Tin khắp nơi – 04/11/2018
Hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ dẫn đầu
đoàn chiến hạm trong cuộc tập trận tại Nhật Bản
Tokyo, Nhật Bản – Vào hôm Thứ Bảy (3/11), các chiến đấu cơ của Hoa Kỳ đã bay qua Tây Thái Bình Dương khi hàng không mẫu hạm chạy bằng năng lượng nguyên tử USS Ronald Reagan tham gia cùng các tàu khu trục Nhật Bản và chiến hạm Canada trong cuộc tập trận lớn nhất từng được tổ chức tại Nhật Bản.
Nhật Bản và Hoa Kỳ đã huy động 57,000 thủy thủ, thủy quân lục chiến và phi công cho cuộc tập trận Keen Sword được tổ chức hai năm một lần, tức nhiều hơn 11,000 binh lính tham gia so với hồi năm 2016. Nội dung tập trận bao gồm chiến đấu không quân mô phỏng, đổ bộ và phòng thủ hỏa tiễn đạn đạo. Đạo quân gồm 47,000 binh sĩ của Nhật Bản chiếm 1/5 các lực lượng quân sự của quốc gia.
Chuẩn Đô đốc Karl Thomas, chỉ huy của nhóm hàng không mẫu hạm tấn công, cho biết lực lượng của ông hiện diện tại đây là để ổn định và duy trì khả năng chiến đấu của Mỹ-Nhật nếu cần thiết. Các cuộc tập trận như Keen Sword chính là những gì lực lượng của ông cần làm. Tám tàu khác cũng đã tham gia vào cuộc tập trận chống tàu ngầm cùng hàng không mẫu hạm, trong cuộc phô trương lực lượng trong vùng biển mà Washington và Tokyo lo sợ sẽ ngày càng bị chi phổi bởi Bắc Kinh.
Chuẩn Đô đốc Hiroshi Egawa, chỉ huy của các tàu Nhật Bản cho biết, liên minh Hoa Kỳ – Nhật Bản là cần thiết cho sự ổn định trong khu vực này, cũng như vùng Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương nói chung.
Tàu USS Ronald Reagan có căn cứ tại thành phố Yokosuka gần Tokyo, và là chiến hạm lớn nhất của Hoa Kỳ ở châu Á, với đội ngũ gồm 5,000 thủy thủ và khoảng 90 chiến đấu cơ F-19 Super Hornet. (Mộc Miên)
Quân đội đặt hàng rào dây thép gai
tại biên giới Hoa Kỳ-Mexico
Washington, DC – Vào Thứ Sáu (2 tháng 11), khi mà đơn vị quân sự Hoa Kỳ đầu tiên được điều động đến biên giới Hoa Kỳ-Mexico, cùng với hàng rào dây thép chắn ngang sông và nhiều cây cầu, cả khu vực Rio Grande Valley chìm trong một bầu không khí căng thẳng.
Các đơn vị quân đội Hoa Kỳ ở San Antonio và các địa điểm khác ở các tiểu bang Texas, California và Arizona đang trải qua quá trình đào tạo và hướng dẫn về quy định cụ thể dọc biên giới. Căn cứ Quân Sự San Antonio là một trong những địa điểm chính mà việc đào tạo đang được tiến hành. Một số cư dân ở khu vực Rio Grande Valley thắc mắc về sự cần thiết của sự hiện diện quân đội, đồng thời lo ngại rằng việc này sẽ làm xấu đi hình ảnh của khu vực.
Theo phân tích của Cơ quan Điều tra Liên bang, các thành phố Hoa Kỳ tại biên giới có tỷ lệ tội phạm bạo lực và tội phạm tài sản là rất thấp, nhưng sự hiện diện của quân đội sẽ khiến người ngoài nghĩ rằng các thành phố biên giới rất hỗn loạn. Bên cạnh đó, người dân nơi đây còn lo sợ về viễn cảnh bạo lực sẽ nổ ra khi đoàn người di dân Trung Mỹ đến được biên giới và đối mặt với quân đội Hoa Kỳ.
Ngũ Giác Đài cho biết họ đã điều động hơn 3,500 binh lính đến các căn cứ tại biên giới, nhưng vào Thứ Sáu, chỉ có khoảng 100 binh lính thực hiện công việc lắp đặt hàng rào dây thép tại cây cầu dẫn đến thành phố McAllen. Theo thông tin của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ, những binh lính được điều động đến chỉ đóng vai trò hỗ trợ và giúp đỡ các nhân viên biên giới. Tuy nhiên, Tổng thống Trump cho biết nếu đoàn người di dân có dấu hiệu bạo lực, những binh lính nói trên sẽ đáp trả bằng bạo lực.
Bà Conchita Padilla, một tình nguyện viên tại Bảo tàng Mỹ thuật Brownsville, cho biết bà tin rằng Hoa Kỳ có quyền bảo vệ biên giới, nhưng bà cũng lo sợ rằng nếu đoàn người di dân gây chiến với quân đội, nhiều người vô tội sẽ gánh chịu hậu quả. (Mộc Miên)
https://www.sbtn.tv/quan-doi-dat-hang-rao-day-thep-gai-tai-bien-gioi-hoa-ky-mexico/
Trump khoe tăng trưởng kinh tế trước hôm 6/11
Tổng thống Mỹ Donald Trump nói về sự tăng trưởng kinh tế và đề cập viễn cảnh u ám về nhập cư trong các cuộc vận động trước cuộc bầu cử hôm 6/11.
Trong khi đó, cựu phó tổng thống Joe Biden kêu gọi cử tri khước từ sự chia rẽ.
Vì sao bầu cử giữa kỳ ở Mỹ quan trọng?
Đảng ở nước Mỹ và Đảng ở Việt Nam
Tìm hiểu về cách phân khu vực bầu cử ở Mỹ
Theo Reuters, trong bối cảnh căng thẳng phân biệt chủng tộc dấy lên trước ngày bầu cử, cử tri ở Georgia nhận được nhiều cuộc gọi tự động dùng ngôn ngữ phân biệt chủng tộc và bài Do Thái.
Bang này có ứng viên Dân chủ chạy đua để trở thành nữ thống đốc da đen đầu tiên của Hoa Kỳ.
Thế kiểm soát ở cả hai viện quốc hội, hiện tại do đảng Cộng hòa nắm giữ, cũng như 36 ghế thống đốc bang sẽ bấp bênh khi cử tri Mỹ đi bầu hôm 6/11.
Các cuộc thăm dò ý kiến cho thấy đảng Dân chủ có nhiều cơ hội giành thêm tối thiểu 23 ghế để tái chiếm thế đa số tại Hạ viện.
Điều này giúp họ có thể điều tra chính quyền Trump và ngăn chặn chương trình nghị sự của ông.
Đảng Cộng hòa nhiều khả năng vẫn giữ quyền kiểm soát Thượng viện, gồm việc phê chuẩn đề cử của Trump cho các nhiệm kỳ trọn đời tại Tòa án tối cao.
“Kinh tế Mỹ đang phát triển nhanh chóng. Đảng Cộng hòa đã thông qua cắt giảm thuế lớn cho các gia đình cơ bản và chúng tôi sẽ sớm cắt giảm tiếp 10% thuế cho tầng lớp trung lưu,” ông Trump nói.
https://www.bbc.com/vietnamese/world-46088074
Bầu cử Mỹ ngày N-2 : Donald Trump
bảo vệ thành tích và dọa cử tri
Tại Hoa Kỳ, đây là hai ngày cuối tuần sau cùng trước khi diễn ra cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ tổng thống vào ngày thứ ba 06/11/2018. Trong lúc đảng Dân Chủ đối lập phải huy động cựu tổng thống Barack Obama « tái xuất võ đài » thì trong phe Cộng Hòa, đích thân tổng thống Donald Trump lên tuyến đầu vận động cho “gà nhà” ở Montana và Florida, một điều hi hữu trong lịch sử bầu cử Mỹ.
Từ New York, thông tín viên Grégoire Pourtier tường thuật :
Vận động tranh chiếc ghế thượng nghị sĩ ở Florida và Texas năm nay rất đắt : hai phe đã chi ra 91 triệu đôla. Cựu tổng thống Barack Obama đã đến đây và đương kim tổng thống Donald Trump tổ chức hai cuộc diễn thuyết cách nhau có mấy hôm.
Thứ Bảy, vẫn theo một chiến lược riêng, tổng thống Donald Trump ca ngợi tình hình kinh tế hưng thịnh của đất nước, và nhất là tìm cách hù dọa cử tri. Theo ông, đối lập Dân Chủ sẵn sàng mở toang cửa nước Mỹ cho « những đoàn di dân bất hợp pháp » trong đó có những kẻ « chuyên gây tội ác ».
Trong khi chính ông tìm cách hủy bỏ luật bảo hiểm y tế Obamacare, tổng thống Mỹ lại cảnh báo dân chúng là chính phe Dân Chủ có ý đồ « áp đặt chủ nghĩa xã hội tại Florida, tấn công vào hệ thống bảo hiểm y tế, làm cho cuộc sống của người dân trở thành khó khăn không chịu đựng nổi ».
Xứng danh là một chuyên gia với những công thức gây chấn động, tổng thống Donald Trump tuyên bố « Chào mừng Venezuela ». Với tài hùng biện trên sân khấu không người phản biện, Donald Trump tô điểm thành tích trong hai năm lãnh đạo, mà trong cử tọa không ai buồn phản bác những tuyên bố phóng đại, thậm chí nói dối của chủ nhân Nhà Trắng.
Trước một đám đông gần như bị thôi miên, tổng thống Donald Trump biểu dương sự lạc quan : « Hãy nghĩ đến những chuyện chúng ta đã làm được. Thành công rực rỡ nhất của một phong trào chính trị trong lịch sử nước Mỹ. Tôi có thể nói như thế và không ai có thể phủ nhận. Người ta có thể chống lại cái gì ? ».
Bầu cử giữa kỳ thường khi là một thách đố phức tạp đối với vị tổng thống đương nhiệm. Nhưng Donald Trump đã làm cho xã hội Mỹ phân cực tối đa đến mức thử thách năm nay tăng lên gấp mười.
http://vi.rfi.fr/quoc-te/20181104-bau-cu-my-ngay-n-2-donald-trump-bao-ve-thanh-tich-va-doa-cu-tri
Bầu cử giữa kỳ ở Mỹ ‘ngốn’ hơn 5 tỷ đôla
Cuộc đua giành quyền kiểm soát Hạ viện và Thượng viện Mỹ tiêu tốn hơn 5,2 tỷ đôla, theo Reuters.
Hãng tin Anh dẫn lời một trung tâm nghiên cứu phi đảng phái ở thủ đô Washington DC nói rằng đây là mức chi tiêu kỷ lục cho một cuộc bầu cử giữa kỳ.
Tin cho hay, chi phí của phía Dân chủ cho cuộc đua vào Hạ viện đã tăng lên 60%, hơn mức 44% năm 2014.
Trong khi đó, phe Cộng hòa đang tìm cách tiếp tục thống trị cơ quan lập pháp của Hoa Kỳ.
Phần lớn số tiền tỷ trên được chi cho các quảng cáo trên mọi phương tiện, các cuộc gọi điện thoại tự động hay các tờ rơi.
Reuters dẫn lời giám đốc một trung tâm nghiên cứu chính trị ở thủ đô của Mỹ nói rằng lý do dẫn tới mức chi tiêu trên đó chính là Tổng thống Donald Trump.
Bà Sheila Krumholz được trích lời nói rằng cuộc bầu cử giữa kỳ lần này có thể được coi là “một cuộc trưng cầu dân ý về cuộc bầu cử tổng thống năm 2016”.
Các ứng viên của Đảng Dân chủ mong giành được thêm 23 ghế tại Hạ viện và hai ghế tại Thượng viện để chiếm quyền kiểm soát cả hai viện của Quốc hội Mỹ nhằm khống chế chương trình nghị sự của Tổng thống Donald Trump.
https://www.voatiengviet.com/a/bau-cu-giua-ky-o-my-ngon-hon-nam-ty-dola/4644056.html
Giới quân sự bày tỏ lo lắng khi Hoa Kỳ
cắt giảm hiện diện quân sự ở Trung Đông
Washington, DC – Theo tin từ tờ Washington Post, các viên chức quân sự hiện đang lo lắng trước việc Hoa Kỳ cắt giảm hiện diện quân sự ở Trung Đông, khiến các quốc gia này khó có thể phản ứng trước mối nguy hiểm từ Iran, nhất là khi khu vực Trung Đông đang căng thẳng sau khi Tổng thống Trump áp đặt lệnh trừng phạt lên Iran.
