Tin Biển Đông – 02/12/2018
Thách thức TQ,
Hoa Kỳ điều tàu tuần dương đến Biển Đông
“Lực lượng Hoa Kỳ hoạt động ở khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương hàng ngày, kể cả Biển Đông. Tất cả đều phù hợp với luật pháp quốc tế, đồng thời chứng minh rằng Hoa Kỳ sẽ bay, đi tàu và hoạt động ở bất cứ nơi nào luật pháp quốc tế cho phép”, ông Nathan Christensen, phát ngôn viên Hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ nói với Business Insider.
Trung Quốc tuyên bố chủ quyền bất hợp pháp ở phần lớn Biển Đông, trong khi đó tòa án trọng tài quốc tế đã bác bỏ tuyên bố này vào 2 năm trước. Tuy nhiên, quân đội Trung Quốc vẫn tiếp tục tăng cường sự hiện diện và bành trướng quân sự hóa ở khu vực tranh chấp thông qua triển khai công nghệ gây nhiễu, tên lửa chống tàu, và tên lửa đối không.
“FONOP (hoạt động tự do hàng hải) ở Biển Đông đã thách thức các tuyên bố của Trung Quốc đồng thời thể hiện cam kết duy trì các quyền, tự do, sử dụng biển và không phận nhằm đảm bảo cho tất cả các quốc gia theo luật quốc tế”, ông Christensen nói.
Hai ngày sau khi có hoạt động tự do hàng hải, Hải quân Hoa kỳ đã điều một tàu khu trục và tàu chở dầu qua eo biển Đài Loan vào hôm thứ Tư (28/11).
Hành động của hải quân Hoa Kỳ đã làm Trung Quốc tức giận và theo dõi chặt chẽ các hoạt động của Hạm đội Thái Bình Dương trên Biển Đông.
Hôm thứ Năm (29/11), phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Geng Shuang cho biết: “Chúng tôi đề nghị Hoa Kỳ thận trọng và giải quyết một cách thích hợp vấn đề Đài Loan, tránh làm tổn hại đến hòa bình và ổn định trên eo biển Đài Loan và quan hệ Trung Quốc – Hoa Kỳ”.
Tuy nhiên, mặc cho những lời chỉ trích hoặc cảnh báo từ phía Bắc Kinh. Hạm đội Thái Bình Dương nhấn mạnh “Sự điều hướng của các tàu chiến Mỹ đến eo biển được thực hiện theo luật pháp quốc tế”.
“Tàu quá cảnh qua eo biển Đài Loan thể hiện cam kết của Mỹ đối với một khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương tự do và cởi mở”, Hạm đội Thái Bình Dương nói với Business Insider hôm thứ Tư.
Ngoài các FONOP của Hải quân Hoa Kỳ, Không quân Mỹ cũng thường xuyên điều máy bay ném bom B-52 vờn qua Biển Đông nhằm phản đối các yêu sách chủ quyền phi lý của Bắc Kinh.
http://biendong.net/bi-n-nong/25024-thach-thuc-tq-hoa-ky-dieu-tau-tuan-duong-den-bien-dong.html
Đô đốc Mỹ chỉ trích TQ về việc quân sự hóa Biển Đông
Đô đốc Hải quân Mỹ Philip Davidson cho rằng “cách tiếp cận nguy hiểm” của Trung Quốc trong dự án Vành đai – Con đường, và hành động tăng cường quân sự hóa Biển Đông đang làm gia tăng căng thẳng giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Theo Bloomberg, ông Davidson, tư lệnh Bộ Chỉ huy Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, đưa ra bình luận này trong khi từ Hawaii đến dự một hội nghị ở Washington. Đô đốc Mỹ đã chỉ trích Trung Quốc có “chiến dịch dai dẳng nhằm đe dọa các quốc gia khác”.
Sáng kiến Vành đai – Con đường thực chất là hình thức xuất khẩu mô hình tăng trưởng cũ, dựa trên đầu tư cơ sở hạ tầng do nhà nước quản lý, đã vươn đến 65 quốc gia nhưng đi kèm đó là những chỉ trích về tính minh bạch và bền vững, tờ South China Morning Post (SCMP) bình luận trong bài viết ngày 7/10/2018. Dự án này bị nghi ngờ rộng rãi là một hình thức ngoại giao “bẫy nợ” để gài các nước nhỏ hơn và tăng cường sự phụ thuộc của họ đối với Trung Quốc.
