Tin Biển Đông – 14/11/2018

Cac Bai Khac

No sub-categories

Tin Biển Đông – 14/11/2018

Mỹ yêu cầu Trung Quốc

‘rút tên lửa khỏi Trường Sa’

Washington mới kêu gọi Bắc Kinh “rút các hệ thống tên lửa khỏi Trường Sa” đồng thời thúc giục “tránh giải quyết tranh chấp bằng việc đe dọa”.

Tuyên bố trên được đưa ra trong cuộc Đối thoại An ninh và Ngoại giao Mỹ – Trung mới đây, với sự tham dự của Ngoại trưởng Hoa Kỳ Mike Pompeo và Bộ trưởng Quốc phòng Jim Mattis, cùng đối tác từ Bắc Kinh gồm Ủy viên Quốc vụ Dương Khiết Trì và Bộ trưởng Quốc phòng Ngụy Phượng Hòa.

Trang web của Bộ Ngoại giao Mỹ hôm 9/11 đăng tải tuyên bố của Washington về nhiều vấn đề liên quan tới quan hệ hai nước và khu vực, trong đó có Biển Đông.

Thông cáo có đoạn: “Hai bên cam kết hậu thuẫn hòa bình và ổn định ở Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông), giải pháp hòa bình đối với các tranh chấp và quyền tự do hàng hải và bay ngang qua, cũng như việc sử dụng vùng biển một cách hợp pháp theo luật lệ quốc tế” .

Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cũng cho biết rằng Washington và Bắc Kinh cũng “cam kết bảo đảm an toàn hàng không và hàng hải, cũng như kiểm soát các nguy cơ một cách xây dựng. Hoa Kỳ đã thảo luận về tầm quan trọng của việc các tàu bè và máy bay của dân sự, của lực lực thi hành công lực và của quân sự hoạt động một cách an toàn và chuyên nghiệp theo luật quốc tế”.

Tuyên bố cũng nói rằng “Hoa Kỳ kêu gọi Trung Quốc rút các hệ thống tên lửa khỏi các nơi tranh chấp ở Trường Sa, và tái khẳng định rằng tất cả các nước nên tránh giải quyết tranh chấp thông qua việc cưỡng ép và đe dọa”.

Bộ Ngoại giao Mỹ cũng nói rằng “Hoa Kỳ vẫn tiếp tục cam kết bay ngang, ra khơi và hoạt động ở bất kỳ nơi nào luật pháp quốc tế cho phép”.

Hoa Kỳ kêu gọi Trung Quốc rút các hệ thống tên lửa khỏi các nơi tranh chấp ở Trường Sa, và tái khẳng định rằng tất cả các nước nên tránh giải quyết tranh chấp thông qua việc cưỡng ép và đe dọa.

Tuyên bố của Bộ Ngoại giao Mỹ viết.

Đây được coi là lần đầu tiên Mỹ yêu cầu Trung Quốc có những bước đi cụ thể, nhất là liên quan tới việc triển khai vũ khí, nhằm giảm căng thẳng ở vùng biển tranh chấp với nhiều nước, trong đó có Việt Nam.

Hồi đầu tháng Năm, kênh truyền hình CNBC của Mỹ dẫn các nguồn tin tình báo tiết lộ rằng Trung Quốc đã lắp đặt các hệ thống tên lửa hành trình chống hạm và đất đối không trên ba đảo đá tranh chấp ở Trường Sa là Đá Chữ Thập, Đá Xubi và Đá Vành Khăn.

Đây được coi là việc lần đầu tiên triển khai tên lửa của Trung Quốc tới các nơi tranh chấp. Trước đó, các hình ảnh vệ tinh cho thấy rằng Bắc Kinh đã cho đáp máy bay ném bom và chiến đấu tới các đảo nhân tạo ở Biển Đông.

Ít ngày sau đó, phản hồi về việc triển khai tên lửa của Trung Quốc, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng nói rằng Hà Nội “hết sức quan ngại trước các thông tin nêu trên và khẳng định mọi hoạt động quân sự hóa, bao gồm cả việc bố trí tên lửa trên quần đảo Trường Sa của Việt Nam vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa, đồng thời vi phạm Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông giữa ASEAN và Trung Quốc (DOC), làm gia tăng căng thẳng, gây mất ổn định trong khu vực và không có lợi cho nỗ lực của các nước trong đàm phán Bộ Quy tắc ứng xử tại Biển Đông (COC)”.

“Việt Nam đề nghị phía Trung Quốc thể hiện trách nhiệm trong việc duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông, không tiến hành quân sự hóa, rút các trang thiết bị quân sự triển khai trái phép trên các cấu trúc thuộc chủ quyền của Việt Nam”, bà Hằng nói.

Trong cuộc họp báo chung với quan chức Trung Quốc sau cuộc đối thoại, phía Mỹ đã kêu gọi Bắc Kinh “ngưng quân sự hóa Biển Nam Trung Hoa”.

Ngoại trưởng Mike Pompeo nói rằng Washington vẫn còn “quan ngại về các hoạt động quân sự hóa của Trung Quốc ở Biển Đông” đồng thời thúc ép Trung Quốc “giữ vững cam kết như trong quá khứ đối với vùng này”.

Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình mới đây đã lệnh cho quân khu phụ trách Biển Đông và Đài Loan “chuẩn bị sẵn sàng cho chiến tranh”.

Đáp lại, ông Dương Khiết Trì nói rằng Trung Quốc cam kết “không đối đầu” nhưng nói thêm rằng Bắc Kinh có quyền xây dựng “các cơ sở quốc phòng cần thiết” trên lãnh thổ của mình đồng thời thúc giục Washington ngưng đưa tàu chiến và máy bay quân sự gần các hòn đảo mà Bắc Kinh tuyên bố chủ quyền.

Trong các diễn biến khác liên quan tới Biển Đông, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình mới đây đã lệnh cho quân khu phụ trách Biển Đông và Đài Loan “chuẩn bị sẵn sàng cho chiến tranh”.

https://www.voatiengviet.com/a/m%E1%BB%B9-y%C3%AAu-c%E1%BA%A7u-trung-qu%E1%BB%91c-r%C3%BAt-t%C3%AAn-l%E1%BB%ADa-kh%E1%BB%8Fi-tr%C6%B0%E1%BB%9Dng-sa-/4658193.html

 

Quy chế đảo đá trong Công ước Liên hợp Quốc

về Luật Biển năm 1982:

 Lý luận và thực tiễn ở Biển Đông

Tính đến thời điểm hiện tại, một trong những mâu thuẫn, bất đồng giữa các nước liên quan về việc giải quyết tranh chấp ở Biển Đông là quy chế xác định đâu là đảo và đâu là đá để xác định vùng đặc quyền kinh tế riêng cho mỗi thực thể ở quần đảo Hoàng Sa và Trường. Thông qua việc xác định vùng đặc quyền kinh tế của mỗi đảo có thể góp phần xác định cụ thể hóa vùng chồng lấn giữa tuyên bố chủ quyền của các nước, tạo điều kiện để giải quyết tranh chấp ở Biển Đông.