Mối quan tâm của Hoa Kỳ ở Trung Đông dần suy giảm khi Tổng thống Trump ưu tiên bảo vệ an ninh quốc gia, cạnh tranh quân sự với Trung Cộng và Nga thay vì các nhóm phiến quân, vốn luôn là mục tiêu hàng đầu kể từ sau vụ khủng bố ngày 11 tháng 9.
Theo tiết lộ của các viên chức quân sự yêu cầu được phép ẩn danh, Hoa Kỳ đã không điều động hàng không mẫu hạm đến Trung Đông từ tháng 3, đồng thời thu hồi nhiều hỏa tiễn Patriot và chiến đấu cơ F-22 Raptor. Sự thay đổi này diễn ra giữa lúc Iran công khai đe dọa đóng cửa eo biển Hormuz.
Các viên chức hải quân cho biết 4 hàng không mẫu hạm của Hoa Kỳ đang ở Trung Đông, một tàu đang hoạt động ở Bab al-Mandeb để giám sát mối đe dọa từ phiến quân Houthi tại Yemen và một tàu đang bảo trì tại cảng biển bán đảo Arab. Trong khi đó, Iran có ít nhất 1,000 tàu chạy với tốc độ nhanh và hàng ngàn quả mìn dưới nước.
Các viên chức ước tính nước này có thể lắp đặt 1,000 quả mìn trong vòng chưa đến 1 tuần, và chỉ cần vài quả mìn phát nổ là eo biển Hormuz sẽ tê liệt. Dù Hoa Kỳ có thiết bị dò mìn và trực thăng ở Bahrain nhưng quá trình gỡ mìn sẽ bị trì hoãn bởi hỏa tiễn và chiến hạm của Iran.
Cựu viên chức cao cấp Ngũ Giác Đài – ông Mara Karlin cho rằng đã đến lúc chuyển hướng quân sự ở Trung Đông để giảm bớt chi phí khổng lồ trong cuộc cạnh tranh quân sự với Moscow và Bắc Kinh. (Mộc Miên)
https://www.sbtn.tv/gioi-quan-su-bay-to-lo-lang-khi-hoa-ky-cat-giam-hien-dien-quan-su-o-trung-dong/
Cách bảo vệ
hệ thống thương mại thế giới khỏi Trump
Bất chấp kỳ vọng rằng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ sẽ tăng lãi suất, dòng vốn chảy vào Mỹ đã làm cho đồng đô la tăng giá so với đa số các đồng tiền chủ chốt.
Những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nhất là Argentina và Thổ Nhĩ Kỳ, những nước vốn đang gặp khó khăn về tài khóa có nguyên nhân từ bối cảnh chính trị. Brazil, Nam Phi và các quốc gia mới nổi của châu Á cũng bị ảnh hưởng – mặc dù đồng tiền của những quốc gia này giảm giá ở mức thấp hơn trong khoảng 10 đến 12 phần trăm. Và cả đồng nội tệ Australia và Trung Quốc cũng lần lượt giảm giá khoảng 8 phần trăm và 5 phần trăm.
Mức độ giảm giá đồng tiền tại các nền kinh tế khác nhau phản ánh nhận thức của các nhà đầu tư về sự khác biệt trong điều kiện kinh tế vĩ mô nền tảng của những nền kinh tế này, đặc biệt là mức độ thâm hụt tài khoản vãng lai và thâm hụt ngân sách, cũng như triển vọng chính sách của các nước này.
Sự tăng giá của đồng đô la đặt ra những câu hỏi về khả năng trả những khoản nợ định giá bằng đồng đô la của các quốc gia mới nổi và những khó khăn mà điều này sẽ gây ra cho hệ thống tài chính của họ. Kể cả nếu điều kiện kinh tế hiện tại cho thấy khả năng lây lan từ Argentina và Thổ Nhĩ Kỳ là thấp, Giám đốc điều hành IMF Christine Lagarde đã cảnh báo rằng “những điều này có thể thay đổi nhanh chóng”. Sự bất định đang hiện hữu là một mối đe dọa trước mắt và rõ ràng.
Bất trắc trong nền kinh tế thế giới đang trên đà gia tăng kể từ sau cuộc trưng cầu Brexit và việc Tổng thống Trump đắc cử hồi năm 2016, và hồi năm 2017 khi nước Mỹ rời khỏi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và đưa ra đe dọa áp đặt rào cản thương mại. Sự bất trắc này đã tăng cao hơn từ tháng Một năm 2018 khi Tổng thống Mỹ Donald Trump thực hiện những lời đe dọa của ông ta để khắc phục tình trạng thâm hụt thương mại song phương – những gì ông coi là ‘thương mại không công bằng’ đối với Mỹ – bằng cách áp đặt thuế quan lên tấm pin năng lượng mặt trời và máy giặt, sau đó là nhôm và thép.
Từ tháng Ba, sự bất trắc lớn nhất đến từ các xung đột thương mại kiểu ăn miếng trả miếng giữa Mỹ và Trung Quốc, bắt đầu với việc Mỹ áp đặt mức thuế 25 phần trăm lên lượng hàng xuất khẩu trị giá 50 tỷ đô của Trung Quốc. Trung Quốc trả đũa với mức thuế quan tương tự lên khối lượng thương mại tương tự từ Mỹ. Sau đó, Trump leo thang cuộc chiến thương mại hồi tháng Chín với thông báo áp mức thuế 10 phần trăm lên 200 tỷ đô la hàng xuất khẩu của Trung Quốc tới Mỹ.
Xung đột thương mại Mỹ-Trung và sự bất trắc vây quanh nó được dự kiến sẽ gây ảnh hưởng tới dòng chảy thương mại và đầu tư toàn cầu. Ảnh hưởng của sụt giảm xuất khẩu từ Trung Quốc tới Mỹ đối với tăng trưởng của Trung Quốc sẽ làm giảm nhập khẩu của Trung Quốc, sau đó sẽ tác động tới nhiều quốc gia vốn coi Trung Quốc là đối tác thương mại chính.
Điều này có nghĩa rằng Trung Quốc và các quốc gia đối mặt với rào cản thương mại từ Mỹ sẽ tìm kiếm thị trường mới cho sản phẩm của họ. Bối cảnh này đã khiến một số quốc gia áp đặt rào cản hoặc tiến hành các cuộc điều tra tự vệ thương mại, ví dụ như đối với mặt hàng thép. Sự bất trắc này đang và sẽ tiếp tục ảnh hưởng tới thương mại và đầu tư khi các doanh nghiệp đánh giá mức độ ảnh hưởng của sự gia tăng rào cản thương mại đối với chuỗi cung ứng của họ.
Bây giờ vẫn còn khá sớm để có thể đánh giá được mức độ gián đoạn sẽ nghiêm trọng đến thế nào, bởi vì phân tích chuỗi cung ứng là rất khó. Nhưng tổn thất cuối cùng sẽ là rất lớn bởi vì các doanh nghiệp sẽ phải đánh giá lại các quyết định thương mại và đầu tư của họ để bảo vệ bản thân trước các hàng rào thuế quan thay vì tìm cách tối đa hóa sức cạnh tranh của mình.
Một phương diện đáng lo ngại nhất là nước Mỹ, sau 75 năm trong vai trò người ủng hộ lớn nhất, giờ đã trở thành mối đe dọa lớn nhất đối với tương lai của hệ thống thương mại dựa trên luật lệ vốn có thể dự đoán được và công bằng cho thương mại thế giới. Không có ánh sáng nào rõ ràng ở phía cuối đường hầm.
Câu hỏi mấu chốt là: Mục đích của Trump là gì? Có phải là thay đổi luật chơi để tăng lợi ích cho nước Mỹ và giải quyết vấn đề “chính sách định hướng phi thị trường” của Trung Quốc, hay là chống thương mại và Nước Mỹ trước tiên? Giả sử là điều đầu tiên thì có ít nhất ba phản ứng quan trọng cần được nhắc đến.
Đầu tiên là bảo vệ sự ổn định của Tổ chức Thương mại Thế giới trong vai trò một khuôn khổ chung dự đoán đoán được, công bằng và ổn định. Để đạt được mục tiêu này, các cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO phải tiếp tục hoạt động hiệu quả. Một bài kiểm tra là vụ kiện của Trung Quốc và châu Âu chống lại mức thuế quan của Mỹ đối với sản phẩm thép và nhôm, và vượt qua sự ngăn cản của Mỹ đối với việc bổ nhiệm hội đồng thẩm phán.
Để đảm bảo rằng Mỹ không sử dụng các công cụ đơn phương lộ liễu để giải quyết những lo ngại của mình có nghĩa là các quy tắc của WTO cần được cải cách. Nhiều việc cần phải được hoàn thành hơn để giải quyết những vấn đề liên quan tới quyền sở hữu trí tuệ, đầu tư, môi trường, lao động, chính sách cạnh tranh, trợ giá, thuế, dữ liệu điện tử và đối xử đối với các quốc gia đang phát triển.
Thứ hai, quá trình hội nhập phải tiếp tục, có hoặc không có nước Mỹ. Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) là một điểm khởi đầu tốt đẹp. Và điều tối quan trọng là Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) phải được hoàn tất vào tháng 11 năm nay. Đây là những tiến trình quan trọng cho thấy sự cam kết tiếp tục của Đông Á đối với mở rộng thị trường và thúc đẩy dòng chảy thương mại và đầu tư.
Thứ ba, và là điều mà đa số đồng ý là quan trọng nhất, là cải cách đơn phương. Trong thời kỳ gia tăng bất ổn toàn cầu và không gian chính sách giới hạn cho việc kích cầu, cải cách cấu trúc là một điều bắt buộc đối với các quốc gia Đông Á, đặc biệt là Trung Quốc. Các cải cách này liên quan tới thương mại và đầu tư, cũng như về chính sách cạnh tranh, tài sản trí tuệ, vai trò của doanh nghiệp nhà nước và phát triển bền vững. Quá khứ cho thấy các cải cách đơn phương có nhiều khả năng thành công hơn khi có áp lực từ các quốc gia khác và sự đối chiếu với các cam kết quốc tế.
Nếu thiếu đi nỗ lực chung và sự đoàn kết của nhóm lãnh đạo thiện chí, bao gồm châu Âu và Đông Á, tương lai của hệ thống thương mại dựa trên luật lệ sẽ tiếp tục bị đe dọa.
http://biendong.net/goc-nhin-moi/24517-cach-bao-ve-he-thong-thuong-mai-the-gioi-khoi-trump.html
Nước Nga trong mắt người TQ
Trung Quốc (TQ) hiện đang có quan hệ nhìn bề ngoài rất thân thiện với Nga. Nhiều người cho rằng đó chỉ là một cuộc “hôn nhân vụ lợi”, bởi lẽ nếu đi sâu tìm hiểu sẽ có thể thấy mối quan hệ giữa hai nước lớn này tồn tại những vấn đề có lịch sử rất phức tạp, tới mức coi nhau là kẻ thù tiềm tàng lớn nhất (mời đọc “Người Nga nghĩ gì trước sự trỗi dậy của TQ”).
Mối quan hệ đó có ảnh hưởng sâu xa tới tình hình TQ, Nga cũng như tình hình thế giới, kể cả Việt Nam. Những người TQ mang tư tưởng bành trướng Đại Hán (như tác giả bài dưới đây) kết tội Nga và Liên Xô là “hàng xóm xấu” chủ yếu vì đã xâm chiếm nhiều lãnh thổ của TQ, theo họ là tới gần 6 triệu km2 (bằng 60% diện tích đại lục TQ hiện nay)! Không ít người TQ tin theo quan điểm này và vì vậy họ căm ghét Nga và Liên Xô hơn cả Mỹ. Thực ra nhiều “lãnh thổ bị chiếm” đó ở rất xa TQ, hoàn toàn chưa từng có người TQ cư trú nhưng chính quyền TQ xưa nay cứ nhận là của họ, tương tự mánh lới hiện nay họ dùng “Đường 9 đoạn” để nhận xằng hầu hết diện tích Biển Đông. Có thể thấy những tư liệu bài này đưa ra có nhiều chỗ sai sự thực, nếu không nói là bịa đặt. Bài rất dài, chúng tôi chỉ lược dịch. Các ghi chú trong dấu ngoặc [ ] là của người dịch.
