Tin Biển Đông – 13/12/2018
Hoạt động phi pháp
của TQ ở Biển Đông trong năm 2018
Trong năm 2018, Trung Quốc tiếp tục có nhiều hoạt động phi pháp ở Biển Đông, xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, gây ảnh hưởng, đe dọa lớn đến hòa bình, ổn định và phát triển trong khu vực. Hành động phi pháp của Trung Quốc không chỉ đi ngược lại các tuyên bố, cam kết của mình mà còn bị cộng đồng quốc tế lên án, chỉ trích.
Lãnh đạo Trung Quốc đưa ra các tuyên bố hiếu chiến, mang tính khiêu khích ở Biển Đông
Phát biểu tại hội thảo do Thời báo Hoàn Cầu tổ chức, Đại tá Đới Húc, Viện trưởng Viện nghiên cứu An toàn và Hợp tác Biển của Trung Quốc (8/12) cho rằng “nếu tàu chiến Mỹ cứ tiếp tục đi vào lãnh hải Trung Quốc, thì Trung Quốc nên cử hai tàu chiến đến vùng lãnh hải đó, một chiếc để chặn tàu Mỹ, còn chiếc kia húc vào tàu Mỹ”. Ngoài ra, ông Đới Húc ngang nhiên tuyên bố Trung Quốc không nên sợ xung đột ở Biển Đông, và rằng một số thái độ thách thức trên Biển Đông có thể thúc đẩy Trung Quốc có hành động quân sự nhắm vào Đài Loan. Phát biểu tại Lễ khai mạc Diễn đàn Hương Sơn được tổ chức tại Bắc Kinh, Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Ngụy Phượng Hòa (25/10) thề sẽ không bao giờ từ bỏ một tấc lãnh thổ, dù đó là Đài Loan hay Biển Đông. Tường Ngụy cho biết, mối quan hệ quân sự của Trung Quốc với Mỹ rất quan trọng và nhạy cảm, Đài Loan là lợi ích “cốt lõi” và Bắc Kinh phản đối việc phô trương sức mạnh của “các thế lực bên ngoài” tại Biển Đông. Bộ trưởng Ngụy Phượng Hòa tuyên bố “các đảo ở Biển Đông từ đâu đã là lãnh thổ Trung Quốc. Đây là di sản của tổ tiên chúng tôi và chúng tôi không thể để mất một tấc nào”. Đồng thời, tướng Ngụy cũng khẳng định “Trung Quốc sẽ không bao giờ trở thành mối đe
dọa với các nước khác. Không tính đến mức độ phát triển, chúng tôi sẽ không tìm kiếm sự bá quyền, chúng tôi sẽ không can dự vào bất cứ sự mở rộng quân sự hay chạy đua vũ trang”. Trước đó, trong chuyến thị sát đến Bộ Tư lệnh Quân khu phương Nam Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA), Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình (25/10) đã kêu gọi phát triển Bộ Tư lệnh mạnh mẽ và hiệu quả để tăng cường khả năng chiến thắng trong chiến đấu; thúc giục các binh sĩ nâng cao năng lực chỉ huy, chiến đấu và phối hợp để bảo vệ “chủ quyền lãnh thổ và lợi ích trên biển của quốc gia” (ám chỉ khu vực Biển Đông). Bộ Tư lệnh Quân khu phương Nam là một trong năm Bộ Tư lệnh của PLA, phụ trách 6 tỉnh phía Nam và khu vực Biển Đông. Ông Tập Cận Bình đề nghị các binh sĩ chú ý đến tình hình luôn thay đổi, nâng cao khả năng phân tích và đánh giá sắc bén, cân nhắc và tối ưu hóa các kế hoạch phản ứng cho các tình huống phức tạp khác nhau, tăng cường đào tạo chiến đấu thực tế và cải tiến bộ máy chỉ huy để bảo đảm truyền đạt chỉ đạo hiệu quả, do đó tăng cường khả năng PLA chiến thắng trong chiến tranh hiện đại.
Trung Quốc liên tục “phản đối” các hoạt động đảm bảo tự do hàng hải hợp pháp của các nước ở Biển Đông
Trong năm 2018, Mỹ và các nước đồng minh (Anh, Pháp, Nhật Bản, Australia…) đã nhiều lần cử tàu chiến, máy bay tham gia các hoạt động tuần tra đảm bảo tự do hàng hải, hàng không một cách hợp pháp trong khu vực Biển Đông. Trước các hoạt động trên, Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng Trung Quốc liên tục đưa ra các tuyên bố ngang ngược nhằm chỉ trích, lên án và đe dọa hoạt động hợp pháp của Mỹ và các nước đồng minh, cụ thể như: Người phát ngôn Hoa Xuân Oánh (24/10) bày tỏ quan ngại sâu sắc và kiên quyết phản đối tuyên bố của Đô đốc Anh Philip Jones về việc Anh sẽ thực hiện quyền tự do hàng hải ở Biển Đông, cho rằng tình hình Biển Đông đang được cải thiện và ổn định, cả ASEAN và Trung Quốc đều có ý chí mạnh mẽ về duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông và đang tiến hành các hành động cụ thể để đạt được điều đó, cáo buộc “một số nước” đang cố gắng khuấy lên rắc rối, tạo sóng to, gió lớn ở Biển Đông. Đồng thời, bà Hoa chất vấn ngược lại Anh không phải đại diện cho toàn bộ cộng đồng quốc tế. Trung Quốc ký kết và tuân thủ Công ước Luật Biển 1982 ngay từ những ngày đầu trong khi một trong những đồng minh của Anh còn chưa phê chuẩn, chưa là thành viên chính thức của Công ước. Bà Hoa cho rằng Anh cần sáng suốt nhìn vào những gì đồng minh đó đã làm, thay vì lựa chọn đứng với phe phái đồng minh. Đồng thời, bà Hoa Xuân Oánh khẳng định cái gọi là tự do hàng hải là không tồn tại, bất cứ bước đi nào nhằm ép buộc hay đe dọa người khác chấp nhận lời diễn giải đơn nhất về luật pháp quốc tế dưới danh nghĩa tự do hàng hải là hành động vi phạm luật pháp quốc tế. Liên quan hoạt động hợp pháp của Mỹ ở Biển Đông, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Lục Khảng (16/10) khẳng định Trung Quốc có “chủ quyền” đối với các đảo và vùng nước phụ cận ở Biển Đông, đồng thời tiếp tục biện minh rằng các hoạt động xây dựng hòa bình của Trung Quốc trên các cấu trúc này, kể cả việc vận hành các thiết bị quốc phòng thiết yếu, là việc thực hiện quyền tự chủ, tự vệ, không có gì gọi là “quân sự hóa” ở đây. Ông Lục Khảng cho rằng chính các hoạt động tự do hàng hải của Mỹ mới là nguyên nhân tạo ra căng thẳng và “quân sự hóa”. Không chỉ dừng lại ở đó, Lục Khảng còn đổ lỗi ngược lại cho Mỹ có hành động quấy rối liều lĩnh khi tàu chiến Mỹ vượt qua cả chặng đường dài để đến gây rối ngay trước cửa nhà của Trung Quốc. Trước đó, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng (27/9) tuyên bố Trung Quốc tôn trọng và đề cao quyền tự do hàng hải và hàng không của tất cả các quốc gia theo luật quốc tế, nhưng kiên quyết “phản đối” các nước liên quan làm phương hại đến chủ quyền và an ninh các nước ven biển, phá vỡ hòa bình và ổn định khu vực dưới danh nghĩa tự do hàng hải và hàng không. Cùng ngày, Người phát Bộ Quốc phòng Trung Quốc Nhậm Quốc Cường cũng lên tiếng, chỉ trích việc Mỹ đưa máy bay chiến đấu qua Biển Đông là hành động “khiêu khích”; Trung Quốc kiên quyết phản đối những hành động này và sẽ tiến hành các biện pháp cần thiết để đáp trả. Ông Nhậm Quốc Cường cũng chỉ trích các nước ngoài khu vực như Anh, Pháp đã nhắm mắt làm ngơ trước sự ổn định tại Biển Đông, thay vào đó cố tìm cách thổi phồng ý tưởng sai lầm về tự do hàng hải, hàng không và gây ra rắc rối. Trung Quốc kịch liệt phản đối các hành động gây hấn do các nước ngoài khu vực tiến hành dưới danh nghĩa tự do hàng hải, hàng không; phản đối sự hiện diện của các nước này tại Biển Đông. Người phát ngôn Bộ Quốc phòng Trung Quốc cũng chỉ trích các hành động quân sự của Nhậtản, cho rằng những hành động này khiến cho các nước láng giềng châu Á của Nhật Bản cũng như cộng đồng quốc tế lo ngại sâu sắc. Trung Quốc hy vọng Nhật Bản đóng góp cho hòa bình, ổn định ở Biển Đông và cẩn trọng hơn với những lời nói và hành động về vấn đề Biển Đông.