Đá Chữ Thập đang bị Trung Quốc chiếm đóng phi pháp của Việt Nam

Quy định của UNCLOS về quy chế đảo

Điều 121 của UNCLOS đã quy định về “Chế độ các đảo”, trong đó ghi rõ: (1) Một đảo là một vùng đất tự nhiên có nước bao bọc, khi thủy triều lên vùng đất này vẫn ở trên mặt nước. (2) Với điều kiện phải tuân thủ khoản 3, lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa của hòn đảo được hoạch định theo đúng các quy định của Công ước áp dụng cho các lãnh thổ đất liền khác. (3) Những hòn đảo đá nào không thích hợp cho con người đến ở hoặc cho một đời sống kinh tế riêng, thì không có vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa.

Liên quan bãi cạn lúc chìm lúc nổi, Điều 13 UNCLOS quy định: (1) “Bãi cạn lúc chìm lúc nổi” là những vùng đất nhô cao tự nhiên có biển bao quanh, khi thủy triều xuống thấp thì lộ ra, khi thủy triều lên cao thì bị ngập nước. Khi toàn bộ hay một phần bãi cạn đó ở cách lục địa hoặc một đảo một khoảng cách không vượt quá chiều rộng của lãnh hải, thì ngấn nước triều thấp nhất ở trên các bãi cạn này có thể được dùng làm đường cơ sở để tính chiều rộng của lãnh hải. (2) Khi các bãi cạn lúc chìm lúc nổi hoàn toàn ở cách lục địa hoặc một đảo một khoảng cách vượt quá chiều rộng của lãnh hải, thì chung không có lãnh hải riêng.

Trong khi đó, Điều 60 UNCLOS cũng đưa ra các khái niệm liên quan đảo nhân tạo: (1) Trong vùng đặc quyền về kinh tế, quốc gia ven biển có đặc quyền tiến hành xây dựng, cho phép và quy định việc xây dựng, khai thác và sử dụng: a) Các đảo nhân tạo; b) Các thiết bị và công trình dùng vào các mục đích được trù định ở Điều 56 hoặc các mục đích kinh tế khác; c) Các thiết bị và công trình có thể gây trở ngại cho việc thực hiện các quyền của quốc gia ven biển trong vùng. (2) Quốc gia ven biển có quyền tài phán đặc biệt đối với các đảo nhân tạo, các thiết bị và các công trình đó, kể cả về mặt các luật và quy định hải quan, thuế khóa, y tế, an ninh và nhập cư. (3) Việc xây dựng các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình đó phải được thông báo theo đúng thủ tục, và việc duy trì các phương tiện thường trực để báo hiệu sự có mặt của các đảo, thiết bị và công trình nói trên cần được bảo đảm. Các thiết bị hay công trình đã bỏ hoặc không dùng đến nữa cần được tháo dỡ để đảm bảo an toàn hàng hải, có tính đến những quy phạm quốc tế đã được chấp nhận chung do tổ chức quốc tế có thẩm quyền đặt ra về mặt đó. Khi tháo dỡ phải tính đến việc đánh bắt hải sản, bảo vệ môi trường biển, các quyền và các nghĩa vụ của quốc gia khác. Cần thông báo thích đáng về vị trí, kích thước và độ sâu của những phần còn lại của một thiết bị hoặc công trình chưa được tháo dỡ hoàn toàn. (4) Quốc gia ven biển, nếu cần, có thể lập ra xung quanh các đảo nhân tạo, các thiết bị hoặc công trình đó những khu vực an toàn với kích thước hợp lý; trong các khu vực đó, quốc gia ven biển có thể áp dụng các biện pháp thích hợp để bảo đảm an toàn hàng hải, cũng như an toàn của các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình đó. (5) Quốc gia ven biển ấn định chiều rộng của những khu vực an toàn có tính đến các quy phạm quốc tế có thể áp dụng được. Các khu vực an toàn này được xác định sao cho đáp ứng một cách hợp lý với tính chất và chức năng của các đảo nhân tạo, các thiết bị và các công trinh, và không thể mở rộng ra một khoảng cách quá 500m xung quanh các đảo nhân tạo, các thiết bị và các công trình, tính từ mỗi điểm của mép ngoài cùng của các đảo nhân tạo, thiết bị và các công trình dó, trừ ngoại lệ do các vi phạm của quốc tế đã được thừa nhận chung cho phép hoặc tổ chức quốc tế có thẩm quyền kiến nghị. Phạm vi của khu vực an toàn được thông báo theo đúng thủ tục. (6) Tất cả các tàu thuyền phải tôn trọng các khu vực an toàn đó và tuân theo các tiêu chuẩn quốc tế được chấp nhận chung liên quan đến hàng hải trong khu vực của các đảo nhân tạo, các thiết bị, các công trình và các khu vực an toàn. (7) Không được xây dựng những đảo nhân tạo, thiết bị hoặc công trình, không được thiết lập các khu vực an toàn xung quanh các đảo, thiết bị, công trình đó khi việc đó có nguy cơ gây trở ngại cho việc sử dụng các đường hàng hải đã được thừa nhận là thiết yếu cho hàng hải quốc tế. (8) Các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình không được hưởng quy chế của các đảo. Chúng không có lãnh hải riêng và sự có mặt của chúng không có tác động gì đối với việc hoạch định ranh giới lãnh hải, vùng đặc quyền về kinh tế hoặc thềm lục địa.

Phán quyết của Tòa Trọng tài về dác đảo đá nhân tạo Trung Quốc đang chiếm đóng phi pháp ở Trường Sa

Tòa Trọng tài (7/2016) đã ra phán quyết liên quan vụ Philippines kiện Trung Quốc liên quan vấn đề Biển Đông. Trong phán quyết của Tòa đã phân tích và khẳng định 7 thực thể nhân tạo Trung Quốc đang chiếm đóng phi pháp ở Trường Sa, gồm đá Chữ Thập, Ga Ven, Châu Viên, Gạc Ma, Tư Nghĩa, Vành Khăn và Xu Bi là đảo đá. Theo phân tích của Tòa Trọng tài: (1)Việc sử dụng từ “đảo đá” không giới hạn việc điều khoản này chỉ được áp dụng vào các thực thể được cấu tạo từ đá cứng. Tính chất địa chất và địa mạo của một thực thể luôn nổi khi thuỷ triều lên cao không phải là yếu tố ảnh hưởng đến việc phân loại theo Điều 121(3). (2) Quy chế của một thực thể được xác định dựa trên năng lực tự nhiên của nó, mà không xem xét đến việc thêm hay điều chỉnh từ bên ngoài nhằm tăng cường năng lực duy trì sự cư trú của con người hay đời sống kinh tế riêng. (3) Liên quan đến yếu tố “sự cư trú của con người”, nhân tố quan trọng cần được xem xét là tính chất không tạm thời của việc cư trú,

