Tin Biển Đông – 15/10/2018
Biện pháp đối phó với những hành động phi pháp
của TQ trên Biển Đông
Đối với những hành động phi pháp, mang tính khiêu khích và đe dọa hòa bình, ổn định trong khu vực Biển Đông của Trung Quốc, cộng đồng quốc tế cần có các hành động cứng rắn và thống nhất để đối phó với Trung Quốc. Xét từ nhiều khía cạnh cho thấy, các nước liên quan có thể áp dụng nhiều biện pháp như ngoại giao, quân sự, pháp lý hay kinh tế để đối phó với những hoạt động phi pháp của Bắc Kinh.
Về các biện pháp ngoại giao:
Cộng đồng quốc tế, đặc biệt là các nước có lợi ích trực tiếp ở Biển Đông cần thống nhất lập trường, quan điểm trong việc ngăn chặn các hoạt động phi pháp của Trung Quốc ở Biển Đông; tích cực đưa ra các tuyên bố lên án, chỉ trích hành động ngang ngược của Bắc Kinh tại các diễn đàn quốc tế và khu vực. Cụ thể: (1) Tại các diễn đàn, hội nghị quốc tế và khu vực, lãnh đạo các nước liên quan cần tích cực đưa ra các tuyên bố, phát ngôn chỉ trích, lên án những hành động phi pháp của Trung Quốc ở Biển Đông. Thời gian qua, rất nhiều nước, đặc biệt là những nước lớn trong khu vực cũng như trên thế giới đã tích cực thể hiện vai trò, trách nhiệm trong việc lên án những hành động khiêu khích, coi thường luật pháp quốc tế của Trung Quốc ở Biển Đông. Mỹ, Nhật Bản, Australia, Pháp, Anh, Philippines, Singapore… đều nhiều lần đưa ra các tuyên bố thể hiện sự quan ngại, phản đối các hành động đơn phương, quân sự hóa của Bắc Kinh đối với khu vực quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; đồng thời kêu gọi cộng đồng quốc tế cần có các hành động cụ thể nhằm đảm bảo tự do hàng hải, hàng không ở Biển Đông, cũng như hòa bình, ổn định trong khu vực. (2) Các nước liên quan cũng cần tăng cường can thiệp ngoại giao trực tiếp với Trung Quốc nhằm thể hiện thái độ, quan điểm của mình đối với vấn đề Biển Đông. Trong những năm gần đây, tại các cuộc gặp cấp cao giữa một số nước như Mỹ, Nhật Bản, Philippines, Việt Nam… với Trung Quốc, các nước đều đề cập quan điểm, thái độ liên quan tình hình Biển Đông. Hành động này của các nước liên quan đã góp phần quan trọng trong việc đảm bảo hòa bình, ổn định ở khu vực và kiềm chế, ngăn chặn Trung Quốc gia tăng các hoạt động phi pháp ở Biển Đông. (3) Các nước liên quan tranh chấp cần tiếp tục thúc đẩy tiến trình quốc tế hóa vấn đề Biển Đông, tạo điều kiện thuận lợi để cộng đồng quốc tế hiểu rõ bản chất, tác động và ảnh hưởng của tranh chấp Biển Đông đối với hòa bình, ổn định của khu vực cũng như trên thế giới. Trên thực tế, tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông vốn là một vấn đề quốc tế, nhưng nó đang bị Trung Quốc kiềm hãm và tìm cách ngăn cản cộng đồng quốc tế can thiệp vào, khiến tình hình tranh chấp ngày càng xấu đi. (4) Các tổ chức quốc tế và khu vực như Liên hợp quốc, ASEAN, NATO, EU… cần thể hiện vai trò của mình trong việc duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông, ngăn chặn các hành động phi pháp, khiêu khích trong khu vực, vì nếu tranh chấp ở Biển Đông trở nên căng thẳng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của cộng đồng quốc tế, đặc biệt là những nước trong khu vực, những nước có hoạt động giao thương hàng hải qua Biển Đông.
Nhìn chung, cộng đồng quốc tế, đặc biệt là Mỹ, Nhật Bản, Australia, Ấn Độ… cần gia tăng mức độ can dự ở Biển Đông bằng nhiều hình thức khác nhau; phản đối việc Trung Quốc tuyên bố chủ quyền phi pháp và ngăn chặn Bắc Kinh độc chiếm Biển Đông; chủ trương giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán đa phương, tích cực ủng hộ chủ trương quốc tế hóa vấn đề Biển Đông; coi những hành động ngang ngược của Trung Quốc ở Biển Đông là nhân tố gây mất ổn định trong khu vực. Các nước cần thúc đẩy quốc tế hóa vấn đề Biển Đông bằng cách kêu gọi các bên tôn trọng quyền tự do hàng hải, hàng không trên Biển Đông, ủng hộ các nước ASEAN đấu tranh chống việc Trung Quốc xây dựng đảo nhân tạo tại Trường Sa, thúc đẩy quốc tế hóa vấn đề Biển Đông tại các diễn đang quốc tế.