Trung Quốc liên tục triển khai phi pháp vũ khí tấn công và phương tiện quân sự tới quần đảo Trường Sa của Việt Nam
Tờ Minh Báo của Hong Kong (4/9) dựa vào các hình ảnh vệ tinh chụp được cho biết Trung Quốc đã điều tàu hộ vệ trang bị tên lửa hành trình Type 054 ra Đá Chữ Thập ở Trường Sa. Type 054 có chiều dài 134,1 m; chiều rộng 16 m; lượng giãn nước đầy tải 4.053 tấn; tàu sử dụng động cơ diesel, tốc độ tối đa 27 hải lý/h, tầm hoạt động ước đạt 14.862 km; trang bị 6 ngư lôi hạng nhẹ cỡ 324 mm Yu-7, tên lửa Yu-8, 32 ống phóng thẳng đứng của đạn HHQ-16 và pháo H/PJ-26 cỡ 76,2 mm.
Tân Hoa Xã (28/7) đưa tin, Trung Quốc lần đầu tiên đưa tàu tìm kiếm cứu nạn “Nam Hải cứu 115”, có bãi đáp cho trực thăng cứu hộ cỡ trung tới neo đậu thường trú tại Đá Xu Bi, một trong 7 thực thể thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam nhưng bị Trung Quốc chiếm đóng và bồi đắp thành đảo nhân tạo phi pháp.
Đài truyền hình CNBC của Mỹ (2/5) vừa công bố Trung Quốc triển khai (bất hợp pháp) tên lửa tên lửa hành trình chống hạm YJ-12B và các tên lửa đất đối không tầm xa HQ-9A hoặc HQ-9B trên 3 thực thể địa lý đã bị Trung Quốc bồi lấp trái phép thành đảo nhân tạo gồm đá Vành Khăn, đá Xu Bi và đá Chữ Thập. Theo CNBC, tên lửa YJ-12B đặt trên đất liền cho phép Trung Quốc tấn công các tàu nổi trên mặt biển trong phạm vi 295 hải lý (545km), trong khi tên lửa HQ-9B có khả năng nhằm vào máy bay, máy bay không người lái và tên lửa hành trình với tầm bắn được cho là khoảng 160 hải lý (300km).
Nhật báo Quân giải phóng Trung Quốc cho biết, Trung Quốc (23/4) đã khánh thành “Đài tưởng niệm” xây dựng phi pháp trên đá Chữ Thập nhằm thể hiện quyết tâm quyết tâm của Bắc Kinh” trong việc bảo vệ cái mà họ gọi là “lãnh thổ và quyền hàng hải” ở Biển Đông.
Đài truyền hình CNBC của Mỹ (5/7) cho biết Trung Quốc đã âm thầm kích hoạt và thử nghiệm các thiết bị tác chiến điện tử được lắp đặt trên các đá Vành Khăn, Chữ Thập. Trước đó, Wall Street Journal (9/4) dẫn nguồn tin từ quân đội Mỹ cho biết Trung Quốc đã lắp đặt các thiết bị gây nhiễu thông tin và radar trên các đá Vành Khăn, Chữ Thập. Không những vậy, dựa trên hình ảnh chụp từ vệ tinh, các chuyên gia của Tổ chức Sáng kiến Minh bạch Hàng hải châu Á (AMTI), Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) cho rằng Trung Quốc cũng đã lắp đặt các thiết bị liên lạc và ăng ten cảm biến tại góc phía Đông Bắc đá Chữ Thập.
Viện Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) phân tích ảnh chụp vệ tinh (24/8) cho biết có khả năng Trung Quốc lần đầu tiên đã điều máy bay vận tải quân sự Shaanxi Y-8 tới đá Xu Bi. Trước đó, tờ Daily Inquirer cho biết Trung Quốc cũng đã điều hai máy bay vận tải quân sự Y-7 tới đá Vành Khăn.
Trung Quốc tiếp tục triển khai các hoạt động phi pháp ở quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam
Tổ chức Sáng kiến Minh bạch hàng hải châu Á (AMTI) thuộc Trung tâm Nghiên cứu quốc tế và chiến lược có trụ sở ở Washington (10/2018) trích dẫn ảnh chụp vệ tinh cho biết, Trung Quốc mới xây dựng phi pháp thêm một kết cấu mới trên đá Bông Bay, thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Theo AMTI, Đá Bông Bay rất gần với hải trình thông thường của tàu bè nối từ quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa kéo xuống phía Nam và là một địa điểm thuận lợi để lắp đặt các cảm biến, mở rộng hoạt động thu thập thông tin tình báo của Trung Quốc. Trước đó, hãng tin Reuters cũng trích dẫn các hình ảnh vệ tinh cho thấy Trung Quốc tiếp tục xây dựng phi pháp các cơ sở trên Đảo Bắc và Đảo Cây thuộc quần đảo Hòang Sa.