như các cư dân có thể cơ bản được cho rằng đã tạo nên một cộng đồng dân cư tự nhiên của thực thể mà họ hưởng lợi từ tài nguyên của vùng đặc quyền kinh tế cần thiết phải bảo vệ cho họ. Thuật ngữ “sự cư trú của con người” nên được hiểu có liên quan đến việc cư trú ở trên thực thể của một cộng đồng ổn định mà thực thể đó được xem là nhà và họ tiếp tục cư trú ở trên đó. Cộng đồng dân cư này không nhất thiết phải lớn, và ở những bãi san hô xa xôi một vài cá nhân hay nhóm gia đình cũng được xem là thoả mãn. Việc cư trú thường xuyên hay định kỳ trên một thực thể của một dân tộc du mục cũng được xem là cấu thành sự cư trú, và các biên bản của Hội nghị Luật Biển lần thứ ba ghi nhận tính chất nhạy cảm lớn đối với sinh kế của các cộng đồng dân sự của các đảo quốc nhỏ. Dân cư bản địa chắc chắc là thoả mãn yếu tố này, nhưng sự cư trú của dân cư không bản địa cũng có thể thoả mãn yếu tố này nếu nhóm dân cư này có ý định thực sự cư trú và tạo lập đời sống của họ trên các đảo đang được xem xét. (4) Thuật ngữ “đời sống kin tế riêng” có mối liên hệ với yêu cầu về sự cư trú của con người, và hai yếu tố này trong nhiều trường hợp sẽ đi chung với nhau. Điều 121(3) không nói đến một thực thể có giá trị kinh tế, mà là một thực thể có thể duy trì “đời sống kinh tế”. Toà xem xét rằng “đời sống kinh tế” thông thường là đời sống và sinh kế của cộng đồng dân cư cư trú và tạo lập mái ấm trên một thực thể hoặc một nhóm thực thể trên biển. Thêm vào đó, Điều 121(3) nêu rõ ràng rằng đời sống kinh tế phải thuộc về thực thể đó như là “của chính nó”. Do đó đời sống kinh tế phải được định hướng xoay quanh chính thực thể đang xem xét và không tập trung chỉ vào vùng nước hay đáy biển của lãnh hải bao quanh. Hoạt động kinh tế mà phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn tài nguyên từ bên ngoài hay sử dụng thực thể như một đối tượng cho hoạt động khai thác mà không có sự tham gia của dân cư địa phương sẽ rõ ràng không thoả mãn khi xem xét mối liên hệ cần thiết với chính thực thể này. Hoạt động kinh tế sản xuất nhằm thu hoạch tài nguyên thiên nhiên của một thực thể nhằm mục đích lợi ích cho một cộng đồng cư trú ở nơi khác chắc chắc cấu thành việc khai thác tài nguyên vì lợi nhuận kinh tế nhưng nó không thể được xem là đời sống kinh tế riêng của chính hòn đảo. (5) Văn bản Điều 121(3) không có tính liên kết, cụ thể khả năng duy trì hoặc sự cư trú của con người hoặc đời sống kinh tế riêng cũng đủ để cho một thực thể luôn nổi khi thuỷ triều lên cao được hưởng vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Tuy nhiên, trên thực tế, Toà trọng tài cho rằng một thực thể trên biển thông thường chỉ có đời sống kinh tế riêng nếu nó cũng được cư trú bởi một cộng đồng dân cư ổn định. Một ngoại lệ cho quan điểm này cần phải ghi nhận là trường hợp cộng đồng dân cư duy trì cuộc sống của chính họ thông qua một mạng lưới các thực thể trên biển. Toà trọng tài không tin rằng các thực thể trên biển có thể hay nên được xem xét một cách tách biệt. Một cộng đồng dân cư có khả năng cư trú trên một khu vực nhất định thông qua việc sử dụng nhiều thực thể trên biển không thất bại trong việc cư trú trên thực thể đó chỉ bởi vì sự cư trú của cộng đồng này không thể duy trì được chỉ bởi một thực thể riêng biệt. Tương tự, một cộng đồng mà sinh kế và đời sống kinh tế của học mở rộng qua một nhóm các thực thể trên biển không làm họ mất khả năng được công nhận rằng các thực thể đó có đời sống kinh tế riêng chỉ bởi vì không phải tất cả các thực thể đều được trực tiếp cư trú. (6) Điều 121(3) liên quan đến khả năng của một thực thể trên biển trong việc duy trì sự cư trú của con người hay có đời sống kinh tế riêng, mà không liên quan đến liệu thực thể đó hiện tại hay đã từng được cư trú hay có đời sống kinh tế. Khả năng của một thực thể nhất thiết là một tiêu chí khách quan. Nó không liên quan đến vấn đề chủ quyền đối với thực thể đó. Vì lý do này, việc xác định khả năng khác quan của một thực thể không phụ thuộc vào việc trước đó phải xác định vấn đề chủ quyền, và Toà không bị ngăn cản đánh giá quy chế của các thực thể chỉ bởi vì Toà đã không hay sẽ không quyết định vấn đề chủ quyền đối với các thực thể này. (7) Khả năng của một thực thể duy trì sự cư trú của con người hay có đời sống kinh tế riêng phải được đánh giá trên cơ sở từng vụ việc. Những người dự thảo nên Công ước đã xem xét các kiến nghị với nhiều tiêu chí cụ thể khác nhau nhưng đều bác bỏ tất cả để ghi nhận một công thức chung quy định tại Điều 121(3). Toà xem xét rằng có thể xác định các yếu tố chính đóng góp vào khả năng tự nhiên của một thực thể. Các yếu tố này có thể bao gồm sự hiện diện của nước, lương thực và nơi cư trú với số lượng đủ để cho phép một nhóm con người sống trên thực thể đó trong một thời gian dài không xác định. Những yếu tố này cũng bao gồm xem xét đến các điều kiện cho sự cư trú và phát triển đời sống kinh tế trên một thực thể, bao gồm điều kiện thời tiết, khoảng cách đến các khu vực cư trú hay cộng đồng khác và