Về các biện pháp quân sự:
Trước các hành động ngày càng bất chấp luật pháp quốc tế của Trung Quốc ở Biển Đông, các nước có tranh chấp chủ quyền lãnh thổ và Vùng đặc quyền kinh tế với Trung Quốc cần tăng cường sức mạnh quân sự và có các hành động cụ thể để bảo vệ những tuyến đường biển, cầu cảng cũng như các đường biên giới biển quan trọng cho hoạt động xuất nhập khẩu, cung cấp nhiên liệu. (1) Các nước cần đầu tư, mua sắm trang thiết bị quân sự để đề phòng bị Trung Quốc sử dụng vũ lực đánh chiếm các đảo, đá ở Biển Đông. Tuy khả năng xảy ra xung đột vũ trang quy mô lớn là không cao, song không thể loại trừ việc Trung Quốc sử dụng sức mạnh quân sự để xâm chiếm các đảo, đá ở Biển Đông và ép các nước, trong đó có Việt Nam phải từ bỏ tuyên bố chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vì vậy, phần lớn các nước ASEAN tập trung mua sắm vũ khí hiện đại, đáp ứng cho hoạt động phòng không và phòng vệ trên biển như tàu chiến, tàu tuần tra, hệ thống radar, máy bay chiến đấu, tàu ngầm và tên lửa chống hạm. Chuyên gia phân tích Công nghiệp Quốc phòng châu Á Thái Bình Dương Jon Grevatt (tạp chí IHS Jane’s) nhận định, “bảo vệ chủ quyền là mục tiêu hàng đầu của chính phủ các nước trong khu vực. Rõ ràng các hoạt động của Trung Quốc đã làm gia tăng vấn đề về bảo vệ lãnh thổ”. (2) Các nước cần tăng cường các hoạt động tập trận, tuần tra trong khu vực. Những hoạt động trên không chỉ góp phần đảm bảo hòa bình, ổn định ở Biển Đông, đối phó với các mối đe dọa về an ninh phi truyền thống mà còn có tác dụng trực tiếp răn đe, ngăn chặn các hoạt động khiêu khích của Bắc Kinh. Trong những năm gần đây, việc Mỹ và các nước đồng minh liên tục tiến hành tuần tra, đảm bảo tự do hàng hải, hàng không trong khu vực là một trong những ví dụ điển hình về việc ngăn chặn và thách thức hoạt động phi pháp của Trung Quốc ở Biển Đông. Mỹ và các nước đồng minh đã liên tục cử tàu chiến (bao gồm tàu ngầm, tàu sân bay, tàu khu trụ…), máy bay chiến đấu (máy bay trinh sát, máy bay ném bom B-52, máy bay tuần tra…) đến hoạt động trong khu vực Biển Đông. Đáng chú ý, những nước này đã nhiều lần cử tàu chiến áp sát các đảo nhân tạo do Trung Quốc chiếm đóng và cải tạo phi pháp ở quần đảo Trường Sa, quần đảo Hoàng Sa nhằm phản đối yêu sách chủ quyền của Bắc Kinh và qua đó thể hiện quyết tâm bảo vệ luật pháp quốc tế ở Biển Đông. Gần đây, Mỹ (27/5) tiếp tục cử tàu khu trục mang tên lửa dẫn đường USS Higgins và tàu tuần dương mang tên lửa dẫn đường USS Antietam tiến vào khu vực 12 hải lý gần các đảo Cây, Phú Lâm, Tri Tôn và Linh Côn (quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam). Đây là một phần trong hoạt động tuần tra đảm bảo tự do hàng hải và hàng không của các tàu và máy bay Mỹ trên Biển Đông. Người phát ngôn Bộ Quốc phòng Mỹ Christopher Logan khẳng định, lực lượng Mỹ hoạt động ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương mỗi ngày (bao gồm cả khu vực Biển Đông), nhấn mạnh mọi hoạt động của Mỹ đều tuân thủ theo luật pháp quốc tế và Mỹ sẽ điều máy bay, tàu chiến thực hiện nhiệm vụ ở bất cứ đâu luật quốc tế cho phép. Trước đó, Mỹ đã triển khai nhiều hoạt động tuần tra ở Biển Đông như điều tàu sân bay USS Theodore Roosevelt (10/4), tàu sân bay USS Carl Vinson (17/2) tuần tra Biển Đông, tàu khu trục hạm USS Mustin (23/3) tuần tra trong vùng biển sát đá Vành Khăn… (3) Tăng cường các hoạt động quân sự, đáp trả hành vi vi phạm pháp luật của Trung Quốc. Nổi bật nhất là việc Mỹ hủy lời mời Trung Quốc tham dự cuộc tập trận Vành đai Thái Bình Dương (RIMPAC) 2018. Người phát ngôn Bộ Quốc phòng Mỹ Chris Logan thông báo Mỹ đã rút lại lời mời Hải quân Trung Quốc tham gia cuộc tập trận Vành đai Thái Bình Dương (RIMPAC) 2018 nhằm phản ứng bước đầu đối với tình trạng Trung Quốc liên tục quân sự hóa ở Biển Đông, đồng thời cáo buộc hành động của Trung Quốc chỉ đẩy căng thẳng leo thang và gây bất ổn cho khu vực, nhấn mạnh hành vi của Trung Quốc không phù hợp với nguyên tắc và mục đích của cuộc tập trận RIMPAC.