Nước Nga với tư cách là một quốc gia chỉ mới có lịch sử hơn 1.100 năm. Trước thế kỷ IX, từng có một số bộ lạc người Slavơ sinh sống tại vùng đồng bằng Đông Âu. Trong thế kỷ IX họ tập họp lại thành một đại công quốc [grand duchy], lấy trung tâm là Kiev [nay là thủ đô Ukraine], tự xưng là “Kievross”. Đó là quốc gia Nga [Russia] sớm nhất, lúc ấy chỉ là một tiểu quốc phía nam từ Kiev, phía bắc tới hồ Radoga, tây tới Pskov, đông tới Murom.
Cuối thế kỷ XV, công quốc Moskva lần lượt chinh phục các công quốc Russia xung quanh, lần đầu tiên hình thành một quốc gia thống nhất, tập trung quyền lực vào trung ương, lấy Moskva làm trung tâm, nằm giữa sông Volga với sông Dnepr. Năm 1547, Ivan IV tự xưng là Sa Hoàng toàn Nga, đổi tên nước từ “Công quốc Moskva” thành “Nước Nga Sa Hoàng”. Từ Sa Hoàng đời thứ nhất giữa thế kỷ XVI cho tới Sa Hoàng cuối cùng đầu thế kỷ XX, nước này đều không ngừng mở rộng lãnh thổ ra ngoài.
Cho tới năm 1547 khi Ivan IV mở rộng nước Nga về phía đông, nước này vẫn là một nước châu Âu. Nhưng năm 1552, Ivan IV chiếm nước Kazan, nước Nga vượt qua dãy Ural chiếm vùng Siberia rộng lớn, về sau tiếp giáp với lãnh thổ Trung Quốc và do đó làm cho nước Nga kể từ đời nhà Thanh trở đi có thể qua chiến tranh, hiệp ước và điều đình mà sở hữu một số lãnh thổ của TQ.
Nước Nga Sa Hoàng rồi Liên Xô sau đó đã chiếm các lãnh thổ vốn có của TQ (từ đông sang tây) như sau: đảo Sakhalin, vùng đất phía đông sông Usuri, vùng đất phía bắc Hắc Long Giang cho đến Ngoại Hưng An Lĩnh, vùng đất phía đông hồ Baykal, vùng Tannu Uriankhai [nay là nước CH Tuva thuộc Liên bang Nga]. Trong Thế chiến II, Liên Xô thừa cơ kiểm soát vùng Đông Bắc TQ. Ngoài ra, Liên Xô có tác dụng quyết định trong sự kiện độc lập của Ngoại Mông Cổ [tức nước CHND Mông Cổ hiện nay].
NGA LÀ MỘT QUỐC GIA VÀ DÂN TỘC NHƯ THẾ NÀO?
XEM QUỐC HUY
Quốc huy là huy hiệu đại diện cho quốc gia, là tượng trưng của dân tộc, là bộ mặt của một quốc gia. Trên mức độ lớn, quốc huy phản ánh tính cách một dân tộc và định hướng giá trị của quốc gia.
Ngày 30/11/1993, Nga quyết định sử dụng quốc huy theo đồ án chim đại bàng hai đầu của thời đại Ivan Sấm sét “Ivan Bạo chúa” (Sa Hoàng đầu tiên trong lịch sử Nga) trước Cách mạng Tháng Mười: trên nền tấm khiên màu đỏ có một con chim đại bàng hai đầu màu vàng kim, trên đầu con chim là vương miện của Pyotr Đại đế [Peter the Great], móng đại bàng quặp lấy cây quyền trượng và quả cầu vàng tượng trưng quyền lực của hoàng gia. Ngực đại bàng có một lá chắn nhỏ trên đó có một kỵ sĩ và một con ngựa trắng. Đại bàng một đầu ngoảnh về phía tây, một đầu ngoảnh về phía đông. Phía tây nước Nga là châu Âu, phía đông là châu Á. Đại bàng là loài động vật hung dữ và phản ứng nhanh nhạy. Nó cảnh giác nhìn bốn phía xung quanh; trước khi hạ thủ con mồi, nó không hề phát ra một tiếng động nào, chờ dịp mới hành động, sẵn sàng xuất kích.
XEM LỊCH SỬ
Nếu nói lịch sử TQ là một bộ lịch sử “Ăn người” khi mà trong cùng một dân tộc, thế lực mạnh hơn ức hiếp, giết hại các thế lực yếu hơn, thì lịch sử nước Nga theo mô tả trong sách “Lược sử nước Nga” (tác giả B.H Sumner) [A short history of Russia, 1943, New York], là một bộ lịch sử mở rộng lãnh thổ bằng cách dùng vũ lực tiến hành bắt tay với nước xa để đánh nước gần, đánh đông dẹp tây, nam chinh bắc chiến, dùng vũ lực chinh phục thôn tính bằng mọi cách, tàn sát dân để chiếm đất, dã man giẫm đạp nước khác.
“Những chuyện đã có, sau này ắt sẽ còn có. Những việc đã làm, sau này ắt sẽ lại làm” (“Kinh Thánh, sách truyền đạo” 1:9). Mao Trạch Đông từng nói: “Xem quá khứ của một người khắc biết hiện tại của người ấy; xem quá khứ và hiện tại của một người sẽ biết tương lai người đó.” Nước Nga ngày nay lọt lòng từ Liên Xô; Liên Xô thoát thai từ nước Nga Sa Hoàng. Ta hãy khảo sát quá khứ và hiện tại của nước Nga qua việc xem xét “lịch sử ngoại giao” của Nga với 16 quốc gia khác như sau:
Với Ba Lan:
Năm 1939, Liên Xô áp dụng sách lược “Đẩy tai họa về phía tây”, liên kết với Đức, bí mật ký “Hiệp ước không xâm lược lẫn nhau Xô- Đức”, vào hùa với Đức xâu xé Ba Lan, khiến Ba Lan mất nước chỉ sau một tháng, trên một triệu dân bị giết hại.
Mùa xuân năm 1940 nổ ra “Vụ thảm sát Katyn (Katyn Massacre)” , khoảng 22 nghìn quân nhân, nhà trí thức, chính khách và công chức Ba Lan bị quân đội Liên Xô giết trong khu rừng Katyn, Kalinin, nhưng Liên Xô lại gài tang vật vào để đổ tội cho Đức Quốc xã.
Theo đề nghị của Stalin, Hiệp định Potsdam không đưa Ba Lan vào phương án phân phối khoản bồi thường chiến tranh của Đức mà Liên Xô sẽ chuyển giao cho Ba Lan 15% khoản bồi thường Liên Xô được hưởng (thực tế chưa thi hành).
Tiếp sau sự kiện Potsdam, năm 1956 xảy ra “Sự kiện Tháng Mười Ba Lan”, là vụ tập đoàn lãnh đạo Liên Xô can thiệp công việc chính trị nội bộ Ba Lan, xe tăng Liên Xô bao vây thủ đô Warszawa.
Với Phần Lan
Ngày 30/11/1939 nổ ra cuộc “Chiến tranh mùa đông” giữa Liên Xô với Phần Lan, quân đội Liên Xô xâm nhập Phần Lan. Tháng 3/1940, hai nước ký Hiệp định đình chiến, Phần Lan cắt 10% lãnh thổ cho Liên Xô. Năm 1940 và 1947, giải đất Karelia của Phần Lan bị đưa vào lãnh thổ Liên Xô.
Với Romania
Năm 1940, Liên Xô chiếm một phần lãnh thổ Romania, vùng đất này nay là một phần nhỏ của Moldova và Ukraine. Tháng 6/1940, Liên Xô chiếm Bessarabia, tháng 8 thành lập nước CHXHCN Xô Viết Moldova nằm giữa sông Dniester với sông Prut. Đồng thời Liên Xô còn đưa vùng Bắc Bukovina ở miền bắc Romania (trước 1918 thuộc Đế quốc Áo-Hung, sau thuộc Romania) vào bản đồ Liên Xô, làm thành một phần của Ukraine.
Với Estonia, Latvia, Lithuania
Năm 1940, lãnh thổ ba nước này bị sáp nhập vào Liên Xô.
Với Nam Tư
Sau Thế chiến II, Nam Tư do Tổng thống Tito lãnh đạo thực hành chủ nghĩa xã hội, kiên trì đường lối độc lập tự chủ và không liên kết, giữ khoảng cách với Liên Xô, trở thành nước cộng sản duy nhất ở châu Âu không tham gia Hiệp ước Warszawa. Không đi con đường sai lầm của Moskva, Nam Tư ra sức phát triển kinh tế, trở thành một nước tương đối giàu có ở Đông Âu. Năm 1991, sau khi Liên Xô tan rã, các dân tộc ở Nam Tư giành quyền tự trị và độc lập.
Với Tiệp Khắc
Năm 1945, Liên Xô giúp đỡ giải phóng toàn bộ Tiệp Khắc [Czechoslovakia], Czech và Slovakia lại hợp tác với nhau, phần đất trước đây bị cắt nhượng cho Hungary nay trở về Tiệp Khắc, nhưng vùng Subcarpathian Ruthenia bị cắt cho nước CHXHCN Ukraine thuộc Liên Xô.
Năm 1947, Liên Xô tẩy chay “Kế hoạch Marshall” của Mỹ nhằm viện trợ vốn đầu tư và công nghệ cho các nước châu Âu, không phân chia địch ta; Liên Xô cũng cấm các nước XHCN Đông Âu (thậm chí dùng tối hậu thư cấm Tiệp Khắc) tham gia Kế hoạch này. Kết quả làm cho Tiệp Khắc – quốc gia phát triển đã tiến sang giai đoạn công nghiệp hóa bị lỡ mất cơ hội tham gia cuộc cách mạng công nghiệp mới, dần dần lạc hậu sau phương Tây.
Sự kiện “Mùa xuân Prague” tháng 1/1968 là một phong trào tìm con đường XHCN hợp với Tiệp Khắc. Phong trào tiếp diễn cho tới ngày 20/8 cùng năm thì chấm dứt do Liên Xô và các nước Hiệp ước Warszawa đưa quân đội vào chiếm đóng Tiệp Khắc. Cuộc can thiệp quân sự này đã gây ra làn sóng ra nước ngoài tị nạn của khoảng 100 nghìn dân Tiệp Khắc, trong đó có nhiều trí thức thuộc tầng lớp tinh hoa dân tộc.
Với Đức
Stalin từng thương thảo với Tư lệnh Tối cao lực lượng Đồng minh mặt trận phía tây Eisenhower (người được Churchill nói là “Không hiểu chính trị”), hai bên xác định Liên Xô sẽ nhận nhiệm vụ đánh chiếm Berlin. Ngày 30/4/1945, Hồng quân chiếm và cắm quốc kỳ Liên Xô lên Nhà Quốc hội Đức. Nhờ thế Liên Xô có nhiều lợi thế để mặc cả với phía Đồng minh trên vấn đề chia chác nước Đức. Vùng Konigsberg của Đức bị đưa vào lãnh thổ Liên Xô (nay là tỉnh Kaliningrad của Nga).
Năm 1948 Liên Xô gây ra sự kiện Phong tỏa Tây Berlin, được coi là khởi đầu cuộc Chiến tranh Lạnh.
Với Hungary
“Sự kiện Hungary” xảy ra từ ngày 23/10 đến 4/11/1956 (Hungary gọi là cuộc “Cách mạng 1956”) là cuộc cách mạng có tính tự phát trong toàn quốc do nhân dân nước này bất mãn với Chính phủ Hungary bù nhìn được Liên Xô dựng lên. Sau hai lần Liên Xô can thiệp quân sự, vụ này bị dẹp yên, có khoảng 2000 người Hungary bị chết.