khả năng tạo sinh kế trên và xung quanh thực thể đó. Tuy nhiên tầm quan trọng và mức độ đóng góp tương đối của các yếu tố trên vào khả năng duy trì sự cư trú và đời sống kinh tế sẽ khác nhau giữa các thực thể cụ thể. Trong khi các thực thể cằn cõi, nhỏ bé có thể rõ ràng là không thể cư trú được, Toà không xem rằng một bài kiểm tra trừu tượng các yêu cầu khách quan cho việc duy trì sự cư trú của con người hay đời sống kinh tế riêng có thể và nên được đưa ra. Điều này đặc biệt đúng với trường hợp khi Toà kết luận rằng sự cư trú của con người yêu cầu nhiều hơn chỉ là việc sống sốt của con người trên thực thể và rằng đời sống kinh tế yêu cầu nhiều hơn chỉ là sự hiện diện của tài nguyên. Tuy nhiên việc không có một bài kiểm tra trừu tượng có một số hệ quả cụ thể (sẽ được thảo luận bên dưới) cho cách tiếp cận của Toà đối với bằng chứng về các điều kiện và khả năng của thực thể đang được xem xét. (8) Toà xem xét rằng khả năng của một thực thể nên được đánh giá với sự xem xét thích đáng đến khả năng một nhóm các đảo nhỏ cùng nhau duy trì sự cư trú của con người và đời sống kinh tế. Mặt khác, yêu cầu ở Điều 121(3) rằng thực thể chính mình phải duy trì sự cư trú của con người hay đời sống kinh tế rõ ràng loại trừ việc phụ thuộc vào nguồn cung cấp từ bên ngoài. Một thực thể chỉ có khả năng duy trì sự cư trú thông qua việc cung cấp liên tục các nguồn lực từ bên ngoài không thoả mãn các yêu cầu của Điều 121(3). Cũng vậy, hoạt động kinh tế duy trì hoàn toàn dựa vào tài nguyên từ bên ngoài hoặc chỉ sử dụng thực thể như một đối tượng cho hoạt động sản xuất mà không có sự tham gia của cư dân địa phương cũng không cấu thành đời sống kinh tế “riêng”. Đồng thời, Toà cũng nhận thức rằng các cộng đồng trên các đảo xa xôi thường sử dụng một số các đảo, đôi khi trải dài trên một khoảng cách đáng kể để duy trì đời sống và sinh kế. Giải thích Điều 121(3) mà chỉ đánh giá mỗi thực thể một cách tách biệt sẽ không bám sát vào thực tế đời sống trên các đảo xa xôi và cũng không tính đến tính chất nhạy cảm của lối sống của các dân tộc trên các đảo nhỏ – những tính chất đã được công nhận rõ ràng tại Hội nghị Liên hợp quốc lần thứ ba. Theo đó, nếu các đảo này cùng nhau hình thành một mạng lưới để duy trì sự cư trú của con người với việc giữ lối sống truyền thống của các dân tộc đó, Toà sẽ không đồng nhất vai trò của các đảo này như nguồn cung cấp từ bên ngoài. Cũng vậy việc sử dụng tại chổ các nguồn tài nguyên liền kề như một phần của sinh kế của cộng đồng không đồng nhất với việc tiếp nhận lợi ích kinh tế từ xa nhằm vào khai thác tài nguyên thiên nhiên. (9) Theo các kết luận của Toà trọng tài về giải thích Điều 121(3), bằng chứng về các điều kiện vật lý, khách quan của một thực thể nhất định chỉ có thể hỗ trợ cho công việc đánh giá của Toà. Theo quan điểm của Toà, bằng chứng về điều điều kiện vật lý thông thường sẽ chỉ đủ đề phân loại các thực thể mà có thể rõ ràng thấy rằng chúng rơi vào loại này hay loại khác. Nếu một thực thể hoàn toàn cằn cỗi về thực vật và thiếu nước uống cần thiết cho sự tồn tại cơ bản của con người, thực thể này rõ ràng thiếu khả năng duy trì sự cư trú của con người.

http://biendong.net/diem-tin/24750-quy-che-dao-da-trong-cong-uoc-lien-hop-quoc-ve-luat-bien-nam-1982-ly-luan-va-thuc-tien-o-bien-dong.html

 

Mỹ tuyên bố “tăng tốc” tuần tra biển Đông

Cố vấn An ninh Quốc gia Mỹ John Bolton hôm 13-11 tuyên bố Washington phản đối các hành động quân sự đơn phương của Trung Quốc trên biển Đông và đã “tăng tốc” các hoạt động tự do hàng hải tại đây.

Ông Bolton đưa ra tuyên bố trên trong lúc trò chuyện với các phóng viên bên lề các cuộc họp giữa ASEAN và các đối tác bên ngoài, bao gồm Mỹ và Trung Quốc, tại Singapore. Cũng trong dịp này, ông Bolton chia sẻ rằng Tổng thống Donald Trump đang chuẩn bị tiến hành thượng đỉnh Mỹ-Triều lần hai với nhà lãnh đạo Kim Jong-un.

Trước đó, theo sau Đối thoại An ninh và Ngoại giao Mỹ – Trung Quốc được tổ chức tại Washington hôm 9-11, Washington cũng lần đầu tiên trực tiếp kêu gọi Bắc Kinh rút hệ thống tên lửa bố trí trái phép ra khỏi quần đảo Trường Sa (thuộc chủ quyền của Việt Nam).

“Mỹ kêu gọi Trung Quốc rút các hệ thống tên lửa bố trí trái phép ra khỏi quần đảo Trường Sa. Mọi quốc gia nên tránh giải quyết tranh chấp bằng biện pháp cưỡng chế hoặc đe dọa” – tuyên bố của Mỹ nêu rõ.

Trung Quốc đã yêu cầu Mỹ và đồng minh ngưng triển khai tàu chiến và máy bay đến gần các thực thể mà Trung Quốc chiếm đóng và quân sự hóa trái phép trên biển Đông.

Bắc Kinh ngang nhiên tuyên bố chủ quyền gần 90% lãnh hải biển Đông bất chấp bị Mỹ và cộng đồng quốc tế chỉ trích.

Đáp lại, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Jim Mattis nhấn mạnh rằng Mỹ sẽ triển khai máy bay, tàu và hoạt động tại mọi khu vực được luật pháp quốc tế cho phép.

Trước đó, tại Đối thoại Shangri-La diễn ra ở Singapore vào tháng 6, ông Mattis đã đề cập đến mối đe dọa xuất phát từ việc Trung Quốc quân sự hóa biển Đông. Ông Mattis khẳng định Trung Quốc quân sự hóa biển Đông vì mục đích “đe dọa” và “bắt nạt”.

http://biendong.net/bi-n-nong/24743-my-tuyen-bo-tang-toc-tuan-tra-bien-dong.html

 

Phân định biển và hợp tác cùng phát triển:

Biện pháp thúc đẩy giải quyết tranh chấp

ở Biển Đông từ khía cạnh Luật quốc tế

Theo các quy định của Công ước Luật Biển năm 1982 (UNCLOS), phân định biển và hợp tác cùng phát triển là hai giải pháp chính mà các quốc gia có vùng biển chồng lấn có thể lựa chọn. Trong khi phân định biển thường phức tạp và kéo dài, hợp tác cùng phát triển có thể là một bước thúc đẩy đàm phán phân định biển hoặc là một giải pháp lâu dài mà các bên có thể chấp nhận trong và sau khi phân định biển. Tính đến thời điểm hiện tại, các nước ven Biển Đông đã nhiều lần tiến hành phân định và hợp tác trong vùng biển chồng lấn.