Về các biện pháp pháp lý:
Việc Trung Quốc không tuân thủ luật pháp quốc tế trong việc đưa ra yêu sách chủ quyền ở Biển Đông, sử dụng vũ lực chiếm đóng phi pháp các đảo, đá, bãi cạn ở quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa (của Việt Nam), không tuân thủ phán quyết của Tòa Trọng tài (7/2016)… tạo tiền đề hợp pháp để các nước liên quan triển khai các biện pháp pháp lý đối phó với Trung Quốc: (1) Các nước cần chuẩn bị sẵn sàng về hồ sơ tài liệu để kiện Trung Quốc ra các cơ quan tài phán quốc tế về việc vi phạm các quy định, cam kết liên quan vấn đề Biển Đông. Philippines là nước đầu tiên đã kiện Trung Quốc ra Tòa Trọng tài thành lập theo Phụ lục VII của Liên hợp quốc về vấn đề Biển Đông. Theo đó, Philippines đã yêu cầu tòa lên tiếng trên 15 điểm, liên quan đến một số vấn đề chính: Tính bất hợp pháp của bản đồ “đường 9 đoạn” được Trung Quốc sử dụng để đòi hỏi chủ quyền với khoảng 80% diện tích Biển Đông, con đường huyết mạch cho giao thương quốc tế; phân loại và xác định quy chế cho các thực thể, để qua đó xác định các vùng biển cho 9 thực thể bao gồm Scarborough, Chữ Thập, Châu Viên, Gạc Ma, Vành Khăn, Cỏ Mây, Subi, Kennan và Gaven; những tác động đối với nghề đánh bắt thủy sản, khai thác dầu khí, những quyền lợi kinh tế, môi trường an ninh hàng hải của Philippines; Manila còn cáo buộc Bắc Kinh vi phạm UNCLOS vì đã tiến hành đánh cá và các hoạt động xây dựng gây phương hại đến các quyền lợi biển của Philippines; Philippines đã kêu gọi tòa án lên tiếng để Trung Quốc không tuyên bố các vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa từ các thực thể trong khu vực quần đảo Trường Sa. (2) Các nước liên quan cũng có thể khởi kiện Trung Quốc về việc sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực xâm chiếm phi pháp các đảo, đá ở Biển Đông; khởi kiện những hành động của Trung Quốc (quân sự hóa, cấm đánh bắt cá…) đe dọa các hoạt động tự do hàng hải, hàng không trong khu vực, cũng như đe dọa hòa bình ổn định ở Biển Đông. (3) Không những vậy, các nước cũng có thể khởi kiện Trung Quốc về việc vi phạm các quy định liên quan nghĩa vụ giải quyết hòa bình các tranh chấp ở Biển Đông, cũng như việc vi phạm các cam kết do chính Trung Quốc đưa ra đối với khu vực.