Với Triều Tiên
Năm 1896, Nga và Nhật lấy vĩ tuyến 38 bắc làm ranh giới phân chia xâu xé bán đảo Triều Tiên. Tháng 8/1945, quân đội Liên Xô và Mỹ đổ bộ lên bán đảo này. Nước Nhật từng chiếm Triều Tiên 35 năm tuyên bố đầu hàng không điều kiện. Hai nước Xô-Mỹ dùng đường ranh giới lịch sử nói trên để phân định phạm vi thế lực.
Năm 1950 Stalin đồng ý để Kim Nhật Thành dùng vũ lực tấn công Hàn Quốc, gây ra cuộc chiến tranh Triều Tiên. Stalin có dụng ý kéo TQ vào cuộc chiến này (để tránh khả năng Mao Trạch Đông trở thành Tito thứ hai), ràng buộc Mỹ, TQ vào bán đảo Triều Tiên.
Với Nhật Bản
Đảo Sakhalin vốn là lãnh thổ TQ. Trong những năm 50-60 thế kỷ XIX, căn cứ theo “Điều ước Ái Huy Trung-Nga”, “Điều ước Bắc Kinh Trung-Nga”, Sakhalin bị Nga Sa Hoàng chiếm. Trong chiến tranh Nhật-Nga 1904~1905, Nga thua, phải cắt nửa phía nam đảo Sakhalin cho Nhật. Trong Thế chiến II, tháng 8/1945 Nhật đầu hàng không điều kiện, phần phía nam đảo Sakhalin lại bị Liên Xô chiếm hữu.
Trong nửa cuối thế kỷ XIX, Nga và Nhật tranh nhau quần đảo Kuril. Năm 1875 Kuril bị Nhật chiếm toàn bộ (với điều kiện Nhật từ bỏ nửa phía nam đảo Sakhalin). Tháng 8/1945, Nhật đầu hàng, Liên Xô lại chiếm hữu toàn bộ quần đảo này.
Với Iran
Trong lịch sử có nhiều vùng đất ở Transcaucasia [còn gọi Ngoại Kapkaz] là do Iran cai trị lâu dài. Trong chiến tranh Nga-Iran 1804~1813, Nga sáp nhập phần lớn lãnh thổ Gruzia và Azerbaijan vào Nga, năm 1828 lại sáp nhập Armenia, đến cuối thế kỷ XIX lại chiếm Turkmenistan [nguyên văn chữ Hán: Thổ Khố Mạn].
Với Afghanistan
Cuối thế kỷ XIX, Nga sáp nhập vùng Trung Á, năm 1885 chiếm vùng Kusk của Afghanistan, hình thành biên giới cực nam của Liên Xô. Năm 1979, để mở lối ra Ấn Độ Dương, Liên Xô tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Afghanistan kéo dài 8 năm.
Với Mông Cổ
Mông Cổ vốn là một phần của TQ, gọi là Ngoại Mông Cổ. Năm 1911, nước Nga Sa Hoàng nhân dịp TQ nổ ra cuộc cách mạng Tân Hợi bèn xúi giục hoàng gia Ngoại Mông Cổ nổi loạn, tiến hành cái gọi là “độc lập” [với TQ], đặt Ngoại Mông Cổ dưới sự kiểm soát của Nga. Sau Cách mạng Tháng Mười, Ngoại Mông Cổ chịu ảnh hưởng của Liên Xô, năm 1924 bỏ chế độ quân chủ lập hiến, thành lập cái gọi là nước CHND Mông Cổ. Như vậy Ngoại Mông Cổ có chung biên giới với Liên Xô.
Năm 1921, Liên Xô do Lenin lãnh đạo đưa quân tiến vào chiếm Mông Cổ. Tại hội nghị Yalta, Stalin ép Chính phủ Quốc dân TQ thừa nhận “Nước CHND Mông Cổ”, bị TQ khéo léo từ chối. Năm 1951, Mao Trạch Đông ký với Stalin “Hiệp ước hỗ trợ đồng minh hữu hảo Trung-Xô”, chính thức thừa nhận Ngoại Mông Cổ độc lập. Từ đó vùng đất 1,56 triệu km2 này tách ra [khỏi TQ]. Để mê hoặc người Trung Quốc, Lenin, người thầy cách mạng tuyên truyền “giai cấp vô sản không có tổ quốc”, từng hứa sẽ xóa bỏ mọi điều ước bất bình đẳng nước Nga Sa Hoàng đã ký với TQ nhưng lại chưa thực hiện lời hứa đó.
Với Trung Quốc
BẢNG KÊ LÃNH THỔ TRUNG QUỐC BỊ NGA HOẶC LIÊN XÔ XÂM CHIẾM
Tính từ năm 1689 cho tới năm 1945, Nga và Liên Xô đã xâm chiếm lãnh thổ TQ có diện tích tổng cộng bằng 5.883.880 km2, tương đương 60% diện tích lãnh thổ lục địa TQ hiện nay hoặc 1/3 diện tích lục địa TQ đời nhà Thanh. Cụ thể như sau (tóm dịch):
1) Ngày 7/9/1689 (năm Khang Hy 27), sau khi TQ-Nga ký Hiệp định Nerchinsk, vùng đất 250 nghìn km2 ở Hưng An Lĩnh và phía tây sông Ergun của TQ bị mất vào nước Nga.
2) Ngày 21/10/1727 (năm Ung Chính 5) Nga và TQ ký Hiệp định Qiaketu, vùng lãnh thổ TQ rộng khoảng 100 nghìn km2 ở phía nam và tây nam hồ Baykal mất vào tay Nga.
3) Năm 1790 (năm Càn Long 55), đảo Sakhalin rộng khoảng 100 nghìn km2 của TQ bị đế quốc Nga ngầm thôn tính.
4) Năm 1840 (năm Đạo Quang 20), vùng Kazakh rộng khoảng 1 triệu km2 vốn là thuộc quốc [nguyên văn: thuộc bang] của TQ bị đế quốc Nga sáp nhập.
5) Năm 1840 (năm Đạo Quang 20), vùng Prut rộng khoảng 100 nghìn km2 vốn là thuộc quốc của TQ bị đế quốc Nga thôn tính.
6) Ngày 28/5/1858 (năm Hàm Phong 8), vùng đất rộng khoảng 460 nghìn km2 nằm ở phía tây sông Hỗn Đồng, phía bắc sông Hắc Long Giang, phía nam Ngoại Hưng An Lĩnh bị đế quốc Nga xâm chiếm, về sau Nga lại ép triều đình Mãn Thanh ký hiệp định Ái Huy thừa nhận việc xâm chiếm đó.
7) Ngày 14/11/1860 (năm Hàm Phong 10) vùng đất rộng khoảng 430 nghìn km2 ở phía đông sông Hỗn Đồng và sông Usuri gần hồ Hưng Khải bị đế quốc Nga xâm chiếm, sau đó lại ép triều đình nhà Thanh ký Hiệp định Bắc Kinh thừa nhận.
8) Sau năm 1864 (năm Đồng Trị 3), vùng đất rộng khoảng 430 nghìn km2 từ Sa Tứ Đạt Ba Cáp đến Song Lĩnh bị đế quốc Nga ép triều đình nhà Thanh ký Hiệp định phân giới Tháp Thành thừa nhận là đất của Nga.
9) Năm 1688 (năm Đồng Trị 7) nước Bố Cáp Nhĩ Hãn Quốc [tiếng Anh: Khanate of Bukhara] rộng khoảng 1 triệu km2 vốn là thuộc bang của TQ bị đế quốc Nga xâm chiếm.
10) Năm 1876 (năm Quang Tự 2) nước Hạo Hãn Quốc [tiếng Anh: Khanate of Kokand] rộng khoảng 350 nghìn km2 vốn là thuộc bang của TQ bị đế quốc Nga thôn tính.
11) Năm 1881 (năm Quang Tự 7), vùng đất rộng khoảng 20 nghìn km2 từ Thiên Sơn ở tây nam Ili, núi Na Mạt Cáp Lặc Khắc [Namohalake] đến Khalda ở tây bắc Ili, bị đế quốc Nga chiếm rồi ép nhà Thanh ký hiệp định Ili thừa nhận.
12) Năm 1883 (năm Quang Tự 9), vùng đất rộng khoảng 20 nghìn km2 ở gần sông Ngạch Nhĩ Tề Tư [tiếng Nga là Ôbơ] và hồ Trai Tang, bị đế quốc Nga chiếm rồi ép nhà Thanh ký hiệp định phân giới Khovd delta boundary để thừa nhận việc đó.
13) Năm 1895 (năm Quang Tự 21) vùng Pamir ở Tân Cương, rộng khoảng hơn 10 nghìn km2 bị đế quốc Nga và Anh Quốc xâu xé.
14) Năm 1900, nước Nga dưới triều Sa Hoàng Nicholas II xuất quân xâm chiếm vùng đất rộng 3600 km2 ở Giang Đông, hơn 6000 dân TQ bị giết.
15) Năm 1921 (năm Dân Quốc 10), Nga xúi giục vùng Tannu Uriankhai tuyên bố độc lập, năm 1944 (năm Dân Quốc 33) Nga chính thức chiếm vùng này, tổng diện tích khoảng 170 nghìn km2 [nay là nước Cộng hòa Tuva thuộc Liên bang Nga].
16) Năm 1929, quân đội Liên Xô xâm nhập vùng Đông Bắc TQ, tranh giành tuyến đường sắt Trung Đông (Cáp Nhĩ Tân-Đại Liên), đánh bại quân đội TQ canh giữ ở đây và chiếm đảo Hắc Hạt Tử.
17) Năm 1944, Liên Xô ép vùng Tannu Uriankhai gia nhập Liên Xô và đổi tên là “Nước Cộng hòa XHCN Xô viết Tuva”. Năm 2001, TQ và Nga ký “Hiệp ước hữu hảo hợp tác thân thiện”, chính thức thừa nhận vùng đất này thuộc lãnh thổ Nga (Điều 6 Hiệp ước), rốt cuộc 170 nghìn km2 đất bị người Nga sở hữu.
18) Năm 1945, Liên Xô thúc ép Anh Mỹ ký Hiệp ước Yalta. [Theo Hiệp ước này] Tháng 10 cùng năm Ngoại Mông Cổ (diện tích 1,566 triệu km2) tổ chức trưng cầu ý dân (quân đội Liên Xô đóng ở đây cũng tham gia bỏ phiếu). Chính phủ TQ bị buộc phải thừa nhận Mông Cổ “độc lập”.
LIÊN XÔ GIEO MẦM CHO TAI HỌA “ĐÔNG ĐỘT”
Năm 1938, Liên Xô đưa quân đội xâm nhập vùng Cáp Mật [Hami] mưu toan tách Tân Cương với nội địa TQ. Đồng thời lại dụ dỗ Thịnh Thế Tài [Thượng tướng Lục quân, quan cai trị vùng Tân Cương thời gian 1933-1944] ký [với Liên Xô] “Hiệp ước thuê mượn mỏ thiếc Tân Cương”. Thịnh Thế Tài không nghe. Stalin nổi giận, gây chuyện với Tưởng Giới Thạch muốn dùng Tưởng giết Thịnh, nhưng không thành. Stalin phái đặc nhiệm vào Tân Cương gây phản loạn. Năm 1943, bọn côn đồ được Liên Xô vũ trang chiếm vùng Ili. Liên Xô còn cho máy bay ném bom vùng Địch Hóa, giúp đỡ chính quyền bù nhìn “Nước Cộng hòa Đông Turkistan” [“Đông Đột”].
LIÊN XÔ VÀ NHẬT ÂM MƯU BÁN TQ
Ngày 13/4/1941, Liên Xô ký kết với Nhật “Hiệp ước Trung lập Nhật-Xô”, vào hùa với Nhật xâu xé TQ (Liên Xô thừa nhận lợi ích hợp pháp của Nhật tại Mãn Châu, Nhật thừa nhận lợi ích hợp pháp của Liên Xô tại Ngoại Mông Cổ)
HỒNG QUÂN LIÊN XÔ XUẤT QUÂN ĐÁNH VÙNG ĐÔNG BẮC TQ, LỢI DỤNG CHÁY NHÀ ĐỂ HÔI CỦA
Ngày 6/8/1945 Mỹ ném trái bom nguyên tử đầu tiên xuống Hiroshima. Ngày 8 cùng tháng, Liên Xô lâu nay ém quân án binh bất động bỗng dưng xuất quân với thế mãnh hổ xuống núi tiến vào vùng đông bắc TQ, đánh một đòn tiêu diệt đội quân Quan Đông của Nhật, diễn lại mánh khóe cũ [chiếm Berlin trước nhất]. Đây là mưu toan đã tính toán kỹ từ trước nhằm thu “chiến lợi phẩm” từ TQ.