Cơ sở pháp lý cho việc phân định biển theo UNCLOS

Theo UNCLOS, cơ sở pháp lý cho phân định biển là Điều 15 về phân định lãnh hải, Điều 74(1) về phân định vùng đặc quyền kinh tế và Điều 83(1) về phân định thềm lục địa. Điều 15 quy định: “Khi hai quốc gia có bờ biển kề nhau hoặc đối diện nhau, không quốc gia nào được quyền mở rộng lãnh hải ra quá đường trung tuyến mà mọi điểm nằm trên đó cách đều các điểm gần nhất của các đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của mỗi quốc gia, trừ khi có sự thỏa thuận ngược lại. Tuy nhiên, quy định này không áp dụng trong trường hợp do có những danh nghĩa lịch sử hoặc có các hoàn cảnh đặc biệt khác cần phải hoạch định ranh giới lãnh hải của hai quốc gia một cách khác”. Điều 74 (1) quy định: “Việc hoạch định ranh giới vùng đặc quyền về kinh tế giữa các quốc gia có bờ biển tiếp liền hay đối diên nhau được thực hiện bằng con đường thỏa thuận theo đúng với pháp luật quốc tế như đã nêu ở Điều 38 của Quy chế Tòa án quốc tế để đi đến một giải pháp công bằng”. Điều 83 (1) quy định: “Việc hoạch định ranh giới thềm lục địa giữa các quốc gia có bờ biển tiếp liền hay đối diện nhau được thực hiện bằng con đường thỏa thuận theo đúng luật pháp quốc tế như đã được nêu ở Điều 38 của Quy chế tòa án quốc tế, để đi tới một giải pháp công bằng”.

Các đường phân định biển thường được xác lập theo một trong hai cách sau: thoả thuận thông qua đàm phán hoặc phán quyết phân định biển của các cơ quan tài phán. Cũng lưu ý rằng cùng một trường hợp nhưng kết quả phân định biển có thể khác nhau tuỳ thuộc vào các quốc gia lựa chọn tự đàm phán hay mang ra cơ quan tài phán quốc tế để phân định. Lý do là các quốc gia và cơ quan tài phán có quan điểm khác nhau về yếu tố nào là yếu tố quan trọng khi vạch đường phân định. Đối với các quốc gia có thể là yếu tố địa lý, lịch sử, chính trị, kinh tế, an ninh, lịch sử và bất kỳ yếu tố nào mà các quốc gia mong muốn để mang lại quyền lợi tốt nhất cho mình. Trong khi đó, không phải yếu tố nào cũng được các cơ quan tài phán cho là hợp lý và phù hợp để xem xét đến khi tiến hành phân định. Các cơ quan tài phán chú trọng đến yếu tố địa lý, địa mạo của bờ biển và khu vực biển cần phân định cũng như tỷ lệ tương xứng giữa chiều dài đường bờ biển và diện tích phân chia cho từng bên.

Cơ sở pháp lý cho việc hợp tác cùng phát triển

Cơ sở pháp lý cho việc hợp tác cùng phát triển khi chưa phân định được vùng biển chồng lấn được quy định tại Điều 74(3) đối với vùng đặc quyền kinh tế và Điều 83(3) đối với thềm lục địa của UNCLOS. Điều 74(3) quy định: “Trong khi chờ ký kết thỏa thuận ở khoản 1, các quốc gia hữu quan, trên tinh thần hiểu biết và hợp tác, làm hết sức mình để đi đến các dàn xếp tạm thời có tính chất thực tiễn và không phương hại hay cản trở việc ký kết các thỏa thuận dứt khoát trong giai đoán quá độ này. Các dàn xếp tạm thời không phương hại đến hoạch định cuối cùng”. Điều 83(3) quy định: “Trong khi chờ đợi ký kết thỏa thuận nói ở khoản 1, các quốc gia hữu quan trên tinh thần hiều biết, và hợp tác, làm hết sức mình để đi đến các giải pháp tạm thời có tính chất thực tiễn và để không phương hại hay cản trở việc ký kết các thỏa thuận dứt khoát trong giai đoạn quá độ này. Các dàn xếp tạm thời không phương hại đến việc hoạch định cuối cùng”. Theo nội dung trên, “các dàn xếp tạm thời có tính thực tiễn” là giải pháp tối ưu mà Công ước yêu cầu các quốc gia phải nỗ lực hết sức để đạt được trong khi chưa thể thoả thuận về một đường phân định phân chia vùng biển chồng lấn. Lưu ý rằng đây là nghĩa vụ nỗ lực, do đó không bắt buộc phải thực sự đạt được bất kỳ dàn xếp tạm thời nào.

Các dàn xếp tạm thời cũng có thể có những hình thức khác nhau tuỳ thuộc vào thoả thuận cụ thể của các bên liên quan. Việc hợp tác cùng phát triển là hình thức phổ biến nhất của các “dàn xếp tạm thời có tính thực tiễn”, chỉ các hoạt động hợp tác của các quốc gia liên quan trên vùng biển chồng lấn trong nhiều lĩnh vực liên quan. Hợp tác cùng phát triển bao gồm tất cả các hoạt động liên quan đến mọi quyền chủ quyền và quyền tài phán mà các quốc gia liên quan cùng có trên vùng biển chồng lấn, cụ thể là theo Điều 56 và Điều 77 của UNCLOS: Điều 56 về “Các quyền, quyền tài phán và các nghĩa vụ của các quốc gia ven biển trong vùng đặc quyền về kinh tế” quy định: (1) Trong vùng đặc quyền về kinh tế, quốc gia ven biển có: a) Các quyền thuộc chủ quyền về việc thăm dò khai thác, bảo tồn và quản lý các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật, của vùng nước bên trên đáy biển, của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, cũng như về những hoạt động khác nhằm thăm dò và khai thác vùng này vì mục đích kinh tế, như việc sản xuất năng lượng từ nước, hải lưu và gió. b) Quyền tài phán theo đúng những quy định thích hợp của Công ước về việc: Lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình; Nghiên cứu khoa học về biển; Bảo vệ và gìn giữ môi trường biển; c) Các quyền và các nghĩa vụ khác do Công ước quy định. (2) Trong vùng đặc quyền về kinh tế, khi thực hiện các quyền và làm các nghĩa vụ của mình theo Công ước, quốc gia ven biển phải tính đến các quyền và nghĩa vụ của các quốc gia khác và hành động phù hợp với Công ước. (3) Các quyền có liên quan đến đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nêu trong điều này được thực hiện theo đúng phần VI.

Trong khi đó, Điều 77 về “Các quyền của các quốc gia ven biển đối với thềm lục địa” quy định: (1) Quốc gia ven biển thực hiện các quyền thuộc chủ quyền đối với thềm lục địa về mặt thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên của mình. (2) Các quyền nói ở khoản 1 có tính chất đặc quyền, nghĩa là các quốc gia ven biển không thăm dò thềm lục địa hay không khai thác tài nguyên thiên nhiên của thềm lục địa, thì không ai có quyền tiến hành các hoạt động như vậy, nếu không có sự thỏa thuận rõ ràng của quốc gia đó. (3) Các quyền của quốc gia ven biển đối với thềm lục địa không phụ thuộc vào sự chiếm hữu thực sự hay danh nghĩa, cũng như vào bất cứ tuyên bố rõ ràng nào. (4) Các tài nguyên thiên nhiên ở phần này bao gồm các tài nguyên thiên nhiên khoáng sản và các tài nguyên thiên nhiên không sinh vật khác của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, cũng như các sinh vật thuộc loại định cư, nghĩa là những sinh vật nào, ở thời kỳ có thể đánh bắt được, hoặc nằm bất động ở đáy, hoặc lòng đất dưới đáy; hoặc là không có khả năng di chuyển nếu không có khả năng tiếp xúc với đáy hay lòng đáy dưới đáy biển.