Về các biện pháp kinh tế, thương mại:
Để đảm bảo tối đa lợi ích kinh tế ở Biển Đông, các nước liên quan cần tăng cường phối hợp, hình thành các liên minh, hợp tác khai thác tài nguyên, khoáng sản, hải sản và dấu khí trong khu vực. Việc hợp tác kinh tế không chỉ giúp các nước đẩy nhanh quá trình thăm dò, khai thác tài nguyên ở Biển Đông mà còn giúp các nước hỗ trợ lẫn nhau trong việc ngăn chặn, đối phó với Trung Quốc ở Biển Đông, cụ thể: (1) Các nước có thể hình hành một cơ chế hợp tác đánh bắt hải sản ở Biển Đông. Tính đến thời điểm hiện tại, Trung Quốc là nước đầu tiên ở ven Biển Đông đơn phương đưa ra những quy định phi pháp về lệnh cấm đánh bắt cá hàng năm ở Biển Đông. Hành động của Trung Quốc không chỉ vi phạm các quy định của luật pháp quốc tế, mà còn gây ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động đánh bắt hợp pháp các của các nước trong khu vực. Không những vậy, Trung Quốc còn thường xuyên sử dụng các lực lượng chấp pháp, các lực lượng bán vũ trang và cả những tàu cá trá hình để tấn công, đâm va, bắt bớ, thậm chí là nổ súng bắn phá tàu cá, ngư dân các nước. Nếu các nước ven Biển Đông có thể hình thanh một cơ chế hợp tác có thể sẽ ngăn chặn được các hoạt động phi pháp này của Trung Quốc. (2) Các nước cần tăng cường hợp tác thăm dò, khai thác dầu khí trong khu vực. Nhìn chung, các nước ven Biển Đông đều có trình độ khoa học kỹ thuật lạc hậu hơn so với Trung Quốc, chính vì vậy, việc thăm dò, khai thác dầu khí ở Biển Đông còn gặp nhiều khó khăn và thách thức. Để khai thác được nguồn tài nguyên phong phú này, các nước liên quan cần tăng cường hợp tác với những nước có trình độ khoa học kỹ thuật hiện đại và có đủ khả năng răn đe cũng như đáp trả các hoạt động khiêu khích của Trung Quốc như Mỹ, Nga, Nhật Bản, Anh, Ấn Độ… Tính đến thời điểm hiện tại, Trung Quốc đã nhiều lần sử dụng vị thế quốc tế cũng như sức mạnh quân sự để đe dọa, ngăn chặn (phi pháp) các nước hợp tác khai thác dầu khí ở Biển Đông. (3) Ngoài ra, các nước liên quan cũng cần có các biện pháp chế tài về kinh tế, thương mại để phản đối các hoạt động phi pháp của Trung Quốc trong khu vực. Tuy Trung Quốc vừa là nền kinh tế thứ hai trên thế giới, vừa là công xưởng sản xuất và thị trường lớn trên thế giới, nhưng nếu cộng động quốc tế cùng hợp tác ngăn chặn Trung Quốc thì hoàn toàn có thể thực hiện được. Chỉ đơn cử một ví dụ, tất cả các nước cùng ngừng nhập khẩu các mặt hàng do Trung Quốc khai thác, đánh bắt trái phép ở Biển Đông thì sẽ có ảnh hưởng nhất định đối với nền kinh tế của Bắc Kinh. Và đương nhiên, Chính phủ Trung Quốc sẽ phải có các biện pháp điều chỉnh chiến lược, ngừng các hành động leo thang căng thẳng cũng như hoạt động khiêu khích trong khu vực.
Nhìn chung, tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông không chỉ là vấn đề giữa Trung Quốc và một số nước, mà nó là một vấn đề mang tính toàn cầu, có tác động, ảnh hưởng trực tiếp đối với hòa bình, ổn định trong khu vực cũng như trên thế giới. Vì vậy, cộng đồng quốc tế cần nỗ lực hợp tác nhằm ngăn chặn, kiềm chế và lên án những hành vi vi phạm pháp luật, cũng như những hành vi sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong việc giải quyết tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông.
Bản tin Biển Đông ngày 12/10/2018
Bộ trưởng Kinh tế Malaysia: tự do hàng hải ở Biển Đông phải không bị cản trở
Ngày 11/10, tờ The Star đưa tin, phát biểu bế mạc tại Hội thảo về Trung Quốc do Bưu điện Hoa Nam buổi sáng (South China Morning Post) tổ chức tại Kuala Lumpur, Malaysia, Bộ trưởng Kinh tế Malaysia Datuk Seri Azmin Ali khẳng định Malaysia duy trì lập trường rằng tự do hàng hải ở Biển Đông phải không bị cản trở, “khu vực này phải là khu vực hòa bình, tự do, trung lập và không được phép quân sự hóa”. Bộ trưởng Azmin nhấn mạnh “Khu vực Đông Nam Á đang coi Trung Quốc là người khổng lồ kinh tế mới với sự ngưỡng mộ chân thành, nhưng cũng có một số lo ngại vì sức mạnh quân sự của Trung Quốc. Cam kết của Trung Quốc đối với sự phát triển hòa bình là cực kỳ quan trọng đối với sự thịnh vượng của khu vực”.
Chuyên gia kêu gọi sớm có Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông
Theo Free Malaysia Today ngày 11/10, tại Hội thảo về Trung Quốc nói trên, các chuyên gia đã kêu gọi sớm có Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông sau vụ tiếp cận gần như đụng độ giữa tàu chiến của Mỹ và Trung Quốc tại khu vực vừa qua. Joseph Liow, Trưởng khoa Chính trị quốc tế và so sánh, Trường Nghiên cứu quốc tế S Rajaratnam, cho rằng “sự việc vừa qua cho thấy tầm quan trọng của việc thiết lập các chuẩn mực, hoặc một bộ quy tắc ứng xử, để phòng tránh các va chạm không lường trước”. Tang Siew Mun, Viện Nghiên cứu ISEAS-Yusof Ishak cảnh báo vụ tiếp cận này có thể trở thành quy tắc mới mà cả hai bên sẽ phải hành xử phù hợp với những hành động của bên kia. Ông Tang cho rằng nếu tình hình cứ đẩy lên cao, “các tính toán sai lầm có thể dẫn đến sự bế tắc mà chúng ta không thoát ra được, và trong trung hạn, điều này có thể dẫn đến xung đột mà không ai mong muốn”. Tuy nhiên, về vấn đề liệu căng thẳng ở Biển Đông có thể dâng cao đến mức Chiến tranh Lạnh hay không, Shahriman Lockman, nhà phân tích cao cấp thuộc Viện Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế Malaysia, cho rằng điều này sẽ không xảy ra, “những gì chúng ta đang có ở đây là nền hòa bình bất an”.