Toàn bộ các xí nghiệp công nghiệp của Nhật xây dựng tại vùng đông bắc TQ đều bị Liên Xô tuyên bố là chiến lợi phẩm của Hồng quân. Tất cả các trang thiết bị cơ khí tốt nhất, quan trọng nhất, cái nào có thể tháo dỡ được thì đều tháo dỡ chở hết về Liên Xô. Stalin cho rằng việc để vùng đông bắc TQ là một căn cứ địa lớn về quân sự và công nghiệp do người Nhật kinh doanh bao năm qua ở gần vùng Viễn Đông nơi lực lượng của Liên Xô yếu nhất, sẽ tạo ra sự đe dọa lớn đối với an ninh của Liên Xô, vì thế việc quân đội Liên Xô chiếm lĩnh vùng đông bắc TQ chính là cơ hội tốt nhất để giải tỏa sự đe dọa ấy.
Năm 1950, Liên Xô và TQ ký “Hiệp ước đồng minh hữu hảo tương trợ TQ-Liên Xô”, đồng ý để Liên Xô thuê hai quân cảng của TQ là Lữ Thuận và Đại Liên.
LIÊN XÔ KÉO TRUNG QUỐC VÀO CHIẾN TRƯỜNG TRIỀU TIÊN
Năm 1950 Stalin xúi bẩy Kim Nhật Thành xâm nhập Hàn Quốc, tiếp đó lại dụ dỗ Mao Trạch Đông đưa quân vào Triều Tiên. Mấy trăm nghìn thanh niên TQ bị chết nơi đất khách quê người, TQ nợ Nga một khoản nợ quân sự nặng nề. Do gây quan hệ thù địch với Mỹ mà TQ lỡ mất dịp may nhận viện trợ theo kế hoạch ban đầu của Mỹ. TQ trở thành quốc gia bế quan tỏa cảng, bị cô lập.
Trong Chiến tranh Chống Mỹ giúp Triều, tổng cộng Liên Xô đã cung cấp cho TQ trang bị quân sự cho 64 sư đoàn lục quân, 23 sư đoàn không quân, phần lớn trang bị này TQ phải trả nửa giá. Vì thế TQ nợ Liên Xô 3 tỷ Nhân dân tệ, tương đương 1,3 tỷ USD bấy giờ. Năm 1955, Liên Xô rút quân từ Lữ Thuận về nước, bàn giao cho TQ số trang bị TQ phải trả 980 triệu NDT. Hai khoản này chiếm hơn 60% tổng kim ngạch TQ nợ Liên Xô.
LIÊN XÔ MƯU TOAN DÙNG TRUNG QUỐC LÀM TIỀN TUYẾN CHỐNG MỸ
Năm 1960 Liên Xô yêu cầu TQ cho Liên Xô xây dựng căn cứ quân sự trên đất TQ để đối phó hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ (nhưng bị TQ cương quyết từ chối).
LIÊN XÔ MƯỢN DAO GIẾT NGƯỜI
Năm 1962, TQ và Ấn Độ nổ ra chiến tranh biên giới, Liên Xô ủng hộ Ấn Độ.
Năm 1979, TQ và Việt Nam nổ ra chiến tranh biên giới, Liên Xô ủng hộ Việt Nam và bố trí cả triệu quân dọc biên giới TQ-Liên Xô và TQ-Mông Cổ, chờ thời cơ xâm nhập TQ.
BIÊN GIỚI TQ-LIÊN XÔ KHÔNG NGỪNG XẢY XUNG ĐỘT QUÂN SỰ, SUÝT NỮA NỔ RA CHIẾN TRANH HẠT NHÂN
Liên Xô dưới thời Brezhnev lãnh đạo thi hành chính sách đối ngoại bành trướng nhằm mở rộng phe XHCN, nhiều lần gây xung đột vũ trang với nước khác. Nhưng năm 1969 Liên Xô lại xung đột vũ trang nhiều lần với một nước cộng sản lớn là TQ.
1) Vụ đảo Trân Bảo. Ngày 2/3/1969 Liên Xô xuất quân chiếm đảo Trân Bảo. Trong các lần xung đột hồi tháng 3/1969, quân đội TQ chết 29, bị thương 68, mất tích 1 người; phía Liên Xô chết 58, bị thương 94. Tổng cộng vụ này phía TQ chết 71 người.
2) Vụ Tháp Tư Đề (vụ Khổng Long Trân). Ngày 10/6/1969 tại bờ sông Tháp Tư Đề (núi Paluck) vùng Tháp Thành ở Tân Cương phía tây biên giới TQ-Liên Xô, bộ đội biên phòng Liên Xô ngăn cản dân TQ chăn thả súc vật. Nữ nông dân TQ Khổng Long Trân bị phía Liên Xô bắn chết. Bộ đội biên phòng TQ đánh trả, xung đột leo thang.
3) Vụ đảo Bát Xá ở đông bắc tỉnh Hắc Long Giang. Ngày 8/7/1969 nổ ra xung đột giữa quân đội Liên Xô với thanh niên trí thức TQ ở địa phương này.
4) Vụ Thiết Liệt Khắc Đề ở biên giới phía tây: ngày 13/8/1969 Liên Xô huy động máy bay lên thẳng và xe tăng tập kích hai đội tuần tra của TQ, làm chết 28 người.
KÉO DÀI CUỘC ĐÀM PHÁN BUÔN BÁN DẦU MỎ TRUNG QUỐC-NGA
Dưới thời Putin lãnh đạo, năm 1999 phía Nga dùng cuộc đàm phán về dự án đường ống dẫn dầu để chơi trò làm thân với TQ, trò chơi này kéo dài 10 năm.
NGA GIẾT NGƯỜI TRUNG QUỐC, CƯỚP TÀI SẢN VÀ TRỤC XUẤT TIỂU THƯƠNG TRUNG QUỐC
Dưới thời Tổng thống Medvedev, năm 2009 tàu chiến Nga bắn chìm tàu buôn “Tân Tinh” của TQ, làm chết và mất tích 8 người TQ. Ngày 29/6/2009, Nga cưỡng chế đóng cửa chợ Cherkizov của thương nhân TQ tại Nga, cướp hàng hóa, khiến cho hàng vạn tiểu thương TQ khuynh gia bại sản, phía Nga bắt giam 166, trục xuất 80 tiểu thương TQ.
NGA CHỈ TRẢ LẠI TRUNG QUỐC MỘT NỬA ĐẢO HẮC HẠT TỬ.
Theo hiệp định ký năm 2004 giữa hai Bộ trưởng Ngoại giao TQ và Nga, phía Nga chỉ trả lại cho TQ một nửa đảo Hắc Hạt Tử, nhưng vì phía TQ không công bố tin này cho nên báo chí đưa tin Nga trả toàn bộ đảo Hắc Hạt Tử.
LÉN LÚT VŨ TRANG VIỆT NAM TRANH GIÀNH BIỂN ĐÔNG VỚI TRUNG QUỐC
Các năm 2010-2011 nổ ra cuộc khủng hoảng Biển Đông [TQ gọi là Nam Hải], Nga gấp rút bán vũ khí tiên tiến cho Việt Nam, kể cả tàu ngầm lớp Kilo, máy bay chiến đấu Su-30, tàu tên lửa, tên lửa chống hạm.
III. TÌNH HÌNH NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY
Nga xâm nhập Gruzia. Ngày 8/8/2008, đúng ngày khai mạc Olympic Bắc Kinh, Nga bất ngờ xuất quân xâm lược Gruzia, làm 215 binh sĩ Gruzia bị chết, 1.469 người bị thương. Phía quân đội Nga chết 74, bị thương 171, mất tích 19 người; khoảng 1.600 thường dân nam Ossetia bị chết.
Nga hai lần đưa quân vào Chechnya. Dù bị dư luận quốc tế phản đối, Nga hai lần đưa quân vào Chechnya. Tháng 4/1996 Nga dò được nơi Tổng thống Chechnya là Dudayev đang ở rồi phóng tên lửa giết chết.
Nga “Ngắt cung cấp khí đốt”, tự làm theo ý mình, không kiêng dè gì cả. Tháng 1/2009 đúng lúc thời tiết châu Âu lạnh giá, do mâu thuẫn với Ukraine về vấn đề khí đốt, Nga ngắt cung cấp khí đốt vào đường ống khí đốt đi qua Ukraine đến châu Âu, làm cho ít nhất 6 nước châu Âu bị vạ lây, mất nguồn khí đốt sưởi ấm (Bulgaria, Hy Lạp, Macedonia, Croatia, Thổ Nhĩ Kỳ).
Có nhà phân tích cho rằng nước Nga Sa Hoàng và Liên Xô năm 1917 và năm 1991 bị sụp đổ đều là do bành trướng ra ngoài vượt quá sức chịu đựng bình thường của một quốc gia, tiêu hao quá nhiều quốc lực, làm cho sức sản xuất trong nước bị trì trệ lâu dài không đáp ứng nhu cầu vật chất và văn hóa của nhân dân, mâu thuẫn trong nước tăng lên cuối cùng nhà nước sụp đổ.
LỜI KẾT
Các nhà lãnh đạo Nga và Liên Xô đều cực kỳ coi trọng vấn đề lãnh thổ. Như trong âm mưu xúi giục Ngoại Mông Cổ độc lập với TQ, các Sa Hoàng cũng như Stalin đều có tầm nhìn chiến lược là muốn dùng Mông Cổ làm bình phong ngăn chặn TQ mà họ tin rằng sau này sẽ lớn mạnh. Putin từng nói: “Nước Nga rộng mênh mông nhưng không thừa một tấc đất nào”, “Trên vấn đề lãnh thổ, không có chỗ để đàm phán, chỉ có chiến tranh”. Trong cuộc chiến tranh Crimea (1853-1856, với Anh, Pháp, Thổ Nhĩ Kỳ), Nga thua, Nicholas I trở thành Sa Hoàng đầu tiên cắt đất cho nước ngoài, cuối cùng đã tự tử.
Trên thế giới có quốc gia và dân tộc nào bội tín, không tuân theo nguyên tắc như Nga không? Có quốc gia và dân tộc nào chiếm đất của TQ, gây thiệt hại lớn cho TQ như Nga không?
Người Nga từ xưa đã hình thành thói quen xử sự không theo quy tắc, không theo lý trí. Đối với một dân tộc như thế TQ chỉ có thể hoặc chịu vậy hoặc kính nhi viễn chi mà thôi.
http://biendong.net/bien-dong/24519-nuoc-nga-trong-mat-nguoi-tq.html
Thủ tướng Pháp không tránh né
vấn đề nhân quyền với Việt Nam
Pháp không hề tránh né chủ đề nhân quyền với Việt Nam, nhưng đã đề cập riêng với Hà Nội chứ không « bằng con đường báo chí ». Thủ tướng Pháp Edouard Philippe hôm nay 04/11/2018 trong ngày cuối của chuyến công du Việt Nam đã khẳng định như trên.
Được các nhà báo chất vấn về chủ đề nhạy cảm này, người đứng đầu chính phủ Pháp khẳng định : « Vấn đề đã được nêu ra ở nơi cần phải nêu, tại một diễn đàn với diễn tiến tốt đẹp theo cách thức mà chúng tôi luôn tiến hành. Chúng tôi không hề tránh né, nhưng đã có những cuộc thảo luận với chính quyền Việt Nam mà không đưa lên báo ».
Theo một nguồn tin ngoại giao, vấn đề nhân quyền đã được đề cập đến « trong khuôn khổ các cuộc hội đàm » giữa thủ tướng Edouard Philippe với các nhà lãnh đạo Việt Nam ngay hôm thứ Sáu 2/11, ngày đầu tiên của chuyến viếng thăm. Nguồn tin trên cho biết « Chính quyền Việt Nam đã được yêu cầu quan tâm đến một danh sách gồm những trường hợp cá nhân cụ thể ».