Căn cứ vào Điều 56 và 77 các quốc gia có vùng biển chồng lấn đặc quyền kinh tế và thềm lục địa có thể có các hợp tác đa dạng trên rất nhiều lĩnh vực. Trong hình thức hợp tác cùng phát triển cũng có nhiều biến thể khác nhau về đối tượng hợp tác (như dầu khí, hải sản, tuần tra-kiểm soát, an ninh, tìm kiếm cứu nạn, nghiên cứu khoa học biển,…) và mô hình khác nhau (uỷ ban liên hợp, thành lập liên doanh, giao khoán cho một bên thực hiện, tuần tra chung,…). Ngoài ra, dàn xếp tạm thời cũng có thể dưới hình thức là một thoả thuận xác định đường phân chia tạm thời. Đây là việc các quốc gia thoả thuận với nhau về một đường tạm thời phân chia khu vực hoạt động giữa hai nước nhằm tránh va chạm, xung đột không cần thiết. Đường này có thể ngầm định theo lịch sử quản lý trên thực địa hoặc có thể xác định bằng thoả thuận.

Theo Điều 74(3) và 83(3), việc xác định đường phân chia tạm thời và hợp tác cùng phát triển hay các hình thức dàn xếp tạm thời khác đều không ảnh hưởng đến việc phân định biển sau này. Nói cách khác các bên không được viện dẫn bất kỳ thực tiễn hay hoạt động của mình theo dàn xếp tạm thời trong quá trình phân định biển sau này. Hợp tác cùng phát triển cũng

có thể được tiến hành sau khi phân định biển. Cơ sở pháp lý cho hợp tác cùng phát triển sau khi phân định biển là thỏa thuận giữa các quốc gia, thông thường được ký kết bên cạnh thỏa thuận phân định hoặc được ghi nhận trực tiếp trong thỏa thuận phân định biển giữa các quốc gia. Các thỏa thuận này đặt trên cơ sở tự do ý chí và nguyên tắc bình đẳng chủ quyền của các quốc gia liên quan theo luật pháp quốc tế nói chung. UNCLOS cũng không ngăn cản các quốc gia ký kết các thỏa thuận này trong chừng mực các thỏa thuận phù hợp với Công ước và không ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của các quốc gia khác.

Phân định biển, xác định đường phân chia tạm thời và hợp tác cùng phát triển

Để xử lý các vùng chồng lấn biển giữa các quốc gia có bờ biển đối diện hoặc liền kề, các quốc gia có thể lựa chọn một trong các giải pháp sau: phân định biển và xác lập ranh giới phân chia vùng biển chồng lấn; xác định một đường phân chia tạm thời hoặc tiến hành hợp tác cùng phát triển. Tuỳ tình hình thức tế, các quốc gia cũng có thể lựa chọn một trong các giải pháp hoặc kết hợp các giải pháp trên với nhau. Giải pháp tốt nhất cho các quốc gia liên quan là có thể phân định và xác định rõ ràng đường ranh giới trên biển. Việc xác định rõ ràng đường phân định biển sẽ có vai trò rất lớn trong việc giảm nguy cơ xung đột an ninh và chính trị giữa các quốc gia. Có thể nói các tranh chấp biên giới lãnh thổ, bao gồm cả tranh chấp biển, có nguy cơ đe dọa rất cao đến quan hệ giữa các quốc gia và có thể ảnh hưởng lớn đến vấn đề chiến tranh và hòa bình giữa các bên. Do đó việc phân định rõ ràng các vùng biển sẽ loại trừ nguy cơ này. Hơn nữa, việc phân định biển sẽ mang lại sự chắc chắn, rõ ràng về mặt pháp lý, qua đó thúc đẩy hoạt động kinh tế. Các công ty dầu khí sẽ an tâm khi đầu tư; ngư dân có định hướng, kế hoạch phát triển nghề cá khi họ biết rõ vùng biển được phép đánh bắt và trữ lượng cá ở khu vực đó. Phân định biển là giải pháp tốt nhất nhưng trong nhiều trường hợp không phải là giải pháp khả thi nhất.

Phân định biển thường rất phức tạp và các cuộc đàm phán sẽ đòi hỏi nhiều thời gian. Trong khi chưa đạt được kết quả phân định cuối cùng, nguy cơ an ninh và chính trị vẫn tồn tại, các xung đột, va chạm trên biển vẫn xảy ra gây bất ổn khu vực và kìm hãm các hoạt động kinh tế, gây thiệt hại cho các quốc gia liên quan. Trong ba giải pháp trên, việc xác định đường phân chia tạm thời và hợp tác cùng phát triển có thể đóng vai trò tạm thời giúp các bên có thể tăng cường hợp tác, tránh xung đột hay va chạm trong vùng biển chồng lấn. Hai giải pháp còn lại có thể tạo cơ sở cho các cuộc đàm phán tiếp theo hướng đến một đường phân định biển cuối cùng giữa các quốc gia liên quan. Trong đó, hợp tác cùng phát triển có thể được tiến hành trước hoặc sau khi phân định biển.

Phân định biển giữa Việt Nam với các nước trong khu vực Biển Đông

Phân định biển giữa Việt Nam với các nước trong khu vực Biển Đông là một quá trình lâu dài và phức tạp, do quan điểm chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán giữa các quốc gia còn nhiều sự khác biệt. Để có đường biên giới trên biển rõ ràng, hòa bình Việt Nam đã nỗ lực kiên trì, kiên quyết đàm phán với các quốc gia hữu quan về phân định biển dựa trên các quy định của luật pháp quốc tế, luất biển quốc tế nhất là các quy định của UNCLOS.

Trong lĩnh vực phân định biển, Việt Nam luôn luôn kiên định mục tiêu đảm bảo lợi ích quốc gia trên các vùng biển và hải đảo. Việt Nam là một trong những quốc gia có bờ biển dài và vùng biển rộng, tiếp giáp với nhiều quốc gia trong khu vực Biển Đông. Để có đường biên giới trên biển đảm bảo tính công bằng, hòa bình và ổn định lâu dài, Việt Nam đã và đang tiến hành đàm phán với Trung Quốc, Philippines, Indonesia, Malaysia và Campuchia.