Australia và Nhật Bản tuần tra chung ở Biển Đông
Ngày 11/10, kênh tin tức ABC của Australia đưa tin, tại hội đàm cấp cao ngày 10/10, các Bộ trưởng Ngoại giao và Quốc phòng của Nhật và Australia đã thảo luận về khả năng hợp tác quân sự và an ninh trong khuôn khổ chiến lược của Tokyo về “Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và mở”. Bộ trưởng Ngoại giao Nhật Bản Taro Kono cho biết, có thể Nhật sẽ tham gia tuần tra trên biển cùng với Australia tại vùng Biển Đông tranh chấp. Vừa qua, Lực lượng Tự vệ biển của Nhật Bản đã có chuyến thăm đến nhiều nước ASEAN và có nhiều thứ các nước có thể cùng nhau triển khai. Bộ trưởng Kono cho rằng “Biển Đông rõ ràng là một khu vực có rất nhiều tranh cãi, chúng tôi sẽ xem xét chúng ta có thể cùng nhau làm gì”.
http://biendong.net/diem-tin/24160-ban-tin-bien-dong-ngay-12-10-2018.html
Sau B-2, Mỹ triển khai
máy bay ném bom nào “trấn” TQ?
Mỹ đã bắt đầu đưa vũ khí tấn công tầm xa đến vùng Thái Bình Dương trong bối cảnh sự thống trị của Washington ở đó bị đe dọa bởi sự trỗi dậy của Trung Quốc.
Không quân Mỹ vừa hoàn tất đợt triển khai 3 máy bay ném bom tàng hình Northrop Grumman B-2 Spirit đến căn cứ Pearl Harbor-Hickam ở bang Hawaii nhằm chứng tỏ năng lực của họ trong việc tấn công bất kỳ mục tiêu nào trên trái đất, kể cả sâu bên trong Trung Quốc.
Tướng Stephen Williams, giám đốc các chiến dịch trên không và không gian mạng của trụ sở Không quân Mỹ tại Thái Bình Dương, tuyên bố việc B-2 Spirit lần đầu tiên vận hành tại căn cứ Pearl Harbor-Hickam nêu bật sự linh hoạt chiến lược của Mỹ trong việc thể hiện sức mạnh từ bất kỳ đâu trên thế giới.
“B-2 thực thi các chiến dịch không quân thường lệ và hợp nhất năng lực của nó với các đối tác chính trong khu vực nhằm giúp đảm bảo một khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương tự do và rộng mở” – tuyên bố nêu rõ.
Đợt triển khai trên diễn kéo dài từ ngày 15-8 đến 27-9 qua. Trong thời gian này, máy bay ném bom chiến lược B-2 nói trên đã thực hiện các cuộc tập trận với Phi đội Vệ binh Quốc gia Hawaii số 199 và máy bay chiến đấu tàng hình Lockheed Martin F-22A Raptor.
Các cuộc tập trận giúp Không quân Mỹ nắm được B-2 và F-22 Raptor sẽ kết hợp ra sao trong một môi trường có mối đe dọa cao.
Khi bay trong các không phận được phòng thủ chặt chẽ, những chiếc F-22 sẽ bảo vệ B-2. Cùng nhau tác chiến, F-22 và B-2 sẽ dọn đường cho những máy bay khác tham gia tấn công trong một chiến dịch không kích thực thụ. Đây chính là kịch bản mà B-2 và F-22 tập luyện khi B-2 được triển khai tại Hawaii.
Không quân Mỹ có thể gia tăng triển khai máy bay B-2, và sau đó có thể là máy bay B-21 Raider sắp chế tạo, tới căn cứ trên và các căn cứ khác tại khu vực trong bối cảnh Trung Quốc củng cố chiến lược chống tiếp cân/chống xâm nhập (A2/AD) của mình.