Hôm nay, ngày cuối của chuyến công du Việt Nam ba ngày, thủ tướng Pháp đã khánh thành một trung tâm y tế ở Thành phố Hồ Chí Minh. Khi trả lời câu hỏi về nhân quyền, ông Edouard Philppe nói thêm : « Trợ giúp để những trung tâm y tế như thế này phát triển, tôi cho rằng đây cũng là đáp ứng lại những khát vọng của xã hội Việt Nam ».
Chuyến thăm của thủ tướng Pháp diễn ra vào thời điểm Việt Nam vừa công bố dự thảo Luật An ninh mạng. Đạo luật sẽ có hiệu lực từ đầu năm 2019, buộc các trang web phải xóa mọi lời bình bị cho là « đe dọa an ninh quốc gia », lưu trữ các thông tin các nhân và dữ liệu của người sử dụng.
Theo Amnesty International, khoảng 100 người đã bị vào tù trong năm 2017 vì lý do chính trị, còn theo ghi nhận của AFP, khoảng 50 nhà tranh đấu và blogger đã bị kết án trong năm nay. Các nhóm bảo vệ nhân quyền lo ngại trấn áp sẽ tăng lên cùng với việc tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng kiêm luôn chủ tịch nước.
http://vi.rfi.fr/viet-nam/20181104-thu-tuong-phap-khong-tranh-ne-van-de-nhan-quyen-voi-viet-nam
Người dân Tân Calédonie
chọn lựa ở lại với nước Pháp
Theo kết quả kiểm phiếu tạm thời, Tân Calédonie, quần đảo chiến lược thuộc Pháp ở Nam Thái Bình Dương, đã chọn lựa ở lại với nước Pháp trong cuộc trưng cầu dân ý mang tính lịch sử hôm nay 04/11/2018.
Sau khi kiểm 128.618 trên tổng số hơn 175.000 lá phiếu, số cử tri phản đối Tân Calédonie độc lập chiếm đến 59,68%, so với số người ủng hộ độc lập là 40,32%. Người dân đi bầu đông đảo, với khoảng 80% số cử tri. Các cuộc thăm dò dư luận trước đó dự đoán có từ 63 đến 75% cử tri chọn lựa ở lại với nước Pháp, tỉ lệ này sẽ còn tăng lên sau khi kiểm phiếu xong.
Cử tri của quần đảo 275.000 dân giàu nguồn lợi nickel, là thuộc địa Pháp từ năm 1853, đã được huy động đến phòng phiếu để cho biết có muốn « Tân Calédonie trở thành độc lập với toàn bộ chủ quyền » hay không. Có 250 quan sát viên là đại biểu của Nhà nước Pháp và các chuyên gia của Liên Hiệp Quốc được gởi đến để giám sát.
Hiệp ước Nouméa ký kết năm 1998 dự trù tổ chức các cuộc trưng cầu dân ý, tiếp tục tiến trình hòa giải giữa người bản địa Kanak và người Caldoche gốc châu Âu, sau các vụ bạo động trong thập niên 80 làm 25 người chết.
Cuộc trưng cầu dân ý này được Paris, cách đó 18.000 km, đặc biệt chú ý. Tổng thống Pháp Emmanuel Macron phát biểu vào lúc 13 giờ (23 giờ địa phương ở Tân Calédonie) sau khi có kết quả chính thức, đã bày tỏ « lòng tự hào vô hạn khi cùng trải qua giai đoạn lịch sử này ».
Tổng thống Macron cho rằng sự kiện này « đánh dấu lòng tin vào Cộng hòa Pháp, về tương lai và các giá trị của nước Pháp ». Theo ông : « Kẻ chiến bại là mưu toan chia rẽ, bạo lực, gây sợ hãi. Người chiến thắng duy nhất là tiến trình hướng về hòa bình ở Tân Calédonie từ 30 năm qua và tinh thần đối thoại ».
Sau chuyến công du Việt Nam, thủ tướng Edouard Philippe sẽ đến Tân Calédonie vào ngày mai.
http://vi.rfi.fr/phap/20181104-nguoi-dan-tan-caledonie-chon-lua-o-lai-voi-nuoc-phap
Tổng thống Macron « lên tuyến đầu »,
100 năm sau Đệ nhất Thế chiến
Nhân kỷ niệm 100 năm kết thúc Thế chiến thứ nhất, tổng thống Pháp Emmanuel Macron bắt đầu từ hôm nay 04/11/2018 chuyến « đông du » 6 ngày, qua 11 tỉnh địa đầu trong cuộc chiến 1914-1918. Ở trạm đầu tiên, thành phố biểu tượng Strasbourg, nơi đặt trụ sở Nghị viện Châu Âu, tổng thống Pháp gặp đồng nhiệm Đức Frank-Walter Steinmeier.
Trong sáu ngày, tổng thống Emmanuel Macron đi thăm 11 tỉnh ở miền đông bắc nước Pháp, một hành động mang ý nghĩa kết nối nước Pháp 1918 và người dân Pháp thời chiến tranh, với nước Pháp và dân Pháp trong thời khủng hoảng hiện nay.
Cuộc du hành qua những vùng chiến địa đẫm máu sẽ kết thúc vào ngày 11/11 tại Khải Hoàn Môn, vinh danh chiến sĩ vô danh trong buổi đại lễ với hàng trăm lãnh đạo quốc tế.
Chuyến du hành mang ba ý nghĩa : Trước hết là ký ức vì để tưởng nhớ công lao của 8 triệu chiến binh và sự hy sinh của 1,4 triệu người trong số đó. Thứ hai là ý nghĩa ngoại giao. Tổng thống Pháp được nhiều nguyên thủ và thủ tướng chính phủ nước ngoài đồng hành trước khi về Paris, điểm hẹn với Donald Trump và Vladimir Putin.
Ý nghĩa thứ ba mang tính chính trị và xã hội, trong bối cảnh điểm tín nhiệm của tổng thống rơi xuống mức thấp nhất từ một năm nay và dân chúng tiếp tục than phiền vì vật giá leo thang. Emmanuel Macron muốn nhân chuyến kinh lý đặc biệt này để tiếp xúc và lắng nghe nguyện vọng của tầng lớp dân chúng ở tỉnh lẻ và thôn quê.
Brexit: Anh và LHCA
gần đạt thỏa thuận về biên giới ở Ailen ?
Anh Quốc sẽ « tạm thời » không rời liên hiệp thuế quan với phần còn lại của Liên Âu sau khi Brexit có hiệu lực. Theo tiết lộ của báo Sunday Times, đó là điều kiện ghi trong dự thảo hiệp định mới giữa Luân Đôn và Bruxelles.
Theo nguồn tin này, Bruxelles đã chấp thuận nhượng bộ thủ tướng Anh Theresa May, ghi vào thỏa thuận Brexit « toàn bộ lãnh thổ Vương quốc Liên Hiệp Anh » nằm trong liên hiệp thuế quan. Nói cách khác là có cả tỉnh Bắc Ailen của Anh, tiếp giáp với Cộng hòa Ailen, thành viên của Liên Hiệp Châu Âu.
Biên giới Ailen là một trong những cản lực chính làm đình trệ tiến trình đàm phán Brexit. Nếu thông tin của Sunday Times chính xác, Liên Hiệp Châu Âu chấp nhận yêu cầu của Anh Quốc, việc kiểm soát hàng hóa sẽ được thực hiện từ trong hãng sản xuất và từ kho trữ hàng chứ không ở biên giới. Tuy nhiên, theo AFP, phát ngôn viên chính phủ Anh không xác nhận tin này, mà cho đấy là một loại tin đồn .
Thứ Sáu 02/11/2018, ngoại trưởng Ailen Simon Coveney cũng như cố vấn của thủ tướng Anh đặc trách giám sát hồ sơ Brexit, David Lidington cùng « bảo đảm » là Dublin và Luân Đôn đã « tiến rất gần » một thỏa thuận mở cửa biên giới giữa Cộng hòa Ailen và tỉnh Bắc Ailen sau khi Anh Quốc ly thân với Liên Hiệp Châu Âu.
Bầu cử địa phương Ba Lan:
Đảng cầm quyền thất bại ở vùng thành thị
Tại Ba Lan, cử tri tại gần 650 thành phố và thị xã lại đến phòng phiếu hôm nay 04/11/2018, nhân vòng hai cuộc bầu cử địa phương để bầu ra các thị trưởng. Đảng cầm quyền PIS (Luật Pháp và Công Lý) đang trong thế khó khăn ở các thành phố lớn.
Thông tín viên RFI tại Vacxava, Damien Simonart tường thuật :
Kraków, Gdansk và Szczecin (Shtettchin) là ba thành phố lớn mà kết quả chưa ngã ngũ vẫn gây hồi hộp. Trong các thành phố này, ứng viên đảng PIS tranh ghế với thị trưởng mãn nhiệm. Trong cả ba thành phố, kết quả thăm dò dư luận đều cho thấy ứng viên đảng PIS thua cuộc.
Nếu điều này được xác định, thì có nghĩa là 10 thành phố lớn nhất tại Ba Lan đều không có thị trưởng thuộc đảng cầm quyền.
Tình hình ngược hẳn với cuộc bầu cử cấp vùng. Nếu đảng PIS đã không thu hút được thêm cử tri ở thành phố lớn, thì ngược lại ở vùng nông thôn họ đã lôi kéo được đông đảo cử tri.
Cho đến giờ thì PIS chỉ cai quản được một trong 16 vùng ở Ba Lan. Nhưng sau cuộc bầu cử mới nhất, họ đã chiếm đa số tuyệt đối tại sáu nghị viện địa phương.
Cuộc bầu cử một lần nữa cho thấy sự rạn nứt giữa miền đông bỏ phiếu cho phe bảo thủ và miền tây ủng hộ cánh tự do.
Sắp tới đây thực tế này sẽ được kiểm nghiệm thêm với các cuộc bầu cử Nghị Viện Châu Âu vào tháng 5 năm tới, trước cuộc bầu lại Quốc Hội Ba Lan vào mùa thu, và xa hơn một chút nữa là cuộc bầu cử tổng thống vào mùa xuân 2020.
http://vi.rfi.fr/quoc-te/20181104-bau-cu-dia-phuong-ba-lan-dang-cam-quyen-that-bai-o-vung-thanh-thi
Iran chuẩn bị đối mặt với trừng phạt mới của Mỹ,
dân chúng bi quan
Kể từ ngày mai, 06/11/2018, Mỹ sẽ áp dụng loạt trừng phạt mới nhắm vào dầu hỏa và ngân hàng Iran, trong lúc quốc gia Hồi Giáo này phải đứng trước nhiều khó khăn. Tại chỗ, người dân đã rất bi quan trước tình hình kinh tế xấu đi.
Đặc phái viên Sami Boukhelifa đã đến tìm hiểu tình hình tại ngôi chợ lớn ở Teheran :
« Chào mừng quý khách đến cửa hiệu Labafiane ». Ali Labbafiane, 45 tuổi, làm nghề bán thảm tại Teheran, một nghề cha truyền con nối. Vốn là một người đã tốt nghiệp khoa học chính trị, ông chủ tiệm bán thảm này đã theo sát tình hình đất nước, việc Iran bị Mỹ trừng phạt.
Ali nhận thấy là tình trạng quá bất công, và tỏ ra không mấy tin tưởng vào Châu Âu, bị ông cho là không có trọng lượng trước Mỹ. Ông ghi nhận chua chát là « Châu Âu nói rằng vẫn giữ thỏa thuận, nhưng các tập đoàn của họ lại đang cuốn gói rời Iran ».
Các tập đoàn đa quốc gia đang rút đi, đồng tiền Iran sụt giá, đời sống trở nên đắt đỏ. Tình hình sẽ còn nghiêm trọng hơn vì Washington lần này muốn đánh mạnh hơn vào lãnh vực then chốt dầu hỏa, để buộc Iran thương lượng lại một thỏa thuận nghiêm ngặt hơn về hạt nhân, chấm dứt chương trình tên lửa đạn đạo và ảnh hưởng trong khu vực.
