Các phản ứng ban đầu của Việt Nam đối với Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở
Xét bề ngoài, chiến lược Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở của Mỹ theo định nghĩa của Alex N. Wong phần lớn tương thích với các lợi ích quốc gia của Việt Nam. Là một bên tham gia tranh chấp Biển Đông và dễ bị tổn thương trước quyền lực ngày càng lớn và sự quyết đoán ngày càng tăng của Trung Quốc, Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ một trật tự khu vực dựa trên quy tắc và không tồn tại sự ép buộc. Tương tự như vậy, tự do hàng hải và hàng không cũng là những gì Việt Nam tìm cách thúc đẩy như một lá cờ tập hợp lực lượng để huy động sự ủng hộ của quốc tế đối với cuộc đấu tranh của mình chống lại Trung Quốc ở Biển Đông. Là một nước đang phát triển phụ thuộc nhiều vào thương mại và đầu tư nước ngoài, đồng thời đang tìm cách nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng, các thuộc tính kinh tế khác của chiến lược, như cơ sở hạ tầng mở, đầu tư mở và thương mại mở, cũng phù hợp với chính sách đối ngoại của Việt Nam nói chung. Thuộc tính duy nhất có thể gây ra một số bất an trong giới lãnh đạo Việt Nam là việc nó nhấn mạnh vào quản trị tốt, đặc biệt là sự tôn trọng các quyền cơ bản. Tuy nhiên, do hai nước đã nhiều lần cam kết tôn trọng thể chế chính trị của nhau và Washington ít phê phán hơn đối với hồ sơ nhân quyền của Việt Nam trong những năm gần đây, thuộc tính này không phải là mối quan ngại quá lớn đối với Việt Nam, đặc biệt là nếu xét các lợi ích chiến lược mà các thuộc tính khác của chiến lược có thể mang lại cho đất nước.
Như vậy, người ta có thể mong đợi Việt Nam sẽ ủng hộ chiến lược này. Tuy nhiên, phản ứng của Việt Nam đối với chiến lược cho đến nay vẫn chưa rõ ràng.
Ở cấp độ không chính thức, có rất ít cuộc thảo luận công khai giữa các nhà chiến lược và học giả Việt Nam về chính sách, tác động của nó đối với Việt Nam, cũng như cách Việt Nam nên phản ứng với chính sách này như thế nào. Ở cấp độ chính thức, giới chức Việt Nam chưa đưa ra bất kỳ tuyên bố nào về chiến lược. Vì chiến lược vẫn đang trong giai đoạn hình thành và được nhiều nhà quan sát nhìn nhận như một công cụ để Mỹ “kiềm chế” Trung Quốc, nên Việt Nam không có lợi ích trong việc đưa ra lập trường công khai về chiến lược này. Hơn nữa, các nhà hoạch định chính sách đối ngoại Việt Nam có thể chưa đạt được nhận thức chung về chính sách này.
Giống như hầu hết các nước khác trong khu vực, Việt Nam đang áp dụng thái độ “chờ xem”, và các phản ứng tương lai của Việt Nam đối với chiến lược sẽ phụ thuộc vào các tính toán của Hà Nội cũng như tình hình phát triển thực tế của chiến lược mà hiện tại vẫn chưa rõ ràng. Cách tiếp cận thận trọng của Việt Nam cũng hợp lý bởi thực tế rằng trong khi Mỹ vẫn đang nỗ lực xây dựng một tầm nhìn chiến lược đáng tin cậy và nhất quán đối với khu vực, thì ba thành viên khác của nhóm Bộ Tứ cũng có thể có những tính toán riêng, khiến các nước khác trong khu vực càng có lý do để không vội vàng đưa ra một lập trường chính thức về chiến lược này.
Dự báo tác động của Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở đối với Việt Nam
Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương đang mở ra nhiều cơ hội đối với Việt Nam. Có thể thấy rõ, trong Chiến lược này, Việt Nam có lợi ích to lớn trong hầu hết các vấn đề trên cả ba trụ cột. Quan điểm, lập trường của Việt Nam cũng có nhiều điểm tương đồng với các nội hàm của cả ba trụ cột nêu trên. (1) Đa số các mục tiêu, nguyên tắc, nội hàm của Chiến lược này không mâu thuẫn với các quan điểm, lập trường cũng như lợi ích quốc gia của Việt Nam, nếu không nói là có sự tương đồng đáng kể (ở mức độ cao và phân bổ đều trên cả ba trụ cột). (2) Về phát triển, Việt Nam cũng đang có nhu cầu to lớn về xây dựng kết cấu hạ tầng chất lượng cao, thúc đẩy kết nối kinh tế, thương mại, xúc tiến đầu tư. Việc Mỹ, Nhật Bản và các đối tác sẵn sàng hợp tác, chia sẻ là điều rất đáng quý. (3) Về xây dựng năng lực, Việt Nam mong muốn các đối tác giúp Việt Nam về trang thiết bị, đào tạo, huấn luyện; sẵn sàng phối hợp với các nước để cùng nhau đóng góp tích cực cho hòa bình, ổn định ở khu vực và trên thế giới. (4) Việt Nam luôn mong muốn châu Á – Thái Bình Dương và cả khu vực Ấn Độ Dương là khu vực hòa bình, ổn định, tự do và mở cửa cho tất cả các bên cùng tham gia. Do vậy, đến nay sơ bộ có thể khẳng định khi Mỹ và Nhật Bản triển khai chiến lược này, sẽ có nhiều nhiều cơ hội được mở ra đối với Việt Nam. Tuy nhiên, Chiến lược này cũng đang đặt ra không ít thách thức đối với Việt Nam. Cụ thể là: Thứ nhất, thúc đẩy hợp tác với các nước lớn thường đi kèm với việc tập hợp lực lượng. Cạnh tranh giữa các nước lớn trong khu vực đang gia tăng nhanh chóng, Việt Nam cần hết sức tỉnh táo để tránh phải lựa chọn bên này hay bên kia. Xử lý tốt và cân bằng quan hệ giữa các nước lớn chính là chìa khóa quan trọng nhất để thúc đẩy hợp tác, tranh thủ các cơ hội to lớn do Chiến lược này mang lại. Thứ hai, hiện nay mục tiêu và nguyên tắc của Chiến lược này đã khá rõ, nhưng nội hàm, phương thức triển khai và bước đi cụ thể của mỗi đối tác còn nhiều điểm chưa rõ ràng. Do đó, chiến lược này cần được theo dõi thêm. Thứ ba, vẫn còn không ít sự khác biệt giữa bốn nước chủ chốt (Mỹ, Nhật Bản, Australia và Ấn Độ), trong Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Do vậy, cần xử lý khéo mối quan hệ giữa các nước này.