Công ty vệ tinh quốc tế ImageSat (ISI- 16/6) đã công bố một phân tích mới cho thấy một loạt các hệ thống tên lửa của Trung Quốc đã xuất hiện trở lại trên Đảo Phú Lâm nằm ở quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam, chỉ vài ngày sau khi ISI công bố các hình ảnh vệ tinh thể hiện rằng Trung Quốc dường như đã di dời các hệ thống này. CNN cho biết, vào thời điểm các hình ảnh vệ tinh ban đầu được công bố, các chuyên gia không khỏi hoài nghi rằng các bệ phóng đã được dỡ bỏ “vĩnh viễn”, thay vào đó chỉ dự đoán rằng các vệ tinh này được đưa đi để “bảo dưỡng”. Trước đó, CNN (6/6) cho biết, Trung Quốc đã triển khai phi pháp hệ thống tên lửa HQ-9 tại đảo Phú Lâm, thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
Không quân Trung Quốc (18/5) tuyên bố lần đầu tiên đã đưa máy bay ném bom, kể cả Tây An H-6K tới ở đảo Phú Lâm. Đây là lần đầu tiên Trung Quốc đưa máy bay ném bom chiến lược ra khu vực đang trong tranh chấp. Bán kính chiến đấu của H-6 là 1.000 hải lý, gần như bao phủ toàn bộ lãnh thổ Philippines. Còn máy may H-6K được nâng cấp có thể đạt bán kính chiến đấu gần 1.900 hải lý, đưa toàn bộ khu vực Đông Nam Á vào tầm hoạt động. Hãng tin CNBC nhận định đây là một động thái nhiều khả năng sẽ làm gia tăng hơn nữa nhữg lo ngại về các yêu sách thái quá của Trung Quốc ở Biển Đông. Trong khi đó, nhóm Sáng kiến Minh bạch Hàng hải Châu Á (AMTI) thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và quốc tế (CSIS) của Mỹ thông qua tìm hiểu mạng xã hội của Trung Quốc đã phát hiện được vị trí của cuộc diễn tập là tại Đảo Phú Lâm.
Hãng Tân Hoa xã của Trung Quốc (2/2) cho biết hải quân và các công ty truyền thông của Trung Quốc đang triển khai nâng cấp hệ thống thông tin liên lạc trên các cấu trúc chiếm đóng trên Biển Đông, thông qua việc đưa dịch vụ 4G+ tới khu vực. Cụ thể, Hải quân Trung Quốc đã ký một thoả thuận với ba công ty viễn thông lớn nhất của Trung Quốc nhằm “nâng cấp toàn diện” hệ thống liên lạc dân sự trên các cấu trúc ở Hoàng Sa. Tân Hoa xã ngang nhiên biện minh cho rằng “ngoài việc cải thiện đời sống dân sự và quân sự trên các đảo, đá, việc nâng cấp (hệ thống liên lạc) cũng được cho là sẽ hỗ trợ cho các ngư trường, ứng phó khẩn cấp, tìm kiếm cứu nạn trên biển, và cứu trợ nhân đạo ở các vùng biển gần”.
Trung Quốc liên tục tổ chức các cuộc tập trận phi pháp ở Biển
Từ ngày 02/2 đến ngày 26/2, Biên đội Huấn luyện thuộc Hạm đội Nam Hải của Trung Quốc đã tiến hành tập trận tại các khu vực Biển Đông, Ấn Độ Dương, Tây Thái Bình Dương với các tình huống giả định về phòng không, bảo vệ hàng hải và tác chiến trên biển. Cùng thời gian này, Trung Quốc (22/2) đã triển khai 04 tàu hải cảnh và 02 tàu cá dân binh tại bãi cạn Scarborough và 01 tàu hộ vệ tên lửa để theo dõi, giám sát hoạt động của Tàu sân bay Carl Vinson của Mỹ khi đang trên đường tới thăm hữu nghị Việt Nam và Philippines.
Theo tờ Đông Phương, Trung Quốc (23/3) đã triển khai 02 tàu hộ vệ tên lửa là “Lục Bàn Thủy” (514) và “Hoàng Sơn” (570) ra Biển Đông để ngăn cản tàu khu trục Mustin của Mỹ đang tuần tra tự do hàng hải trong phạm vi 12 hải lý của đá Vành Khăn, thuộc quần đảo Trường Sa. Cùng với đó, Bộ Quốc phòng Trung Quốc đã ra tuyên bố phản đối việc “Mỹ gây tổn hại an ninh, chủ quyền của Trung Quốc và đe dọa hòa bình, ổn định khu vực”.
Ngày 25/3, Trung Quốc tiếp tục tổ chức tập trận ở Biển Đông và Tây Thái Bình Dương. Trong đó, phía truyền thông Trung Quốc cho biết cuộc tập trận này nhằm nâng cao khả năng kiểm soát thực địa các vùng biển tranh chấp, trong đó đã huy động cả các máy bay ném bom H-6K, máy bay chiến đấu Su-30 và Su-35.
Từ ngày 24/3 đến ngày 05/4, Trung Quốc tổ chức tập trận trong khu vực Vịnh Bắc Bộ, cách đảo Vi Châu 24 hải lý về phía Đông Bắc và 11 hải lý về phía Đông Nam. Trong đó, ngày 26/3, tàu sân bay Liêu Ninh và khoảng 40 tàu chiến, tàu ngầm và máy bay chiến đấu của Trung Quốc đã đi vào khu vực phía Nam đảo Hải Nam để tiến hành tập trận. Tại buổi họp báo hôm 29/3, Người phát ngôn Bộ Quốc phòng Trung Quốc Nhậm Quốc Cường đã xác nhận Trung Quốc đang tiến hành cuộc tập trận theo kế hoạch hàng năm nhằm kiểm tra năng lực tác chiến của quân đội nước này, song từ chối bình luận về các thông tin liên quan sự tham gia của biên đội tàu sân bay Liêu Ninh.
Thời báo Hoàn cầu của Trung Quốc (01/4) đưa tin không quân Trung Quốc (27/3) đã điều 12 máy bay ném bom H-6K xuất phát từ tỉnh Thiểm Tây đến “một địa điểm ở Biển Đông” để tiến hành huấn luyện và diễn tập chiến đấu tầm xa.
Ngày 03/4, Cục Hải sự tỉnh Hải Nam Trung Quốc thông báo cấm các hoạt động hàng hải tại khu vực rộng khoảng 27 km2gần cảng Á Long, Tam Á từ ngày 04/4 đến ngày 12/4 để tiến hành tập trận bắn đạn thật kéo dài 07 ngày tại khu vực phía Đông Nam đảo Hải Nam, với sự tham gia của tàu sân bay Liêu Ninh và 48 tàu chiến các loại, 76 máy bay chiến đấu và hơn 10.000 binh sỹ và nhiều tàu ngầm thuộc hạm đội Bắc Hải, Đông Hải và Nam Hải. Đây là cuộc tập trận lớn nhất từ trước tới nay của Trung Quốc, trong đó Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình (12/4) đã trực tiếp thị sát cuộc tập trận này. Dư luận cho rằng các cuộc tập trận của Trung Quốc nhằm phô trương sức mạnh và thể hiện quyết tâm bảo vệ “chủ quyền” của Trung Quốc ở Biển Đông, đồng thời đáp trả sự hiện diện ngày càng tăng của Mỹ và các nước ở Biển Đông, cũng như việc Mỹ tăng cường hợp tác quân sự với các nước tranh chấp khác ở Biển Đông như Philippines, Việt Nam. Cùng thời gian nay, Hải quân Trung Quốc cũng thông báo tiến hành tập trận trong khu vực rộng khoảng 950 km2 tại cảng Quỳnh Hải, phía Đông đảo Hải Nam.
Ngày 10/4, Cục Hải sự Trung Quốc thông báo Hải quân nước này tiến hành tập trận ở 7 điểm khác nhau trên Biển Đông, tại khu vực rộng khoảng 8.500 km2 phía Nam đảo Hải Nam từ ngày 11/4-13/4, trong đó đã triển khai khoảng 60 tàu cá dân binh và 10 tàu chấp pháp để bảo vệ vòng ngoài cho các cuộc tập trận này.