Với việc những căn cứ ở gần đại lục Trung Quốc, như Nhật Bản, Hàn Quốc và cả đảo Guam của Mỹ, dễ bị tổn thương trong trường hợp Bắc Kinh tấn công bằng tên lửa hành trình và đạn đạo, năng lực tấn công tầm xa trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
Dù vậy, ngay cả Hawaii cũng đối mặt nguy cơ nếu Trung Quốc tiếp tục hoàn thiện năng lực tấn công chính xác tầm xa của mình. Thực tế, Mỹ trong tương lai có thể phải dựa vào các máy bay ném bom chiến lược tầm xa, như B-2, B-21 và B-52 và tên lửa hành trình để tấn công hiệu quả trong trường hợp nổ ra chiến tranh bởi tất cả căn cứ Mỹ tại khu vực đều có thể trở thành mục tiêu.
http://biendong.net/doc-bao-viet/24159-sau-b-2-my-trien-khai-may-bay-nem-bom-nao-tran-tq.html
Toàn cảnh hành động khiêu khích trắng trợn của TQ
đối với tàu Mỹ ở Biển Đông
Ngày đăng 15-10-2018
Theo trang tin CNN, tàu khu trục tên lửa dẫn đường USS Decatur của Hải quân Mỹ đang thực hiện chiến dịch tự do hàng hải gần đảo nhân tạo Trung Quốc bồi đắp phi pháp trên đá Ga Ven ở quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam thì tàu khu trục Lan Châu của Trung Quốc áp sát. Hải quân Mỹ cho biết, 2 tàu cách nhau 41m, tàu chiến Trung Quốc “thực hiện hàng loạt động tác cơ động càng lúc càng hung hăng, kèm theo những cảnh báo yêu cầu tàu khu trục USS Decatur rời khỏi khu vực”. Trước hành động áp sát “nguy hiểm và thiếu chuyên nghiệp” của tàu Lan Châu, tàu Decatur buộc phải đổi hướng để tránh va chạm. Sự việc diễn ra trong lúc căng thẳng giữa Mỹ và Trung Quốc dâng cao liên quan tranh chấp thương mại, Mỹ bán vũ khí cho Đài Loan, áp đặt lệnh trừng phạt đối với Trung Quốc vì mua vũ khí của Nga…
Bối cảnh quan hệ Trung – Mỹ:
Căng thẳng trong quan hệ Trung Quốc và Mỹ gia tăng trên nhiều mặt trận, từ việc chính quyền Tổng thống Donald Trump áp thuế quan đối với hàng hóa Trung Quốc đến việc Mỹ bán vũ khí cho Đài Loan và Mỹ công bố lệnh trừng phạt thương mại quân đội Trung Quốc do mua vũ khí từ Nga, cụ thể:
Về kinh tế, Chính quyền Tổng thống Mỹ Donald Trump (24/9) đã áp đặt mức thuế 10% đối với 200 tỷ USD hàng hóa Trung Quốc, ngoài các biện pháp thương mại đã được áp dụng. Chính phủ Trung Quốc ngay lập tức đáp trả, với mức thuế 5% đến 10% nhằm vào 60 tỷ USD hàng hóa của Mỹ. Sau vòng áp thuế mới, Bắc Kinh kêu gọi đàm phán thương mại với Washington, nhưng không thể mang lại dấu chấm hết cho cuộc chiến thương mại giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Về hoạt động quân sự, Mỹ liên tục cử máy bay ném bom B-52, tàu sân bay, tàu khu trục tiến hành các hoạt động tuần tra đảm bảo tự do hàng hải ở Biển Đông. Không những vậy, Mỹ đã áp đặt lệnh trừng phạt đối với Cục phát triển thiết bị (EDD) thuộc Bộ Quốc phòng Trung Quốc do cơ quan này mua máy bay chiến đấu và thiết bị liên quan hệ thống tên lửa phòng không của Nga. Theo lệnh trừng phạt mới vốn có hiệu lực ngay lập tức, Cục phát triển thiết bị (EDD) thuộc Bộ Quốc phòng Trung Quốc bị cấm đăng ký xin giấy phép xuất khẩu cũng như tham gia vào các giao dịch nước ngoài theo luật của Mỹ hoặc sử dụng hệ thống tài chính của Mỹ. Ngoài lệnh trừng phạt trên, Mỹ cũng đã phê duyệt bán vũ khí trị giá 330 triệu đôla cho Đài Loan. Đây là thỏa thuận bán vũ khí thứ hai của Mỹ cho Đài Loan kể từ khi ông Donald Trump nhậm chức.
Về ngoại giao, phát biểu tại HĐBA LHQ hồi tuần trước, Tổng thống Mỹ Donald Trump cáo buộc chính phủ Trung Quốc đang cố gắng can thiệp vào cuộc bầu cử vào giữa năm 2018 để chống lại đảng Cộng hòa.