Phân định biển giữa Việt Nam và Thái Lan: Hai nước có vùng biển chồng lấn nằm trong Vịnh Thái Lan là nơi có nhiều tài nguyên thiên nhiên bao gồm hải sản, dầu khí. Từ năm 1992 – 1997, Việt Nam và Thái Lan tiến hành đàm phán và đã ký hiệp định vạch đường ranh giới vùng biển đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa giữa hai bên theo một đường dài khoảng 74 hải lý (137 km). Đây là hiệp định về phân định vùng biển đầu tiên Việt Nam ký kết với các quốc gia láng giềng. Sau khi ký kết, hoạt động quản lý biển, đánh bắt hải sản đi vào nền nếp, tình hình trên biển ổn định, công cuộc thăm dò khai thác dầu khí hai bên đường ranh giới của hai bên được tiến hành mạnh mẽ và đạt được kết quả tích cực. Hiện hai bên cũng đã triển khai công tác tuần tra chung giữa các lực lượng kiểm tra, kiểm soát trên biển của 2 nước mở rộng hợp tác trong lĩnh vực phòng chống tội phạm trên biển như đánh bắt hải sản trái phép, cướp có vũ trang trên biển… góp phần ổn định tình hình trên biển, tăng cường lòng tin, sự hợp tác và quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam và Thái Lan.

Phân định biển giữa Việt Nam và Malaysia: Trong khu vực cửa vịnh Thái Lan, giữa Việt Nam và Malaixia có một khu vực chồng lấn hẹp rộng khoảng 2.800 km2. Vào đầu năm 1940 trong khu vực chồng lấn giữa hai quốc gia, đã phát hiện ra ba mỏ dầu khí có thể khai thác thương mại. Năm 1992, hai bên bắt đầu đàm phán và nhận thấy rằng nếu đi vào bàn vấn đề vạch đường biên giới trong khu vực chồng lấn này thì có thể đòi hỏi phải có nhiều thời gian, không thể khai thác sớm các mỏ dầu khí phục vụ cho phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia, khu vực chống lấn không quá lớn, có thể hợp tác quản lý. Do đó, căn cứ vào quy định về biện pháp tạm thời trong khi chờ đợi giải quyết vấn đề biên giới, hai bên nhất trí ký kết thoả thuận về “hợp tác khai thác chung” vùng chồng lấn từ năm 1992 trên cơ sở bình đẳng về mọi mặt: vốn đầu tư, chia lợi nhuận, quản lý, không ảnh hưởng đến giải pháp vạch đường biên giới sau này. Hai bên giao cho Tổng công ty Dầu khí Việt Nam (Petro Việt Nam) và Tổng công ty Dầu khí quốc gia Malaixia (Petronas) thay mặt hai Chính phủ ký kết và thực hiện thoả thuận thương mại hợp tác khai thác, lập uỷ ban điều phối chung. Đây là thoả thuận về hợp tác khai thác chung dầu khí đầu tiên của Việt Nam với các quốc gia láng giềng.

Phân định biển giữa Việt Nam và Trung Quốc: Vịnh Bắc Bộ là vịnh nằm giữa Việt Nam và Trung Quốc, rộng khoảng 126.250 km2, chiều ngang nơi rộng nhất khoảng 310 km (176 hải lý), nơi hẹp nhất khoảng 220 km (119 hải lý). Vịnh là nơi có nhiều tài nguyên thiên nhiên về hải sản, có tiềm năng quan trọng. Từ lâu, nhân dân hai nước đã tiến hành sử dụng, khai thác vùng biển trong vịnh Bắc Bộ. Cuộc đàn phán giữa 2 nước về vịnh Bắc Bộ bắt đầu từ năm 1974 qua 3 giai đoạn 1974, 1977 – 1978 và 1992 – 2000, kéo dài trong khoảng 27 năm. Ngày 25/12/2000, Việt Nam và Trung Quốc đã ký hiệp định về phân định lãnh hải, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa trong vịnh Bắc Bộ. Hiệp định có hiệu lực từ ngày 30/6/2004. Trong đàm phán, hai bên đã thống nhất vạch một đường biên giới nối 21 điểm, trong đó đoạn từ điểm 1 – 9 là biên giới lãnh hải, từ điểm 9 – 21 là ranh giới chung cho cả vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa. Đường biên giới biển này trong vịnh Bắc Bộ dài tổng cộng khoảng 500 km. Theo đường hoạch định, phía Việt Nam được hưởng 53,23% diện tích vịnh. Trung Quốc được 46,77% diện tích vịnh. Về diện tích, vùng biển phía Việt Nam hơn phía Trung Quốc khoảng 8.205 km2. Các đảo ven bờ Đông Bắc Việt Nam có hiệu lực một phần, đảo Bạch Long Vĩ nằm xa ngoài giữa vịnh gần đường biên giới nhưng vẫn có hiệu lực 25%, đảo Cồn Cỏ có hiệu lực 50%. Tất cả các kết quả này đạt được là do hai bên áp dụng luật quốc tế, bao gồm cả việc sử dụng phương pháp đường trung tuyến có điều chỉnh và được quyết định bởi yếu tố điều kiện và hoàn cảnh địa lý tự nhiên khách quan của vịnh Bắc Bộ. Đây là hiệp định vạch biên giới biển biển thứ hai Việt Nam ký với nước liên quan.

Phân định biển giữa Việt Nam và Campuchia: Việt Nam và Campuchia đã ký hiệp định về vùng nước lịch sử, trong đó xác định rõ chủ quyền đảo của bên theo một đường mà Toàn quyền Đông Dương Brévíe đề xuất năm 1939, thiết lập một vùng nước lịch sử chung hai bên cùng nhau kiểm soát và quản lý, hoạt động đánh bắt hải sản được thực hiện theo tập quán như cũ, mọi hoạt động liên quan đến thăm dò dầu khí phai có ý kiến nhất trí của bên kia. Hiện nay, giữa hai nước chỉ còn tồn tại vấn đề vạch đường biên giới biển chung trong vùng nước lịch sử, lãnh hải và ranh giới biển chung trong vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa.

Phân định biển giữa Việt Nam và Indonesia: Giữa hai nước có vấn đề vạch ranh giới chung vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa. Vùng biển chồng lấn giữa hai nước trong thời gian tới, hai bên sẽ tiếp tục giải quyết và được phân định về đặc quyền kinh tế. Việt Nam và Indonesia đã tiến hành đàm phán giải quyết từ năm 1978 trên cơ sở áp dụng pháp luật và thực tiễn quốc tế vào điều kiện tự nhiên cụ thể của vùng biển chồng lấn liên quan. Trong quá trình giải quyết, hai bên đã xem xét các khía cạnh như ảnh hưởng của quy chế quốc gia quần đảo trong vạch biên giới biển, hiệu lực của các đảo như Côn Đảo của Việt Nam và các đảo Natuna Bắc của Indonesia, chiều dài hướng chung của đường bờ biển có liên quan của mỗi bên, sự kéo dài tự nhiên của thềm lục địa, việc áp dụng hợp lý phương pháp vạch đường trung tuyến… nhằm cố gắng đạt được một giải pháp công bằng. Đến ngày 26/6/2003, hai nước đã ký kết hiệp định về phân định thềm lục địa và đạt được thảo thuận và lập được đường biên giới trên biển đầu tiên giữa 2 nước. Trong thời gian tới, hai bên sẽ tiếp tục giải quyết vấn đề phân định vùng đặc quyền kinh tế.