Triển vọng Việt Nam tham dự vào Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở
Vì Chiến lược trên phần lớn vẫn là một tầm nhìn chứ chưa phải là một kế hoạch cụ thể hoặc một cơ chế được thể chế hóa, việc Mỹ sẽ triển khai chiến lược như thế nào vẫn là một câu hỏi mở đối với các nước trong khu vực. Có khả năng là thay vì thể chế hóa Bộ Tứ hoặc thiết lập một khối an ninh cứng nhắc để thực hiện chiến lược, Washington sẽ tìm cách thiết lập và tăng cường mạng lưới các đồng minh và đối tác an ninh để làm việc cùng nhau nhằm bảo vệ trật tự dựa trên quy tắc và kiềm chế tham vọng thống trị khu vực của Trung Quốc. Trong kịch bản này, liệu chiến lược có thành công hay không sẽ phụ thuộc vào việc các nước trong khu vực sẵn lòng hợp tác với Washington đến đâu để theo đuổi các mục tiêu chung này.
Do tranh chấp Biển Đông và tính dễ bị tổn thương trước một Trung Quốc đang trỗi dậy, Việt Nam có lợi ích trong việc hợp tác với Mỹ và các đối tác an ninh khác để duy trì trật tự khu vực dựa trên quy tắc cũng như thúc đẩy một kiến trúc an ninh khu vực không bị chi phối bởi bất kỳ cường quốc nào. Do đó, Việt Nam có thể ủng hộ Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở, mặc dù không nhất thiết phải làm điều đó một cách công khai. Về mặt ngoại giao, Việt Nam có thể làm việc với các đối tác cùng tư duy để đưa các yếu tố chính của chiến lược FOIP vào các tuyên bố chung song phương hoặc đa phương. Về mặt hoạt động thực tế, Việt Nam có khả năng tiếp tục tăng cường hợp tác chiến lược với các cường quốc, đặc biệt là các thành viên của nhóm Bộ Tứ, nhằm tăng cường an ninh hợp tác trong khu vực và nâng cao vị thế đàm phán của mình trước Trung Quốc.
Tuy nhiên, giống như hầu hết các thành viên ASEAN khác, do các mối quan hệ kinh tế rộng khắp với Trung Quốc, Việt Nam có thể không muốn tham gia một khối chống Trung Quốc cứng nhắc hoặc áp dụng một cách tiếp cận mang tính đối đầu công khai trong việc quản lý sự trỗi dậy của Trung Quốc. Thay vào đó, Việt Nam dường như ưu tiên mạng lưới quan hệ an ninh hiện tại với các cường quốc lớn và các đối tác có cùng tư duy chiến lược, miễn là Trung Quốc không áp dụng một cách tiếp cận mang tính ép buộc quá mức đối với tranh chấp Biển Đông, điều có thể khiến Hà Nội chuyển sang một tư thế chiến lược mang tính quyết đoán và đối đầu hơn.
Đồng thời, mặc dù Việt Nam và các nước trong khu vực có thể đóng một vai trò nhất định trong việc vận hành Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở, việc chiến lược có thành công hay không chủ yếu sẽ do chính Mỹ quyết định. Theo đó, Washington cần thể hiện một tầm nhìn chiến lược nhất quán đối với khu vực dựa trên vai trò lãnh đạo mạnh mẽ và các cam kết lâu dài đáng tin cậy. Mỹ cũng cần làm rõ Washington mong đợi các nước trong khu vực đóng vai trò như thế nào trong chiến
lược, và đưa ra một kế hoạch hành động chi tiết để định hướng cho sự tham gia của các nước quan tâm nếu muốn. Quan trọng hơn, quá trình này nên được tiến hành dựa trên tham vấn giữa Mỹ và các đồng minh và đối tác. Bất kỳ nỗ lực nào của Washington nhằm áp đặt ý chí của mình lên các nước trong khu vực, ngay cả khi nhân danh một trật tự khu vực dựa trên quy tắc mở và tự do, cũng có thể sẽ phản tác dụng.