Ngoài Mỹ, các đồng minh khác của Washington cũng đang tăng cường hiện diện quân sự tại biển Đông khị họ nhận được lời kêu gọi từ Mỹ. Tàu khu trục Anh Quốc HMS Argyll đã gia nhập cuộc diễn tập hải quân cùng tàu chiến Kaga và tàu khu trục Inazuma của hải quân Nhật Bản trên Ấn Độ Dương trước khi hướng tới Biển Đông. Trước đó, vào cuối tháng Tám, một tàu khu trục khác của Anh đã đi từ Nhật Bản qua Hoàng Sa để cập cảng Sài Gòn, thăm chính thức Việt Nam 4 ngày. Gầy đây, một tàu ngầm của Nhật Bản cũng đã có chuyến thăm Việt Nam 5 ngày trong chuỗi hoạt động nhằm đẩy mạnh các mối quan hệ hợp tác an ninh, quốc phòng giữa Nhật Bản và các nước trong khu vực Đông Nam Á.
Đáp trả các hành động của Mỹ, phía Trung Quốc cũng tăng cường đào tạo và tuần tra hàng hải. Trung Quốc (29/9) điều động hàng chục máy bay chiến đấu và máy bay ném bom tập trận bắn đạn thật trên Biển Đông. Cuộc tập trận được tiến hành bởi Chiến khu miền Nam của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA). Trung Quốc cũng triệu hồi Phó đô đốc Hải quân Shen Jinlong trở về từ chuyến thăm cấp cao đến Mỹ, đồng thời hủy cuộc gặp giữa ông và Tham mưu trưởng Hải quân Mỹ John Richardson. Bắc Kinh cũng không cho phép một tàu chiến của Mỹ đến thăm Hồng Công.
Diễn biến vụ việc:
Theo Wall Street Journal, tàu khu trục Decatur (30/9) thực hiện cuộc tuần tra kéo dài 10 tiếng trong khu vực 12 hải lý quanh đá Gaven và đá Côlin thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam, bị Trung Quốc chiếm đóng trái phép. Việc này được thực hiện theo quy định của luật pháp quốc tế và Mỹ xem là hoạt động tự do hàng hải (FONOP), thách thức các yêu sách chủ quyền phi lý của Trung Quốc.
Người phát ngôn Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ Charles Brown cho biết, khi tàu USS Decatur đến gần khu vực đá Gaven, thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam, tàu khu trục lớp Lữ Dương của Trung Quốc áp (chắn trước mũi tàu Mỹ với khoảng cách chưa đến 41 m) và thực hiện một loạt hành động với mức độ hung hăng gia tăng kèm theo cảnh báo yêu cầu tàu Decatur rời khỏi khu vực này.
Hành động lần này của Trung Quốc là dựa trên “tiền lệ” có sẵn trong cách ứng xử với tàu chiến Mỹ
Từ tháng 10/2015, Hải quân Mỹ đã tiến hành một số Chiến dịch Tự do hàng hải (FONOP) ở Biển Đông để thách thức các hành động phi pháp của Trung Quốc ở Biển Đông. Đây là lần chạm trán thứ hai giữa chiến hạm hai nước trên Biển Đông trong năm nay. Tháng 5/2018, các chiến hạm Trung Quốc phát cảnh báo xua đuổi hai tàu chiến Mỹ đang hoạt động gần quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam đang bị Trung Quốc chiếm đóng trái phép. Tuy nhiên, nếu tính từ năm 2015 đến nay thì đây là lần thứ 4 Trung Quốc có những hành động khiêu khích trắng trợn đối với tàu Mỹ ở Biển Đông. Tháng 12/2013, tàu tuần dương USS Cowpens đã kịp né tàu chiến Trung Quốc “trong gang tấc”. Một vụ việc tương tự đã xảy ra khi 5 chiếc tàu của Trung Quốc gây hấn với tàu do thám USNS Impeccable của Mỹ trên Biển Đông. Một trong số các tàu Trung Quốc đã tiếp cận rất gần với tàu Mỹ (trong khoảng cách hơn 7m), khiến thủy thủ đoàn trên tàu Mỹ phải dùng vòi chữa cháy để ngăn các tàu Trung Quốc tiếp tục tiến sát hơn.
Trung Quốc thường cho tàu chiến hoặc tàu cá dừng ngay trước tàu của Mỹ, khiến thuyền trưởng phải đột ngột dừng tàu để tránh va chạm với các tàu Trung Quốc đang chắn đường di chuyển của họ. Trong trường hợp khác, Trung Quốc điều các máy bay và dùng sóng vô tuyến trên Biển Đông để ngăn cản tàu chiến Mỹ hoạt động trong khu vực.
Mỹ lên án hành động khiêu khích của Trung Quốc, đồng thời nhấn mạnh sẽ tiếp tục hiện diện ở Biển Đông
Phó Tổng thống Mike Pence vào hôm nay (4/10) nhấn mạnh, “bất chấp những hành động khiêu khích, Mỹ vẫn sẽ thực hiện các chuyến bay và di chuyển trên những vùng biển được luật pháp quốc tế cho phép cũng như để đảm bảo lợi ích quốc gia. Chúng ta sẽ không để bị bắt nạt. Chúng ta sẽ không rút lui”. Cùng quan điểm trên, ông Charles Brown cho biết, khu trục hạm Decatur “đã đổi hướng để tránh va chạm”, song nhấn mạnh “lực lượng của chúng tôi sẽ tiếp tục bay, đi lại trên biển và hoạt động ở bất cứ nơi nào luật quốc tế cho phép”.