Phát biểu của ông Davidson được đưa ra ngay trước khi Tổng thống Donald Trump và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tìm cách giải quyết những căng thẳng thương mại gia tăng trong một cuộc họp bên lề Hội nghị G-20 ở Buenos Aires. Hai nhà lãnh đạo sẽ ăn tối cùng nhau vào thứ Bảy (1/12). Đây sẽ là cuộc gặp gỡ riêng đầu tiên của họ trong hơn 12 tháng, và có thể có tác động đáng kể đến nền kinh tế toàn cầu trong năm tới, Bloomberg nhận định.
Nói về bán đảo Triều Tiên, ông Davidson nói rằng mức độ sẵn sàng của Hoa Kỳ không bị ảnh hưởng bởi việc đình chỉ các cuộc tập trận quân sự với Hàn Quốc, một động thái được thực hiện nhằm tăng cường tiếp cận ngoại giao đối với Bình Nhưỡng.
Mỹ “khá tự tin” về liên minh với Hàn Quốc, ông Davidson nói với những người tham gia hội nghị ở Washington, được tổ chức bởi Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS).
http://biendong.net/bi-n-nong/25023-do-doc-my-chi-trich-tq-ve-viec-quan-su-hoa-bien-dong.html
Tranh chấp Biển Đông:
Quá khứ, hiện tại và tương lai
Nalanda Roy, một giáo sư về Khoa học Chính trị ở Đại học Armstrong tại Savannah, bang Georgia, đã soạn một cuốn sách về lịch sử tranh chấp Biển Đông. Roy đã đưa được nhiều thông tin vào một cuốn sách mỏng tới mức cuốn sách tạo ra cảm giác căng cứng. Cách tác giả trình bày dữ liệu tạo ấn tượng mạnh cho độc giả, hay ít nhất là với người viết bài điểm sách này. Roy có nhắc qua những sự kiện như chiến dịch bồi đắp và gia cố Đá Vành Khăn của Trung Quốc, cung cấp những chi tiết căn bản nhất. Và rồi cứ thế bà ấy điểm qua hết sự kiện này đến sự kiện khác. Cách viết này đã làm sáng tỏ nhiều điều về tình hình chính trị và chiến lược ở Đông Nam Á.
Cách tiếp cận vấn đề của Roy tạo nên nhiều ấn tượng cho độc giả. Ấn tượng đầu tiên là Đông Nam Á là một nơi bận rộn. Có lẽ người dân Đông Nam Á sẽ không lạ gì với điều này, nhưng những sự kiện trong nước và quốc tế thường làm độc giả phương Tây không nhận ra được tầm quan trọng của Đông Nam Á. Trừ một số sự kiện lớn như việc Trung Quốc bồi đắp và quân sự hóa các đảo nhân tạo, các bình luận gây sốc của Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte, hoặc chiến dịch tự do hàng hải của Hải quân Mỹ, thì các diễn biến khác ở Biển Đông thường không được thế giới biết đến nhiều. Biển Đông chỉ xuất hiện trên trang nhất nếu có một sự kiện gì đó đủ lớn. Qua công trình này, Roy giúp độc giả không phản ứng thái quá hoặc ít quá với những sự kiện gần đây.
Thứ hai, các tranh chấp đối với các đảo, bãi san hô, đá và các vùng biển và vùng trời lân cận đã diễn ra từ lâu ở Đông Nam Á. Như Alastair Ian Johnston chỉ ra trên tạp chí International Security (An ninh Quốc tế) vài năm trước, việc sử dụng cụm từ “new assertiveness” (sự hung hăng mới) – một từ thường được dùng để miêu tả hành vi của Trung Quốc một thập niên qua trong những sự kiện như tại bãi cạn Scarborough hoặc Đá Chữ Thập – là một cách nói thổi phồng sự thay đổi hành vi của Trung Quốc so với quá khứ. Từ nhiều năm trước, Bắc Kinh đã thường tận dụng thời cơ có lợi để củng cố các yêu sách lãnh hải của họ. Ví dụ, năm 1974, Hải quân Trung Quốc đã đánh nhau với Hải quân Việt Nam Cộng Hòa ở Hoàng Sa. Trung Quốc đã căn thời điểm rất hợp lí: chính quyền Sài Gòn sắp bị Bắc Việt hủy diệt, trong khi một Hoa Kỳ mệt mỏi với chiến tranh không muốn dây vào một cuộc chiến mới ở Đông Nam Á. Vì vậy, Roy cho rằng những vụ đụng độ gần đây nằm trong một mẫu hình hành vi lâu đời của Trung Quốc.