Cục Hải sự Trung Quốc (13/4) thông báo quân đội nước này tập trận bắn đạn thật tại eo biển Đài Loan từ 8h00-24h00 ngày 18/4. Ngoài ra, Trung Quốc tiếp tục nâng cấp cơ sở hạ tầng và triển khai một số hoạt động trên thực địa như xây dựng cơ sở thử nghiệm tàu không người lái quy mô lớn, hoàn hành lắp đặt trung tâm thông tin liên lạc trên đá Chữ Thập ở quần đảo Trường Sa.
Từ ngày 9/5 đến 12/5, Trung Quốc tiếp tục tiến hành các cuộc diễn tập bắn đạn thật ở quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Cùng thời gian này, Đài Loan cũng tiến hành tập trận
bắn đạn thật ở đảo Ba Bình thuộc quần đảo Trường Sa cuộc Việt Nam từ ngày 23/5 đến ngày 25/5.
Truyền thông Trung Quốc (15/6) cho biết, Trung Quốc đã điều máy bay không người lái tham gia tập trận tên lửa mô phỏng việc chống lại cuộc tấn công trên không ở Biển Đông.
Trung Quốc tiếp tục cấm đánh bắt cá trên Biển Đông
Bộ Nông nghiệp Trung Quốc (23/4) đơn phương ra thông báo ngừng đánh cá từ 12h ngày 1/5 đến 12h ngày 16/8 trên Biển Đông. Vùng biển từ 12 độ vĩ Bắc đến đường giao giới vùng biển Phúc Kiến – Quảng Đông, kể cả vịnh Bắc Bộ và vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam. Dù biết vi phạm luật pháp quốc tế, Trung Quốc cố tình đưa ra lệnh cấm đánh cá nhằm phục vụ âm mưu riêng: Thứ nhất, để thực hiện tham vọng độc chiếm Biển Đông, Trung Quốc áp dụng và phối hợp đồng bộ nhiều biện pháp để “giành lấy sự công nhận trên thực tế” yêu sách chủ quyền phi pháp trên Biển Đông. Trung Quốc muốn thông qua việc cố tình giải thích và áp dụng sai các quy định của Luật pháp và Thực tiễn quốc tế, đặc biệt là UNCLOS để tìm cách hợp thức hóa yêu sách “đường lưỡi bò” ở Biển Đông. Thứ hai, thông qua việc đưa ra quy định cấm đánh bắt cá hàng năm, Trung Quốc muốn phản biện lại phán quyết của Tòa Trọng tài (7/2016) bằng cách chứng minh “Trung Quốc là nước đang kiểm soát hiện hữu, lâu dài ở Biển Đông” và các thực thể địa lý (bị Tòa tuyên bố không phải đảo) đó hoàn toàn “thích hợp cho con người ở và có đời sống kinh tế riêng”. Thứ ba, Trung Quốc muốn thông qua lệnh cấm đánh bắ cá mặc cả, răn đe, hăm dọa, mua chuộc các quốc gia, các công ty, các cá nhân đang thực hiện các dự án đầu tư khai thác tài nguyên trong phạm vi hoàn toàn nằm trong các vùng biển hợp pháp của các quốc gia ven Biển Đông.
Thành lập Trung tâm nghiên cứu Hải dương mới
Trang mạng Nhân dân Trung Quốc (11/9) cho biết, Trung Quốc đã thành lập Trung tâm Nghiên cứu Hải dương số 4 thuộc Bộ Tài nguyên thiên nhiên Trung Quốc. Trung tâm trên có trụ sở ở thành phố Bắc Hải, thuộc Khu tự trị Quảng Tây. Theo Bộ Tài nguyên thiên nhiên Trung Quốc, đây là Trung tâm nghiên cứu khoa học tổng hợp về biển cấp quốc gia đầu tiên được thành lập tại Quảng Tây. Việc này có ý nghĩa quan trọng trong việc mở rộng giao lưu hợp tác biển giữa Trung Quốc và ASEAN; góp phần thúc đẩy xây dựng sinh thái Vịnh Bắc Bộ; đẩy mạnh “bảo vệ quyền và lợi ích biển của Trung Quốc ở Biển Đông”; thúc đẩy phát triển kinh tế biển bền vững, chất lượng cao và góp phần xây dựng “Vành đai và con đường”. Ông Lý Vĩnh Kiệt, Trưởng cơ quan quy hoạch Bộ Tài nguyên thiên nhiên Trung Quốc cho biết việc thành lập Trung tâm trên sẽ nâng cao sức mạnh khoa học biển của Quảng Tây, với phương châm “vừa xây dựng, vừa triển khai công việc”, nhiều lĩnh vực nghiên cứu khoa học đã được thúc đẩy và đạt tiến triển tốt. Trong khi đó, Phó Chủ tịch tỉnh Quảng Tây Nghiêm Trực Thuyền tuyên bố Quảng Tây sẽ tiếp tục ủng hộ mạnh mẽ việc xây dựng và phát triển Trung tâm Nghiên cứu Hải dương số 4, đẩy nhanh xây dựng địa phương mạnh về biển dựa trên ưu thế mới về khoa học công nghệ.
Trung Quốc tìm mọi các biện minh cho những hoạt động phi pháp, quân sự hóa ở Hoàng Sa và Trường Sa:
Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng và Bộ Giao thông vận tải Trung Quốc liên tục đưa ra các tuyên bố bao biện cho những hành vi phi pháp của Bắc Kinh trên Biển Đông; đồng thời tìm cách chỉ trích “các nước liên quan can thiêp công việc nội bộ của Trung Quốc”. Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng cương quyết nhấn mạnh “các công trình xây dựng của Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa là nhằm “cải thiện điều kiện sống của nhân viên đóng tại đó và giải quyết các nguy cơ đe dọa đối với an ninh hàng hải; việc tăng cường xây dựng dân sự là nhằm cung cấp thêm các dịch vụ công và dân sự cho khu vực này”; đồng thời cho biết Trung Quốc triển khai vũ khí ở Trường Sa “không nhằm vào ai” và đây chỉ là triển khai các phương tiện “phòng thủ lãnh thổ cần thiết”, nhằm thực hiện “nhiệm vụ dự phòng”, để đối phó với những tình huống đột xuất như tìm kiếm cứu nạn, cấp cứu, cứu hộ khẩn cấp, chữa cháy trên biển, làm sạch dầu tràn. Trong khi đó, Giám đốc Cục tìm kiếm và cứu nạn thuộc Bộ Giao thông vận tải Trung Quốc Vương Trịnh Lương ngang nhiên tuyên bố “Trung Quốc sẽ tiến hành củng cố các hoạt động tìm kiếm, cứu nạn ở Trường Sa và các khu vực xung quanh”; khẳng định rằng “Trung Quốc sẽ tiếp tục triển khai các máy bay trực thăng và chế tạo các tàu cứu hộ lớn tới khu vực này”. Trong khi đó, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc xác nhận nước này đã đưa các hệ thống tên lửa tới quần đảo Trường Sa, nhưng khẳng định “việc triển khai này không nhằm vào ai”. Trong khi đó, Bộ Quốc phòng Trung Quốc ngang nhiên tuyên bố rằng họ có “quyền gửi quân đội và vũ khí tới bất cứ khu vực nào thuộc lãnh thổ của họ và bất cứ động thái chỉ trích nào cũng có thể coi là can thiệp vào tình hình nội bộ của Bắc Kinh”.Việc Trung Quốc triển khai các hoạt động quân sự hóa ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là vi phạm nghiêm trọng các quy định luật pháp quốc tế.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam liên tục đưa ra các tuyên bố khẳng định Việt Nam có đầy đủ căn cứ pháp lý cũng như bằng chứng lịch sử cho thấy chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; tuyên bố mọi hoạt động quân sự hóa của Trung Quốc, bao gồm cả việc bố trí tên lửa phi pháp trên quần đảo Trường Sa của Việt Nam là vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam, đi ngược lại Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc, tinh thần Tuyên bố về cách Ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC); gây phức tạp tình hình và không có lợi cho việc duy trì môi trường hòa bình, ổn định và hợp tác ở Biển Đông. Việt Nam đề nghị phía Trung Quốc chấm dứt ngay các hoạt động nói trên, tôn trọng chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, không có hoạt động gia tăng căng thẳng, làm phức tạp tình hình ở khu vực.