Phân định biển giữa Việt Nam và Philippines: Philippines vốn là nước không có chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Bởi vì, Hiệp định Paris ký năm 1898 giữa Mỹ và Tây Ban Nha, đã quy định Tây Ban Nha bàn giao Philippines cho Mỹ quản lý. Hiệp định xác định phạm vi lãnh thổ quần đảo Philippines trên bản đồ kèm theo thì lãnh thổ của Philippines không bao gồm một đảo nào nằm trong quần đảo Trường Sa. Trong lúc Việt Nam đang tập trung nhiệm vụ giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, lợi dụng tình hình đó từ năm 1971 đến năm 1973 Philippines đã đưa quân chiếm trái phép năm đảo ở phía Bắc và phía Đông Bắc của quần đảo Trường Sa là: Vĩnh Viễn, Bình Nguyên, Loại Ta, Thị Tứ và Song Tử Đông. Để giảm quyết tình hình, ngày 07/11/1995, Bộ Ngoại giao Việt Nam và Philippines đã bắt đầu tiến hành đàm phán. Kết quả đàm phán đã đạt được thỏa thuận về 9 nguyên tắc ứng xử cơ bản đối với vùng biển đảo có tranh chấp trong khu vực Biển Đông, trong đó có những nội dung chính: (i) Hai bên đồng ý thông qua thương lượng, hòa bình tìm kiếm các giải pháp cơ bản cho vấn đề tranh chấp chủ quyền trên quần đảo Trường Sa. (ii) Hai bên tự kiềm chế không sử dụng hay đe dọa sử dụng vũ lực, thúc đẩy hợp tác song phương hoặc đa phương về bảo vệ và gìn giữ môi trường biển, nghiên cứu khoa học, khí tượng, chống thảm hoạ, tìm kiếm cứu nạn và cứu hộ, chống cướp biển và kiểm soát ô nhiễm môi trường biển, bảo vệ tài nguyên biển ở khu vực quần đảo Trường Sa. (iii) Bảo đảm tự do hàng hải theo thực tiễn của luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS. (iv) Hai bên từng bước tăng cường hợp tác và giải quyết dứt điểm tranh chấp chủ quyền ở quần đảo Trường Sa.

Tuy nhiên, do quan điểm chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam giữa hai nước có sự khác biệt, cho nên quá trình đàm phán phân định biển giữa Việt Nam và Philippines vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Song hai bên vẫn cam kết giải quyết những bất đồng mâu thuẫn bằng biện pháp hòa bình, thông qua đàm phán, dựa trên những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, luật biển quốc tế, nhất là những quy định của UNCLOS.

http://biendong.net/goc-nhin-moi/24692-phan-dinh-bien-va-hop-tac-cung-phat-trien-bien-phap-thuc-day-giai-quyet-tranh-chap-o-bien-dong-tu-khia-canh-luat-quoc-te.html

 

Biển Đông : Năm 2019

sẽ hoàn tất “Văn bản dự thảo sơ bộ” COC

Trọng Thành

Hôm nay 14/11/2018, tại thượng đỉnh ASEAN đang diễn ra ở Singapore, tổng thống Philippines thông báo năm tới 2019, ASEAN và Trung Quốc sẽ hoàn tất « Văn bản dự thảo sơ bộ » sẽ được chính thức dùng làm cơ sở cho thương lương về Bộ Quy tắc Ứng xử tại Biển Đông (gọi tắt là COC).

Báo chí Philippines cho hay, trong một tuyên bố chung hôm nay đọc tại Thượng đỉnh ASEAN – Trung Quốc, tổng thống Philippines Rodrigo Duterte – đồng chủ tịch của các đàm phán giữa ASEAN với Trung Quốc về Bộ Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông – cho biết trong những tháng qua, các nước Đông Nam Á và Trung Quốc đã liên tục có các tiến bộ trong giai đoạn đầu tiên của đàm phán về « Văn bản dự thảo sơ bộ» (tên chính thức là Single Draft COC Negotiating Text, gọi tắt là Văn bản SDNT), sẽ dùng cho thương lượng sau đó.

Ông Duterte hứa hẹn, « với tư cách là đồng chủ tịch các đàm phán », Philippines sẽ nỗ lực phối hợp với các thành viên ASEAN, cũng như với Trung Quốc để thúc đẩy nhanh chóng hoàn tất « Văn bản dự thảo sơ bộ ».

Về phía Bắc Kinh, vẫn theo báo chí Philippines, thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường cũng khẳng định mục tiêu hoàn tất SDNT vào năm tới, với triển vọng chung là thông qua Bộ Quy tắc COC trong vòng 3 năm. Lãnh đạo Trung Quốc bày tỏ hy vọng là COC sẽ cho phép duy trì hòa bình và ổn định tại Biển Đông, tạo điều kiện cho thương mại phát triển.

Tham vọng của Trung Quốc tại Biển Đông vẫn là một mối lo ngại lớn. Theo truyền thông Hoa Kỳ, hôm qua 13/11, bên lề thượng đỉnh với khối ASEAN tại Singapore, cố vấn an ninh quốc gia của tổng thống Mỹ, ông John Bolton, đã cảnh báo chính quyền Bắc Kinh là Washington sẽ kiên quyết chống lại mọi mưu toan cản trở tự do hàng hải tại các vùng biển quốc tế ở Biển Đông, khu vực mà Bắc Kinh vẫn coi là gần như toàn bộ thuộc chủ quyền mình.

Đàm phán về một Bộ Quy tắc Ứng xử tại Biển Đông COC là mục tiêu được đưa ra trong Tuyên bố về Ứng xử của Các Bên ở Biển Đông (năm 2002) nhằm bảo vệ hòa bình và thúc đẩy hợp tác giữa các nước ASEAN và Trung Quốc tại khu vực. Dự án COC bế tắc trong hơn 10 năm. Năm 2016 Trung Quốc bị xử thua trong vụ kiện Biển Đông, mà Philippines khiếu nại lên Tòa Trọng Tài Thường Trực.

Năm ngoái 2017, Bắc Kinh đột nhiên muốn thúc đẩy đàm phán. Nhiều người hy vọng việc ASEAN và Trung Quốc đạt được COC sẽ giúp Biển Đông lặng sóng. Nhưng không ít chuyên gia lo ngại Trung Quốc gây áp lực lên các nước nhỏ trong thương thuyết, gây chia rẽ, hoặc dùng đàm phán đã câu giờ, nhằm thực thi chính sách lấn dần từng bước. Còn đối với một số nước ASEAN, một Bộ COC không mang tính « ràng buộc » sẽ không ngăn chặn được tham vọng của Bắc Kinh.

http://vi.rfi.fr/chau-a/20181114-bien-dong-nam-2019-se-hoan-tat-van-ban-du-thao-dam-phan-giua-asean-va-trung-quoc