Thứ ba, Trung Quốc liên quan tới gần như tất cả các vụ tranh chấp lãnh thổ trong khu vực. Chương “Các xung đột ở Biển Đông” (trang 33-58) có nhấn mạnh điểm này qua bố cục sắp xếp của chương. Mỗi mục trong chương điểm qua một vụ tranh chấp song phương. Tất cả các mục này đều có Trung Quốc, ví dụ như: “Indonesia và Trung Quốc” hoặc “Philippines và Trung Quốc”. Đó một phần là vì tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc bao trùm cả quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, và các vùng biển và không phận xung quanh. Ngoài ra, một nguyên nhân khác là việc Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đã giúp các nước thành viên giải quyết tranh chấp của họ trên tinh thần hữu nghị. Roy ca ngợi vai trò của ASEAN trong việc đảm bảo ổn định khu vực.
Thứ tư, Roy nhận định rằng không có giải pháp dễ dàng nào cho các tranh chấp này. Bà có lồng vào các khuyến nghị của mình, nhưng không nhấn mạnh chúng. Ví dụ, hoạt động bồi đắp đảo của Trung Quốc đặt ra “những câu hỏi quan trọng” về ý định của giới lãnh đạo [Trung Quốc] (trang 51). Sau khi Tòa Trọng tài Quốc tế tuyên Philippines thắng kiện, “các bên tranh chấp cần kiềm chế để tránh các hoạt động làm gián đoạn hòa bình và ổn định khu vực” (trang 51). Trung Quốc và Hoa Kỳ “nên đảm bảo tôn trọng quyền của nhau” để tránh các đụng độ như sự kiện máy bay EP-3 hồi năm 2001 (trang 49). Có thể thấy rất khó để đưa ra được những khuyến nghị khả thi.
Một điểm tôi không hài lòng với nghiên cứu của Roy là nó đánh giá thấp các vấn đề phi vật chất trong ngoại giao và chiến lược Biển Đông. Tổng hợp của Roy khiến người đọc có cảm giác tranh chấp Biển Đông chỉ là về vấn đề lãnh thổ và tài nguyên khoáng sản dưới biển – hay nói cách khác là những khía cạnh có thể đo lường được. Không thể phủ nhận vai trò của lãnh thổ và tài nguyên trong tranh chấp. Thậm chí, có lẽ đó chính là những yếu tố quan trọng nhất với các bên tranh chấp. Tuy nhiên, các nhà triết học và sử học sẽ nhắc nhở chúng ta rằng những yếu tố phi vật chất cũng thúc đẩy quyết định của các quốc gia và cá nhân. Thucydides cho rằng “sự sợ hãi, danh dự và lợi ích” nằm trong số những động lực quan trọng nhất trong số này.
Roy phân tích các vấn đề như lãnh thổ và tài nguyên nhiều nhưng không nói nhiều về những hiềm khích trong quá khứ vốn tô thêm màu sắc cho các tranh chấp về lãnh thổ, hoặc về trữ lượng dầu mỏ và khí gas ở đáy biển. Một ví dụ về những yếu tố này là việc Trung Quốc muốn quên đi “bách niên quốc sỉ” dưới tay các cường quốc thực dân. Việt Nam và Trung Quốc cũng từng có nhiều cuộc đối đầu trong quá khứ.
Sẽ khó để phân biệt đâu là tranh chấp lãnh thổ tài nguyên, đâu là những sự thù địch hay ngờ vực xưa cũ vốn tạo ra bối cảnh chính trị khu vực đầy xúc cảm này. Nhưng các quốc gia Đông Nam Á phải tìm ra lời giải cho vấn đề đó. Nếu không, “con đường đến hòa bình” mà Nalanda Roy mong muốn khó mà đạt được.