Hội Nghề cá Việt Nam cũng nhiều lần có công văn gửi các Bộ, ngành liên quan phản đối hành động đơn phương này từ phía Trung Quốc. Theo Hội Nghề cá Việt Nam, hành động đơn phương han hành Quy chế cấm đánh bắt cá của Trung Quốc trên Biển Đông gây cản trở sản xuất trên biển của ngư dân, xâm phạm chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và vùng biển vịnh Bắc bộ, vi phạm các quyền và lợi ích pháp lý của Việt Nam, vi phạm luật pháp quốc tế, đi ngược lại DOC; không phù hợp với xu thế phát triển của quan hệ hai nước trong bối cảnh hiện nay, không có lợi cho duy trì hòa bình và ổn định ở khu vực; nhấn mạnh Hội Nghề cá Việt Nam kịch liệt phản đối hành động đơn phương và không có giá trị pháp lý của phía Trung Quốc. Quyết định trên của phía Trung Quốc là vô giá trị
Hoạt động phi pháp của Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa của Việt Nam là vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế và Tuyên bố về ứng xử các bên ở Biển Đông (DOC) được ký kết bởi Trung Quốc và các nước ASEAN. DOC cũng nêu rõ các bên ký kết sẽ tôn trọng quyền tự do hàng hải, hàng không; tự chế trong việc thi hành các hoạt động có thể gây phức tạp hoặc leo thang tranh chấp, ảnh hưởng tới hòa bình và ổn định; tăng cường những nỗ lực xây dựng lòng tin và sự tín nhiệm lẫn nhau. Như vậy, hành động trang bị tên lửa chống hạm và phòng không của Trung Quốc đã đe dọa tự do hàng hải, hàng không, gây phức tạp và leo thang tranh chấp, ảnh hưởng tới hòa bình và ổn định tại Biển Đông, làm suy giảm lòng tin giữa các thành viên DOC.
http://biendong.net/dam-luan/25271-hoat-dong-phi-phap-cua-tq-o-bien-dong-trong-nam-2018.html
Chủ trương, chính sách và hoạt động
của các nước đồng minh của Mỹ
ở Biển Đông trong năm 2018
Trong năm 2018, các nước đồng minh của Mỹ, nhất là Australia, Nhật Bản, Anh… đã thông qua nhiều hình thức, biện pháp để tăng cường hiện diện tại Biển Đông nhằm đảm bảo hoạt động tự do hàng hải, hàng không và hòa bình, ổn định ở khu vực. Việc các nước trên thúc đẩy chính sách, hoạt động trong kh vực đã tạo nên hiệu ứng, góp phần duy trì ổn định ở Biển Đông.
Australia tiếp tục đóng vai trò quan trọng ở Biển Đông
Trong năm 2018, Australia tiếp tục tăng cường hiện diện ở Biển Đông, đưa ra nhiều tuyên bố chỉ trích hoạt động phi pháp của Trung Quốc trong khu vực, đồng thời thúc đẩy hợp tác, giao lưu với các nước liên quan nhằm đảm bảo hòa bình, ổn định ở Biển Đông, cụ thể: (1) Australia (24/10) đang triển khai thêm nhiều tàu chiến đến Biển Đông và hoạt động tại các căn cứ quân sự trên khắp Thái Bình Dương trong bối cảnh Australia đang gồng mình trước việc Bắc Kinh gia tăng sức mạnh ở khu vực. Theo các số liệu được một Ủy ban trong Thượng viện Australia công bố, Hải quân Australia đã chậm rãi tăng cường sự hiện diện tại Biển Đông trong vòng 5 năm qua. Tại buổi điều trần trước Thượng viện Australia, Chỉ huy Lực lượng Quốc phòng Angus Campbell cho biết, việc con số tăng lên không chỉ phản ánh thực tế Australia đang hiện diện nhiều hơn ở khu vực mà còn cho thấy nước này “tham gia nhiều hơn với các đối tác trong khu vực tại một vùng biển trung chuyển đến 1/3 lượng vận tải thế giới và là tuyến đường tự nhiên giữa Australia và các đối tác thương mại lớn”. (2) Phát biểu bên lề Hội nghị của Viện các vấn đề quốc tế Australia tại Canberra, Ngoại trưởng Australia Marise Payne (15/10) đã thể hiện lập trường thận trọng một cách rõ ràng về việc tiến hành các cuộc tuần tra trên biển ở Biển Đông sau khi Cố vấn an ninh quốc gia Mỹ John Bolton tuyên bố Mỹ và các đồng minh sẽ hành động nhiều hơn ở vùng biển tranh chấp này.