Ali Labbafiane cũng trách Iran về có trách nhiệm làm xẩy ra tình hình hiện nay, khi phạm sai lầm là ký thỏa thuận giải trừ hạt nhân. Theo ông, « Nếu Iran không ký và tiếp tục chương trình hạt nhân của mình, thì ngày nay sẽ có thể được như Bắc Triều Tiên, thương lượng trong thế mạnh. »
Tình hình kinh tế Iran đang cực kỳ khó khăn. Đối với Ali Labbafiane, trong 20 năm gần đây, ông chưa từng thấy một tình trạng nào tệ hại như vậy.
http://vi.rfi.fr/quoc-te/20181104-iran-chuan-bi-doi-mat-voi-trung-phat-moi-cua-my-dan-chung-bi-quan
TQ lại gặp ác mộng
Trong bối cảnh cuộc chiến tranh thương mại ngày càng leo thang với Mỹ, Trung Quốc lại gặp “ác mộng” mới khi Tổng thống Donald Trump tuyên bố ý định “khai tử” Hiệp ước các lực lượng hạt nhân tầm trung (INF).
Quyết định này sẽ “cởi trói” cho Washington trong cuộc cạnh tranh với Bắc Kinh nhằm chế tạo các loại vũ khí chiến lược bị cấm trong hiệp ước này.
INF do Tổng thống Mỹ Ronald Reagan và nhà lãnh đạo cuối cùng của Liên Xô Mikhail Gorbachev ký tháng 12/1987, theo đó cấm Washington và Moscow phóng tên tửa hành trình từ mặt đất có tầm bắn từ 500 – 5.500 km. Đây cũng là cách để cải thiện mối quan hệ giữa hai nước hướng tới việc chấm dứt Chiến tranh Lạnh.
Tuy nhiên, từ năm 2011, Moscow và Washington lần lượt cáo buộc lẫn nhau vi phạm INF. Năm 2014, chính quyền Tổng thống Barack Obama đã công khai chỉ trích Nga không tôn trọng các cam kết. Trong một buổi điều trần trước Quốc hội Mỹ vào năm 2017, Phó Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Mỹ khẳng định Nga triển khai các loại tên lửa bị cấm ở khu vực thử tên lửa Kapustin Yar và một số địa điểm khác tại Nga. Ngày 20/10 vừa qua, Tổng thống Trump đã thông báo ý định Mỹ rút khỏi INF, với lý do Nga “vi phạm hiệp ước này từ nhiều năm nay” và “chúng ta sẽ không để họ vi phạm một thỏa thuận hạt nhân và chế tạo loại vũ khí mà chúng ta không được phép chế tạo”.
Dù ông Trump đổ lỗi cho các vi phạm tái diễn của Nga, nhưng việc Mỹ rút khỏi INF có lẽ không chỉ nhằm vào Nga, hay các loại vũ khí hạt nhân. Trong kỷ nguyên mới của cuộc cạnh tranh chiến lược, động thái này của ông Trump dường như đang nhằm thẳng vào “trận chiến” giữa Mỹ với Trung Quốc trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương, cho thấy Washington đang tăng tốc cuộc đọ sức chiến lược dài hạn với Bắc Kinh.
Trên thực tế, Bắc Kinh không phải là một bên tham gia INF và lâu nay đã đẩy mạnh triển khai phát triển những lực lượng tên lửa “khủng” mới. Trong số đó, phải kể đến tên lửa đạn đạo tầm trung DF-26 có tầm bắn đối đa 4.000 km, mà Lầu Năm Góc nói rằng có thể đe dọa lãnh thổ Mỹ và cả các lực lượng trên biển ở tận xa như Guam ở Thái Bình Dương của Mỹ. Hệ thống tên lửa này được Trung Quốc triển khai lần đầu tiên vào năm 2016.
Một bài báo trên CNN cho biết quân đội Trung Quốc đã và đang trải qua quá trình hiện đại hóa từ năm 1987, đầu tư hàng tỷ USD vào việc mua sắm và phát triển vũ khí mới. Và lĩnh vực mà Trung Quốc đầu tư mạnh tay là phát triển tên lửa. Một báo cáo của Lầu Năm Góc năm 2018 cho biết Bắc Kinh đã cải thiện đáng kể kho tên lửa hành trình, điều này có thể khiến các tàu chiến của Mỹ khó tiếp cận bờ biển Trung Quốc khi xảy ra giao tranh.
Trước thực tế đó, giới chức chính quyền Tổng thống Trump cho rằng INF đặt Mỹ vào thế bất lợi vì Trung Quốc không phải chịu bất kỳ hạn chế nào về việc phát triển tên lửa hạt nhân tầm trung ở Thái Bình Dương. Hơn thế, hiệp ước này lại không cho phép Mỹ phát triển vũ khí mới. Năm 2017, Tư lệnh Bộ chỉ huy Thái Bình Dương – Đô đốc Harry Harris – thông báo trước Quốc hội Mỹ rằng gần 95% lực lượng tên lửa của Trung Quốc vi phạm INF nếu họ là một bên ký kết hiệp ước này.
Giới chức Mỹ lâu nay vẫn dựa vào những năng lực khác để đối phó với Trung Quốc, như sử dụng tên lửa bắn từ tàu chiến hoặc chiến đấu cơ của Mỹ. Tuy nhiên, những ý kiến ủng hộ việc Mỹ đáp trả bằng tên lửa trên mặt đất cho rằng đó là cách tốt nhất để ngăn chặn Trung Quốc sử dụng các lực lượng tên lửa mặt đất hùng mạnh của họ.
Eric Sayers, một chuyên gia phòng thủ tại Trung tâm An ninh mới của Mỹ, nhận định rằng không quá khó để Mỹ triển khai tên lửa hành trình phóng từ mặt đất gần Trung Quốc, như Nhật Bản hay Philippines, miễn là những nước này chấp nhận. Hơn nữa, việc phát triển tên lửa hành trình phóng từ mặt đất là một lựa chọn tốt hơn vì chi phí sẽ rẻ hơn so với việc phóng tên lửa từ máy bay, tàu chiến và tàu ngầm. Như vậy, việc tham gia INF khiến Mỹ đã bỏ lỡ một loại vũ khí quan trọng để bảo vệ đất nước.
Về phần mình, ông Dan Blumenthal, cựu quan chức Lầu Năm Góc và hiện làm việc tại Viện Doanh nghiệp Mỹ, cho rằng rút khỏi INF có thể mở đường cho Mỹ triển khai hệ thống tên lửa truyền thống di chuyển trên mặt đất và dễ ẩn giấu hơn đến các vị trí như Guam và Nhật Bản. Khi đó, Trung Quốc sẽ gặp khó khăn hơn khi nghĩ đến việc kích hoạt một cuộc tấn công trước tiên nhằm vào tàu thuyền và căn cứ của Mỹ trong khu vực. Điều này cũng có thể buộc Bắc Kinh dấn thân vào một cuộc đua vũ trang “hao tiền tốn của” và buộc Trung Quốc phải chi tiêu nhiều hơn vào việc phát triển hệ thống phòng thủ tên lửa.
Thậm chí Australia có thể là một trong những vị trí được Washington “nhắm đến” để triển khai tên lửa của mình. Tuy nhiên, giới chuyên gia cũng cảnh báo Bắc Kinh chắc chắn sẽ gây sức ép lên các nước ở khu vực để buộc họ từ chối những yêu cầu của Mỹ về lắp đặt tên lửa ngay “sát nách” Trung Quốc.
Các chiến lược gia Trung Quốc từ lâu đã rất lo lắng về kịch bản INF không còn hiệu lực, trong đó các hệ thống phòng thủ của Mỹ và các đồng minh của Mỹ trong khu vực có thể ngăn cản Hải quân Trung Quốc thể hiện sức mạnh vượt biển xa, vượt ra ngoài chuỗi đảo thứ nhất.
Phản ứng trước thông báo mới của Mỹ, Zhao Tong, chuyên gia làm việc tại Viện nghiên cứu Carnegie-Thanh Hoa, cảnh báo hành động này có thể dẫn đến một cuộc chạy đua vũ trang mới, với sự tham gia của các quốc gia khác, ngoài Nga và Mỹ. Theo chuyên gia trên, quyết định “xé bỏ” INF làm suy yếu nghiêm trọng chế độ kiểm soát vũ khí hiện tại, vốn đã tồn tại một cách lỏng lẻo ngay từ những ngày đầu. Bước đi này của Mỹ có thể dẫn đến việc các nước khác sẽ quan tâm hơn đến việc phát triển và triển khai các tên lửa tầm trung và tầm ngắn, cũng như tham gia vào cuộc chạy đua vũ trang ngày càng tăng giữa các cường quốc.
Như vậy, dù đa phần tin tức hiện tập trung vào yếu tố Nga trong quyết định của Mỹ rút khỏi INF, và những thách thức tiềm ẩn đối với châu Âu sau khi hiệp ước này bị “khai tử”, nhưng đừng ngây thơ, bởi trò chơi thực sự đáng xem sẽ diễn ra ở châu Á
http://biendong.net/goc-nhin-moi/24505-tq-lai-gap-ac-mong.html
Chủ tịch Tập gặp Thủ tướng Phúc ở Trung Quốc
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình hôm 4/11 đã hội đàm với Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc khi người đứng đầu chính phủ Việt Nam tới Thượng Hải dự Hội chợ Nhập khẩu Quốc tế khai mạc ngày 5/11.
Reuters dẫn lời ông Tập nói rằng 2018 đánh dấu 10 năm ngày thiết lập mối quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước.
Chủ tịch Tập nói thêm rằng Trung Quốc và Việt Nam “nên duy trì truyền thống trao đổi cấp cao, gần gũi, giữa hai đảng và hai nhà nước, thúc đẩy cho ‘Sáng kiến vành đai và con đường’ của Trung Quốc cũng như kế hoạch ‘Hai hành lang một vành đai’ của Việt Nam, đồng thời xác nhận các lĩnh vực hợp tác ưu tiên”.
Theo Reuters, ông Tập nói rằng Việt Nam là đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc ở Đông Nam Á, và nhấn mạnh rằng Bắc Kinh sẽ nhập khẩu thêm các hàng hóa của Việt Nam có thể bán được tại thị trường Trung Quốc.
Chủ tịch của Trung Quốc còn được trích lời nói rằng “hai bên nên cùng nỗ lực để duy trì ổn định và hòa bình hàng hải, cũng như tăng cường hợp tác hàng hải”.
Trong khi đó, ông Phúc được hãng tin Anh nói rằng Việt Nam sẽ tham gia mối quan hệ hợp tác thực tiễn với Trung Quốc và tăng cường sự kết nối của ‘Sáng kiến vành đai và con đường’ và kế hoạch ‘Hai hành lang một vành đai’.
Ông Phúc nói thêm rằng hội chợ nhập khẩu quốc tế cho thấy cam kết của Trung Quốc đối với việc mở cửa thị trường và thương mại tự do, đồng thời nói tiếp rằng Việt Nam sẽ xử lý phù hợp các vấn đề hàng hải theo sự đồng thuận và các nguyên tắc mà lãnh đạo hai nước đạt được, theo Reuters.
Hãng tin này dẫn nguồn tin chính phủ Trung Quốc hôm 29/10 nói rằng tổng cộng có 18 lãnh đạo các nước, trong đó có Việt Nam, sẽ đến tham dự hội chợ ở Thượng Hải.
Các lãnh đạo đến từ Nga, Pakistan, thậm chí ngay cả đảo quốc nhỏ bé Cook, nhưng lại không có một quốc gia lớn nào của phương Tây.
https://www.voatiengviet.com/a/chu-tich-trung-quoc-gap-thu-tuong-viet-nam-o-thuong-hai/4644112.html
Tại sao Nhật Bản có nhiều plutonium đến vậy?
Mười năm sau khi Hiroshima và Nagasaki bị đốt thành tro bởi bom hạt nhân Mỹ, Nhật Bản đã chấp nhận chính sách “hạt nhân vì hòa bình”, một chính sách về năng lượng hạt nhân dân sự do tổng thống Hoa Kỳ Dwight Eisenhower hậu thuẫn.