(3) Bộ trưởng Ngoại giao, Bộ trưởng Quốc phòng của Nhật Bản và Australia (10/10) đã thảo luận về khả năng hợp tác quân sự và an ninh trong khuôn khổ chiến lược của Tokyo về “Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và mở”. Bộ trưởng Ngoại giao Nhật Bản Taro Kono cho biết, có thể Nhật Bản sẽ tham gia tuần tra trên biển cùng với Australia tại Biển Đông. (4) Bộ trưởng Quốc phòng Australia Christopher Pyne (3/10) đã bày tỏ lo ngại về những “thủ thuật hung hăng” của Trung Quốc ở Biển Đông sau khi tàu khu trục Lan Châu của Trung Quốc (30/9) áp sát tàu chiến của Mỹ. Ông Pyne cho biết Chính phủ Australia sẽ coi bất cứ việc sử dụng hành động đe dọa nào trong khu vực đều là “bất ổn và tiềm ẩn nguy hiểm”, khẳng định “Australia đã nhiều lần thể hiện lo ngại về việc quân sự hóa Biển Đông đang diễn ra và chúng tôi sẽ tiếp tục thúc giục các bên tranh chấp kiềm chế không tiến hành các hoạt động đơn phương có thể làm gia tăng căng thẳng ở khu vực”. (5) Thủ tướng Australia Morrison (3/10) cho biết Australia sẽ đóng vai trò là “cái đầu lạnh” khi căng thẳng gia tăng ở Biển Đông giữa một bên là Mỹ – đồng minh an ninh, và Trung Quốc – đối tác thương mại lớn nhất của Australia. Trước đó, Thủ tướng Australia Malcolm Turnbull (25/2) khẳng định sẽ tiếp tục cho phép Hải quân Australia tham gia vào các hoạt động tự do hàng hải của Mỹ ở Biển Đông sau khi có sự ủng hộ của Tổng thống Mỹ Donald Trump. Trong khi đó, Thứ trưởng Ngoại giao và Thương mại Australia Frances Adamson cho biết an ninh hàng hải, bao gồm cả tự do hàng hải, là “cần thiết để bảo đảm cho các tuyến đường thương mại mà Australia phụ thuộc vào”. Theo bà Adamson, cạnh tranh Trung – Mỹ là không thể tránh khỏi, nhưng Australia cũng thấy có cơ hội để hợp tác, bởi “quan hệ giữa Trung Quốc và Mỹ đóng vai trò quan trọng nhất trong tương lai, và tình hình quan hệ đó sẽ tạo ra bức tranh chiến lược khu vực”. (6) 3 quân chủng hải, lục, không quân của Australia (2-19/10) đã tham gia vào cuộc tập trận an ninh quốc tế kéo dài hai tuần ở Biển Đông. Cụ thể, quân đội các nước Australia, Singapore, Malaysia, New Zealand và Anh sẽ tham gia cuộc tập trận Bersama Lima 18 từ ngày. Tư lệnh quân đội Australia, Đội trưởng Nicholas Pratt, cho biết cuộc tập trận Bersama Lima bao gồm các nội dung huấn luyện thực địa, bắn đạn thật cũng như luyện tập chỉ huy để kiểm tra khả năng hoạt động của các lực lượng hải quân, lục quân và không quân Australia. Cuộc tập trận này cũng sẽ tăng cường hiểu biết của các quốc gia đối tác về chiến thuật và quy trình triển khai hoạt động, chứng minh giá trị vô giá trong việc xây dựng khả năng tương tác giữa quân đội các nước trong khu vực và các tình huống huấn luyện thực tế liên quan. (7) Tại Đối thoại Chiến lược Ba bên tại Singapore, Ngoại trưởng Australia, Mỹ và Nhật Bản (4/8) đã bày tỏ quan ngại về những diễn biến trên Biển Đông, trong đó có vấn đề sử dụng các hệ thống vũ khí hiện đại trên các khu vực tranh chấp. Tuyên bố chung được đưa ra sau Hội nghị nêu rõ: “Các Bộ trưởng đã lên tiếng phản đối mạnh mẽ các hành động đơn phương áp đặt, làm biến đổi nguyên trạng và gây gia tăng căng thẳng”. Tuy nhiên, bên cạnh đó, Ngoại trưởng Australia Julie Bishop, Ngoại trưởng Nhật Bản Taro Kono và Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo đã ghi nhận những tiến triển về Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC), cho rằng COC cần phù hợp với luật pháp quốc tế và các bên cần đẩy mạnh cam kết về chấm dứt các hành động làm leo thang tranh chấp. Trước đó, tại Đối thoại Shangri-La 2018, Australia, Mỹ và Nhật Bản (2/6) đã nhất trí rằng cộng đồng quốc tế cần hợp tác nhằm đối phó với mọi nỗ lực đơn phương nhằm phá vỡ nguyên trạng trên Biển Đông, mà rõ ràng nhắm đến các hoạt động bành trướng của Trung Quốc ở khu vực. Các quan chức cũng nhất trí triển khai một chương trình hành động chiến lược về an ninh biển áp dụng cho cả ba nước. (8) Người phát ngôn Bộ Quốc phòng Australia Richard Marles (24/7) cho biết Đảng Lao động ủng hộ quyền của tất cả các quốc gia thực hiện tự do hàng hải (FONOP) phù hợp với luật pháp quốc tế, và sẽ cân nhắc việc phối hợp với các nước khác.
Nhật Bản tiếp tục triển khai nhiều hoạt động ở Biển Đông
Trong năm 2018, ngoài việc tăng cường hiện diện, tuần tra ở Biển Đông, Nhật Bản cũng tích cực thúc đẩy hợp tác song phương, đa phương với các nước liên quan nhằm đảm bảo tự do hàng hải, hàng không ở Biển Đông. (1) Bộ Quốc phòng Nhật Bản (8-10/2018) đã đưa ba tàu khu trục (có tàu sân bay trực thăng Kaga) tới Biển Đông và Ấn Độ Dương. Trước đó, Tàu sân bay trực thăng Kaga của Nhật Bản (27/9) đã tham gia tập trận hải quân với tàu HMS Argyll của Anh tại Ấn Độ Dương khi chiếc tàu khu trục này đang tiến về phía Biển Đông và Đông Á. Theo ông Kenji Sakaguchi, Tư lệnh Lực lượng Tự vệ Biển Nhật Bản, “sự hiện diện thường xuyên hơn của Hải quân Hoàng gia trong khu vực là cơ hội để hai hải quân tập luyện ăn khớp hơn trong tương lai”. (2) Ngoại trưởng Nhật Bản Taro Kono (25/6) cho biết Nhật Bản đã ký thoả thuận hỗ trợ Indonesia 2,5 tỉ yên (tương đương 23 triệu đô la Mỹ) nhằm phát triển các cảng và cơ sở nghề cá trên 6 đảo xa bờ của nước này, trong đó có đảo Natuna, trước tháng 1/2020. Trước đó, Chính phủ Nhật Bản (7/3) đã quyết định tăng cường các chuyên gia quân sự tại các nước đối tác ở Đông Nam Á như Philippines, Việt Nam và Malaysia. Theo truyền thông Nhật Bản nhận định, đây là lần đầu tiên Chính phủ Nhật Bản
đưa các chuyên gia quân sự của mình tới các quốc gia Đông Nam Á và con số chuyên gia dự kiến cũng sẽ tăng từ một lên hai chuyên gia cho mỗi nước nói trên. Cũng theo Liberty Times, Nhật Bản đang chuẩn bị cung cấp cho quân đội Philippines 3 máy bay TC-90 mới nhằm giúp nước này theo dõi tốt hơn các hoạt động của Trung Quốc ở gần lãnh thổ của mình. Trong bối cảnh khác, Cảnh sát biển Nhật Bản và Malaysia (29/1) tiến hành diễn tập chung về tìm kiếm cứu nạn tại một khu vực trên Biển Đông nằm gần bờ biển của Malaysia. (3) Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe và Thủ tướng Malaysia Mahathir Mohamad (12/6) đã tuyên bố rằng Nhật Bản và Malaysia nhất trí duy trì quyền tự do hàng hải ở eo biển Malacca và Biển Đông cho tất cả các quốc gia. Thủ tướng Shinzo Abe khẳng định khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, trong đó có Biển Đông, cần phải là một khu vực tự do và cởi mở dựa trên thượng tôn phát luật và được đảm bảo là tuyến đường chung vì hoà bình và thịnh vượng của khu vực. Ông Abe nhấn mạnh: “Nhật Bản sẵn sàng hợp tác với tất cả những quốc gia nào ủng hộ khái niệm này với Malaysia. Tôi khẳng định quyết tâm thúc đẩy hơn nữa hợp tác vì hoà bình và ổn định khu vực, trong đó có lĩnh vực an ninh biển”. (4) Nhật Bản, Ấn Độ, và Mỹ (4/4) chia sẻ quan ngại về những căng thẳng ở Biển Đông. Quan chức 3 nước cũng trao đổi về các giải pháp nhằm thúc đẩy hợp tác khu vực liên quan đến các vấn đề như phát triển cơ sở hạ tầng, an ninh biển và xây dựng nhận thức trên các lĩnh vực biển… Đồng thời, các bên đều nhất trí sẽ tiếp tục tăng cường hợp tác nhằm thúc đẩy một khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do, cởi mở, thịnh vượng, hòa bình và toàn diện thông qua quan hệ đối tác với các nước ở khu vực.