“Của hồi môn” trong cuộc hôn nhân vì tiện lợi dường như bất khả thi trong Chiến tranh Lạnh này là sáu kilogram uranium đã làm giàu, được Nhật Bản sử dụng để vận hành một chương trình năng lượng hạt nhân vốn cuối cùng sẽ cung cấp một phần ba lượng điện năng cho nước này. Năm 1988, Nhật Bản được phép – dưới sự kiểm soát chặt chẽ của quốc tế – làm giàu uranium và chiết xuất plutonium, sử dụng một công nghệ tương tự trong chế tạo bom hạt nhân. Tháng 07/2018, hai chính phủ Hoa Kỳ và Nhật Bản đã gia hạn thỏa thuận năm 1988. Nhật Bản hiện đã tích luỹ được 47 tấn plutonium, đủ để sản xuất 6.000 quả bom. Nhật Bản đang làm gì với khối lượng plutonium lớn như vậy?
Plutonium nằm ở trung tâm giấc mơ đã tan vỡ của Nhật Bản về độc lập năng lượng. Nguồn nhiên liệu đã sử dụng từ các lò phản ứng hạt nhân có thể được tái xử lý để chiết xuất plutonium, sau đó được tái chế thành hỗn hợp nhiên liệu oxit, hay còn gọi là MOX. Loại nhiên liệu này được dự kiến sử dụng trong các lò phản ứng của Nhật Bản nhưng hầu hết các nhà máy điện hạt nhân của nước này đã đóng cửa kể từ sau thảm họa Fukushima năm 2011. Các cuộc kiểm tra an toàn nghiêm ngặt hơn đã không thể trấn an công chúng sợ hạt nhân rằng các lò phản ứng có thể được khởi động lại. Và đội ngũ chuyên gia năng lượng hạt nhân của Nhật Bản đang già đi. Taro Kono, Ngoại trưởng Nhật Bản, đã thừa nhận rằng tình trạng này là “cực kỳ bất ổn”.
Vị thế của Nhật Bản như một siêu cường plutonium ngày càng nhận được nhiều sự chú ý. Chính phủ Nhật Bản nói rằng họ không có ý định chế tạo một quả bom. Nhưng Trung Quốc và các nước khác đặt câu hỏi về việc Nhật có thể được cho phép dự trữ plutonium trong bao lâu. Các nhà phân tích lo ngại về một cuộc cạnh tranh trong việc tích lũy plutonium ở châu Á. Hơn nữa, nguồn dự trữ của Nhật Bản, vốn đã đạt cấp độ vũ khí, đang được tái xử lý và lưu trữ ở Pháp và Anh. Nó được vận chuyển trong các đoàn tàu vận tải được vũ trang hạng nặng. Hoa Kỳ cho biết các chuyến hàng và việc lưu trữ plutonium trong các khu vực dân sự dẫn tới một mối đe dọa tiềm tàng đối với các mục tiêu không phổ biến vũ khí hạt nhân: chúng có thể được chuyển hướng để chế tạo vũ khí, hoặc bị nhắm mục tiêu bởi những kẻ khủng bố. Hoa Kỳ đang thúc đẩy Nhật để bắt đầu giảm lượng tích trữ.
Một giải pháp có thể là khởi động lại nhà máy Rokkasho, nhà máy trọng tâm trong chính sách tái chế hạt nhân của Nhật Bản. Rokkasho, nằm ở xứ tuyết miền bắc của Nhật Bản, có thể tái xử lý 8 tấn plutonium mỗi năm. Nhưng nhà máy này đã tiêu tốn gấp ba lần ngân sách dự kiến và đã bị chậm tiến độ hai thập niên (nhà máy này giờ được dự kiến mở cửa vào tháng 03 năm 2022). Ngay cả khi nó có thể hoạt động vào một ngày nào đó, hầu hết các lò phản ứng sử dụng nhiên liệu MOX vẫn sẽ đang đóng cửa. Hoa Kỳ có thể thắt chặt các điều khoản hoặc thậm chí chấm dứt hiệp ước 1988 (có một điều khoản cho phép Hoa Kỳ thực hiện điều này), mặc dù mối quan hệ liên minh song phương mạnh mẽ làm cho việc này rất khó xảy ra. Điều đó có nghĩa là Nhật Bản hoặc sẽ phải tìm cách chôn toàn bộ lượng dự trữ của mình dưới lòng đất – một mục tiêu hết sức khó khăn về mặt kỹ thuật và tốn kém — hoặc trả tiền cho các nước như Anh và Pháp để lưu trữ ở nước ngoài, có lẽ là vĩnh viễn. Kịch bản khả dĩ nhất là tiếp tục giữ nguyên tình trạng hiện thời, dù điều đó có bất ổn.
http://biendong.net/bien-dong/24518-tai-sao-nhat-ban-co-nhieu-plutonium-den-vay.html
Vùng cấm bay và cấm tập trận
gần biên giới Hàn-Triều có hiệu lực
Ngày 1/11, vùng cấm bay và lệnh cấm tập trận gần biên giới giữa Hàn Quốc và Triều Tiên đã chính thức có hiệu lực.
Theo đó, vùng cấm bay được thiết lập trải dài 40 km từ Bắc xuống Nam, tính từ ranh giới quân sự (MDL) ở phía Đông và 20 km về phía Tây.
Đây là các bước đi mới nhất, được thực hiện theo thỏa thuận quân sự được ký kết trong cuộc gặp thượng đỉnh liên Triều hồi tháng 9 vừa qua ở Bình Nhưỡng.
Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân Hàn Quốc Park Han-ki cho biết: “Để thực hiện thỏa thuận quân sự trong tuyên bố Bình Nhưỡng, lực lượng quân đội Hàn Quốc và Triều Tiên đã đình chỉ tất cả các hành vi thù địch trên khu vực biên giới, tại mặt đất, hải quân và không quân từ ngày hôm nay. Hành động này sẽ là một bước tiến mới hướng tới hòa bình và thịnh vượng trên bán đảo Triều Tiên.”
Trước đó, hồi tháng 9, Triều Tiên và Hàn Quốc đã đạt được thống nhất về việc dừng “toàn bộ hành động thù địch” và tháo dỡ dần các loại mìn cũng như trạm gác ở Khu Phi quân sự (DMZ) và cấm các cuộc tập trận bắn đạn thật có sự tham gia của các máy bay cánh cố định và các loại vũ khí hành trình không đối đất trong khu vực cấm bay.
Cùng ngày, phát biểu trước Quốc hội Hàn Quốc, Tổng thống Moon Jae-in cũng cho biết, thông qua thỏa thuận quân sự, hai miền đã hoàn tất việc xóa bỏ mọi nguy cơ xảy ra va chạm quân sự.
Tổng thống Hàn Quốc hi vọng nước này cùng với Triều Tiên và Mỹ sẽ đạt phi hạt nhân hóa hoàn toàn Bán đảo Triều Tiên và hòa bình lâu dài dựa trên lòng tin vững chắc
Triều Tiên đe dọa tiếp tục phát triển hạt nhân
nếu Mỹ không bỏ chế tài
Triều Tiên cảnh báo họ có thể khôi phục một chính sách quốc gia nhằm củng cố kho vũ khí hạt nhân nếu Mỹ không dỡ bỏ các chế tài kinh tế đối với nước này.
Một thông cáo của Bộ Ngoại giao hôm thứ Sáu cho biết Triều Tiên có thể áp dụng lại chính sách “pyongjin” mà theo đó họ phát triển lực lượng hạt nhân song song với phát triển kinh tế nếu Mỹ không thay đổi lập trường. Triều Tiên không đe dọa sẽ từ bỏ đàm phán hạt nhân đang diễn tiến với Washington.
Tuy nhiên, nước này cáo buộc Washington làm chệch hướng những cam kết của lãnh tụ Triều Tiên Kim Jong Un và Tổng thống Donald Trump tại hội nghị thượng đỉnh tháng 6 của hai người ở Singapore để nỗ lực giải trừ hạt nhân bán đảo Triều Tiên. Đây là lần đầu tiên triều Tiên nói họ có thể tiếp tục thực hiện các vụ thử nghiệm vũ khí và các hoạt động phát triển khác kể từ khi ông Kim báo hiệu có một chính sách quốc gia mới vào tháng 4.
Thông cáo của Bộ Ngoại giao Triều Tiên, được phát đi dưới tên của giám đốc Viện Nghiên cứu Mỹ của Bộ, nói “cải thiện quan hệ và chế tài là hai chuyện không tương thích.”
“Hoa Kỳ nghĩ rằng luận điệu ‘chế tài và áp lực’ lặp đi lặp lại của họ sẽ dẫn tới ‘giải trừ hạt nhân.’ Chúng tôi không thể nhịn được cười trước ý tưởng ngốc nghếch như vậy,” thông cáo nói. Bộ mô tả việc dỡ bỏ các chế tài do Mỹ lãnh đạo là hành động tương ứng với “các biện pháp chủ động và thiện chí” của Triều Tiên, dường như đề cập đến việc nước này đơn phương đình chỉ các cuộc thử nghiệm phi đạn đạn đạo liên lục địa và phi đạn hạt nhân và đóng một địa điểm thử hạt nhân.
Sau một loạt các vụ thử hạt nhân và phi đạn khiêu khích vào năm ngoái, ông Kim chuyển qua ngoại giao khi ông gặp ông Trump giữa ba hội nghị thượng đỉnh với Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in, người đã vận động mạnh để hồi sinh ngoại giao hạt nhân.
Tuy nhiên, miền Bắc đã đưa ra những lời lẽ cứng rắn kể từ hội nghị thượng đỉnh, nhất mực đòi các chế tài phải được dỡ bỏ trước khi có bất kì tiến bộ nào trong đàm phán hạt nhân.
Triều Tiên : Mỹ- Hàn mở lại cuộc tập trận
bị đình hoãn từ tháng 5
Hải quân Mỹ và Hàn Quốc khai diễn cuộc tập trận chung kéo dài trong hai tuần kể từ ngày 05/11/2018. Cuộc tập trận này đã được đình hoãn trong 6 tháng để tạo thêm cơ may cho tiến trình giảm căng thẳng tại bán đảo Triều Tiên. Tin này được loan báo một ngày sau khi Bình Nhưỡng đe dọa mở lại chương trình hạt nhân.
Theo hãng Yonhap, cuộc tập trận chung giữa hải quân Mỹ-Hàn diễn ra ngoài khơi thành phố Pohang, nhìn ra Biển Đông của Hàn Quốc. Lực lượng tham dự gồm một tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến Nam Hàn và Lữ đoàn 3 viễn chinh của Mỹ đóng tại Okinawa, Nhật Bản.
Chương trình tập trận Thủy Quân Lục Chiến Mỹ tại Hàn Quốc, gọi tắt là KMEP, được tổ chức hàng chục lần mỗi năm. Từ tháng 10/2017 đến tháng 9/2018, hai nước dự trù 19 cuộc tập trận nhưng chỉ thực hiện có 11 lần. Trong 12 tháng tới, theo báo cáo của quân đội với Quốc Hội, sẽ có tổng cộng 24 cuộc tập trận chung KMEP được dự trù. Tuy nhiên, chính phủ hai nước sẽ thông báo quyết định chính thức trước ngày 1 tháng 12 tới sau một cuộc họp song phương.
Washington và Seoul giảm bớt các cuộc tập trận lớn như Ulchi Freedon Guardian, Vigilant Act để tránh gây bất bình cho Bắc Triều Tiên trong khuôn khổ tiến trình hòa giải và phi hạt nhân hóa. Tuy nhiên, ngày hôm qua, bộ Ngoại Giao Bắc Triều Tiên đe dọa sẽ « trở lại chiến lược phát triển vũ khí hạt nhân » nếu Washington không bỏ lệnh trừng phạt kinh tế.
Trong khi đó tại Bắc Triều Tiên, hãng thông tấn KCNA chào mừng chuyến công du « lịch sử »của chủ tịch Cuba Miguel Diaz-Canel, nhưng không cho biết một chi tiết nào về chương trình thăm viếng.
Lãnh đạo Cuba đến Bình Nhưỡng sau khi thăm Matxcơva, được tổng thống Putin hứa giúp 50 triệu đô để mua vũ khí, theo báo Nga Kommersant.
http://vi.rfi.fr/chau-a/20181104-trieu-tien-my-han-mo-lai-cuoc-tap-tran-bi-dinh-hoan-tu-thang-5