Ấn Độ tích cực hợp tác song phương, đa phương ở Biển Đông
Trong năm 2018, Ấn Độ đã tích cực tăng cường hiện diện ở Biển Đông bằng cách thúc đẩy hợp tác song phương, đa phương ở Biển Đông. (1) Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi (3/3) tái khẳng định sự ủng hộ đối với tự do hàng hải ở Biển Đông cũng như “tầm quan trọng của việc xây dựng một khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương hòa bình và thịnh vượng nơi chủ quyền và luật pháp quốc tế, tự do hàng hải và hàng không, sự phát bền vững, hệ thống đầu tư và thương mại tự do, công bằng và cởi mở”; nhấn mạnh đến vai trò của luật pháp quốc tế ở khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, nhất là Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS), kêu gọi thực thi một cách thiện chí các nghĩa vụ pháp lý quốc tế, duy trì tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông. Trước đó, tại “”Đối thoại khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương” (27/2) được tổ chức bởi Hải quân Ấn Độ Dương và Trung tâm Nghiên cứu Quỹ Biển quốc gia (NMF), Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Ấn Độ Nirmala Sitharaman khẳng định, tự do hàng hải ở các vùng biển được điều chỉnh bởi trật tự dựa trên luật lệ và không có siêu cường hay nhóm siêu cường nào có quyền thay đổi trật tự dựa trên luật lệ. (2) Phát biểu với báo giới bên lề Hội nghị Thượng đỉnh nhân kỷ niệm 25 năm quan hệ Ấn Độ – ASEAN, bà Pritee Saran phụ trách Vụ các vấn đề Đông Á, Bộ Ngoại giao Ấn Độ (5/2) khẳng định đã đến lúc Ấn Độ cần khởi động quan hệ hợp tác quân sự với Philippines và các nước láng giềng ở Đông Nam Á trong bối cảnh căng thẳng ở Biển Đông; nhấn mạnh, hoà bình và an ninh khu vực là một trong những nội dung mấu chốt trong Kế hoạch Hành động Hợp tác Ấn Độ – ASEAN năm 2016 – 2020; đồng thời cho biết, Chính phủ Ấn Độ luôn xem an ninh biển ở khu vực đóng vai trò quan trọng trong mối quan hệ đang ngày càng phát triển giữa Ấn Độ và ASEAN, tái khẳng định lập trường của Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi rằng tất cả các tranh chấp ở Biển Đông giữa Trung Quốc và các nước láng giềng cần phải được giải quyết hoà bình theo UNCLOS, không có bên nào được phép sử dụng vũ lực để yêu sách chủ quyền đối với các với các vùng biển quốc tế dành cho tất cả các quốc gia. (3) Bộ trưởng Quốc phòng Ấn Độ Subhash Bhamre (7/3) cho biết Hải quân, Cảnh sát biển cùng với các cơ quan khác của Ấn Độ đang triển khai tuần tra trên các vùng biển, các đảo và các vùng nước lân cận thông qua việc sử dụng tàu thuyền và máy bay nhằm phát hiện các hành động xâm nhập trên các tuyến đường biển, qua đó đối với các nguy cơ từ biển đang gia tăng đối với Ấn Độ.
Anh, Pháp tiếp nối theo Mỹ, tích cực can thiệp vào vấn đề Biển Đông nhằm đảm bảo tự do hàng hải trong khu vực
Trong năm 2018, ngoài việc tăng cường tuần tra ở Biển Đông, Anh và Pháp cũng tích cực hợp tác với các nước trong vấn đề Biển Đông. (1) Đô đốc Philip Jones thuộc Hải quân Hoàng gia Anh (22/10) cho biết ông sẽ đưa các tàu chiến của Anh đi qua vùng biển tranh chấp ở Biển Đông, thể hiện sự ủng hộ các đồng minh ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương và chống lại Trung Quốc. (2) Bộ trưởng Quốc phòng Pháp, Chính phủ Pháp (9/2018) đã thảo luận với Australia về cách phối hợp triển khai hoạt động ở Biển Đông nhằm bảo đảm quyền tự do hàng hải ở khu vực được giữ vững. Tuy nhiên, Bộ trưởng Quốc phòng Pháp Florence Parly cho biết Pháp sẽ không đứng về bên nào trong vấn đề Biển Đông nhưng sẽ tiếp tục qua lại tại vùng biển này và khẳng định “quan
điểm của Pháp rất rõ ràng, Trung Quốc phải tuân thủ các quy định quốc tế, song Pháp luôn sẵn sàng đối thoại”. Trước đó, phát biểu tại Đối thoại Shangri-la, Bộ trưởng Quốc phòng Pháp Florence Parly (4/6) đã kêu gọi các nước tuân thủ luật pháp quốc tế ở Biển Đông, khẳng định Pháp sẽ kiên quyết phản đối việc đưa ra bất cứ yêu sách nào nhằm đòi hỏi chủ quyền trên thực tế đối với các cấu trúc ở khu vực này. Bà Parly cũng nhấn mạnh rằng bởi tầm quan trọng của tuyến đường biển huyết mạch đối với an ninh kinh tế của nhiều quốc gia, các bên sẽ không có quyền được phớt lờ luật pháp quốc tế. Bà cho biết Pháp không phải là một bên trong tranh chấp lãnh thổ ở khu vực nhưng Pháp nhấn mạnh hai nguyên tắc của trật tự quốc tế dựa trên khu vực, đó là tranh chấp cần phải được giải quyết bằng các biện pháp pháp lý và đàm phán chứ không phải là áp đặt sự đã rồi, cùng với đó là cần phải bảo vệ tự do hàng hải. Bà Parly cũng cho rằng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) cần có tính ràng buộc về mặt pháp lý, toàn diện, hiệu quả, phù hợp với luật pháp quốc tế đồng thời bày tỏ tin tưởng vào các cuộc đàm phán đang diễn ra hiện nay. (3) Đại sứ Pháp tại Philippines Nicolas Galey (12/3) cho biết Philippines và Pháp mới đây đã đưa ra cam kết về việc cùng hợp tác nhằm tăng cường hợp tác quốc phòng, góp phần bảo vệ hoà bình ở Biển Đông; khẳng định “đây là một lĩnh vực hợp tác mới, có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với hai nước, nhất là vào thời điểm hai nước như Pháp và Philippines đang tăng cường phối hợp hơn nữa nhằm bảo đảm an ninh khu vực” và “Pháp và Philippines cùng có chung quan tâm đối với an ninh biển và đề cao vai trò của luật pháp quốc tế, đặc biệt là luật biển”, đồng thời bày tỏ sự ủng hộ đối với lập trường pháp lý của Philippines ở Biển Đông, khẳng định Pháp “có chung hướng tiếp cận” đối với tranh chấp ở khu vực này. Cùng ngày, Tàu Hải quân Pháp FNS Vendemiare (F734) đã tới cảng Manila nhằm khẳng định “cam kết quân sự của Pháp đối với an ninh ở Đông Nam Á”. (4) Trong diễn biến liên quan, Tàu chiến HMS Sutherland của Anh (9/3) đã cập cảng Sydney nhằm triển khai hoạt động tự do hàng hải ở Biển Đông. Tư lệnh Andrew Canale cho biết Australia đã sẵn sàng cho bất cứ khả năng nào, khẳng định hoạt động tự do hàng hải của Anh sẽ tuân thủ một cách đầy đủ luật pháp quốc tế.
Đáng chú ý, trả lời phỏng vấn với AFR trong chuyến thăm tới Australia, Đại diện cấp cao về chính sách an ninh của EU Francois Rivasseau (2/4) đã nêu quan ngại về tranh chấp Biển Đông, cảnh báo có thể có những “làn sóng gây sốc” về kinh tế do tranh chấp Biển Đông gây ra, trước sẽ tác động tức thì đến khu vực và sau sẽ là tác động trên phạm vi toàn cầu. Ngoài ra, ông Francois Rivasseau khẳng định không loại trừ khả năng hải quân các nước châu Âu có thể sẽ tiến hành các hoạt động tuần tra tự do hàng hải ở Biển Đông trong tương lai do “các vùng biển ở Nam Á đóng vai trò rất quan trọng đối với châu Âu, nhìn từ góc độ kinh tế”, “EU có lợi ích trong việc đảm bảo cho khu vực ổn định”. Ông Francois Rivasseau nhấn mạnh Biển Đông là “di sản toàn cầu” và một Biển Đông hòa bình thuộc về lợi ích kinh tế của châu Âu nói riêng và lợi ích toàn cầu.
Trung Quốc bao biện cho hành vi của Bắc Kinh trên Biển Đông, liên tục chỉ trích các nước tăng cường hiện diện ở Biển Đông
Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng và Bộ Giao thông vận tải Trung Quốc liên tục đưa ra các tuyên bố bao biện cho những hành vi phi pháp của Bắc Kinh trên Biển Đông; đồng thời tìm cách chỉ trích “các nước liên quan can thiêp công việc nội bộ của Trung Quốc”. Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng cương quyết nhấn mạnh “các công trình xây dựng của Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa là nhằm “cải thiện điều kiện sống của nhân viên đóng tại đó và giải quyết các nguy cơ đe dọa đối với an ninh hàng hải; việc tăng cường xây dựng dân sự là nhằm cung cấp thêm các dịch vụ công và dân sự cho khu vực này”; đồng thời cho biết Trung Quốc triển khai vũ khí ở Trường Sa “không nhằm vào ai” và đây chỉ là triển khai các phương tiện “phòng thủ lãnh thổ cần thiết”, nhằm thực hiện “nhiệm vụ dự phòng”, để đối phó với những tình huống đột xuất như tìm kiếm cứu nạn, cấp cứu, cứu hộ khẩn cấp, chữa cháy trên biển, làm sạch dầu tràn. Trong khi đó, Giám đốc Cục tìm kiếm và cứu nạn thuộc Bộ Giao thông vận tải Trung Quốc Vương Trịnh Lương ngang nhiên tuyên bố “Trung Quốc sẽ tiến hành củng cố các hoạt động tìm kiếm, cứu nạn ở Trường Sa và các khu vực xung quanh”; khẳng định rằng “Trung Quốc sẽ tiếp tục triển khai các máy bay trực thăng và chế tạo các tàu cứu hộ lớn tới khu vực này”. Trong khi đó, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc xác nhận nước này đã đưa các hệ thống tên lửa tới quần đảo Trường Sa, nhưng khẳng định “việc triển khai này không nhằm vào ai”. Trong khi đó, Bộ Quốc phòng Trung Quốc ngang nhiên tuyên bố rằng họ có “quyền gửi quân đội và vũ khí tới bất cứ khu vực nào thuộc lãnh thổ của họ và bất cứ động thái chỉ trích nào cũng có thể coi là can thiệp vào tình hình nội bộ của Bắc Kinh”.
Đáng chú ý, Bộ Ngoại giao Trung Quốc nhiều lần bày tỏ quan ngại sâu sắc và kiên quyết phản đối tuyên bố, hoạt động của phía Anh ở Biển Đông, khẳng định tình hình Biển Đông đang được cải thiện và ổn định, cả ASEAN và Trung Quốc đều có ý chí mạnh mẽ về duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông và đang tiến hành các hành động cụ thể để đạt được điều đó; buộc tội “một số nước” đang cố gắng khuấy lên rắc rối, tạo sóng to, gió lớn ở Biển Đông; khẳng định cái gọi là tự do hàng hải là không tồn tại, bất cứ bước đi nào nhằm ép buộc hay đe dọa người khác chấp nhận lời diễn giải đơn nhất về luật pháp quốc tế dưới danh nghĩa tự do hàng hải là hành động vi phạm luật pháp quốc tế. Trước đó, Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị (25/9) đã đề nghị Anh cam kết không đứng về bên nào trong vấn đề Biển Đông, bày tỏ hy vọng Anh sẽ hiện thực hóa cam kết và thể hiện sự tôn trọng đối với chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Trung Quốc.
Trong khi đó, giới học giả Trung Quốc tập trung chỉ trích hoạt động của Nhật Bản ở Biển Đông. Giáo sư Zhou Yongsheng thuộc Viện Quan hệ quốc tế, Đại học Ngoại giao Trung Quốc chỉ trích việc Nhật Bản sắp đưa các tàu chiến đi qua Biển Đông và Ấn Độ Dương, cáo buộc rằng việc Nhật Bản vẫn tiếp tục hiện diện ở Biển Đông xuất phát từ ba lý do: (i) Nhật Bản luôn “nhìn” Mỹ trong cách ứng xử của nước này với Trung Quốc; (ii) Chiến lược lâu dài của Nhật Bản là duy trì sự hiện diện ở Biển Đông nhằm “kiềm chế” Trung Quốc; (iii) Nhật Bản cần gia tăng ảnh hưởng về quân sự ở khu vực để thúc đẩy vai trò của mình trong việc thúc đẩy chính sách hợp tác kinh tế của mình trong các Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) và “lấy lòng” các nước ASEAN bởi các nước này có vai trò quan trọng trong chính sách đối ngoại của Nhật Bản. Ngoài ra, ông Yongsheng ngang nhiên khẳng định “sự hiện diện quân sự nước ngoài ở khu vực là không cần thiết”, “bất cứ sự can thiệp nào của lực lượng bên ngoài dưới danh nghĩa tự do hàng hải đều là chiêu trò thiếu thiện chí nhằm làm phức tạp tình hình trên biển”.
Kết luận
Trong năm 2018, các nước đồng minh của Mỹ, nhất là Australia, Nhật Bản, Anh… đã thông qua nhiều hình thức, biện pháp để tăng cường hiện diện tại Biển Đông nhằm đảm bảo hoạt động tự do hàng hải, hàng không và hòa bình, ổn định ở khu vực. Việc các nước trên thúc đẩy chính sách, hoạt động trong kh vực đã tạo nên hiệu ứng, góp phần duy trì ổn định ở Biển Đông. Trong khi đó, Trung Quốc tiếp tục sử dụng các giọng điệu cũ, nhằm chỉ trích, cáo buộc một cách vô căn cứ đối với các nước đồng minh của Mỹ khi hiện diện ở Biển Đông.