Trong khi đó, cựu chỉ huy Hải quân Mỹ Carl Schuster nhận định, hành động của Trung Quốc là rất nguy hiểm vì thuyền trưởng sẽ dễ mất bình tĩnh khi các tàu cách nhau dưới 900 m; nhấn mạnh trong trường hợp này, theo luật hàng hải quốc tế, tàu khu trục Mỹ có quyền và được yêu cầu tiếp tục duy trì hướng đi và tốc độ. Trách nhiệm phải duy trì an toàn với tàu Mỹ thuộc về tàu chiến Trung Quốc. Tuy nhiên, khu trục Trung Quốc lại tiến về phía bên phải, tiếp cận gần với Decatur, cố tìm cách để cắt đầu tàu Mỹ, buộc thuyền trưởng Mỹ phải ra quyết định nhanh chóng chuyển hướng.
Trung Quốc biện minh hành động khiêu khích của mình, đồng thời tìm cách chỉ trích Mỹ gây căng thẳng trong khu vực
Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị khẳng định rằng chủ quyền của Bắc Kinh đối với các đảo trên Biển Đông đã là “rất rõ ràng” và rằng nhân dân trên các đảo đó cảm thấy cần thiết phải tăng cường phòng thủ vì các cuộc tuần tra quân sự “dày đặc” của Mỹ.
Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Ngụy Phụng Hòa tuyên bố “phía Mỹ bị cáo buộc đơn phương gây hưởng quan hệ Mỹ – Trung, quan hệ quân sự giữa hai nước. Chúng tôi kêu gọi phía Mỹ có thái độ sáng suốt và xây dựng những điều kiện phù hợp cho trao đổi và hợp tác song phương”. Trong khi đó, Người phát ngôn Bộ Quốc phòng Trung Quốc Ngô Khiêm (2/10) cho rằng sự kiện này là tàu khu trục Trung Quốc chỉ tiến hành “thủ tục nhận dạng và xác thực theo luật, rồi cảnh báo tàu Mỹ rời đi”; cáo buộc việc Mỹ nhiều lần đưa tàu chiến đến gần các đảo nhân tạo ở Biển Đông đã “hủy hoại nghiêm trọng quan hệ giữa quân đội hai nước và làm xói mòn hòa bình, ổn định khu vực”, đồng thời tuyên bố quân đội Trung Quốc “phản đối quyết liệt những hành động như vậy”.
Tương tự, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh vẫn ngang ngược sử dụng giọng điệu cũ, là “Trung Quốc có chủ quyền không thể chối cãi với quần đảo Nam Sa” (cách phía Trung Quốc gọi quần đảo Trường Sa của Việt Nam).
Giới chuyên gia, học giả quốc tế đánh giá đây là hành động khiêu khích có chủ ý của Trung Quốc đối với Mỹ
Bà Bonnie Glaser, chuyên gia về Trung Quốc tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) nhận định, “không hạm trưởng nào của tàu chiến Trung Quốc có thể tự ý cho tàu áp sát khu trục hạm Decatur ở khoảng cách 41 m mà không có sự phê chuẩn từ cấp cao nhất, đó là Chủ tịch Tập Cận Bình”, đồng thời cho rằng đá Ga Ven chỉ là một bãi cạn nửa nổi nửa chìm nhỏ, đảo nhân tạo Trung Quốc bồi đắp phi pháp tại đây cũng có quy mô nhỏ và không có nhiều giá trị chiến lược. Vì vậy, việc Bắc Kinh có “phản ứng mạnh nhất từ trước tới nay” đối với hoạt động FONOP của tàu chiến Mỹ cho thấy đã có sự thay đổi trong tính toán của nước này. Theo quy tắc trước đây, tàu Trung Quốc chỉ bám theo tàu Mỹ, không tiến tới ở khoảng cách quá gần. Phía Trung Quốc chỉ phản hồi khi đối phương chủ động liên lạc. Tuy nhiên, cách hành xử quyết liệt bất ngờ của tàu chiến Trung Quốc là do bất bình gần đây của Bắc Kinh với Washington, liên quan đến căng thẳng trong vấn đề thương mại, thỏa thuận mua bán vũ khí và quan hệ với Đài Loan.
Tuy nhiên, Trung Quốc dường như cũng đã tính toán rất kỹ để thông điệp phát đi đủ mạnh nhưng không làm bùng phát phản ứng quyết liệt từ phía Mỹ. Tàu Lan Châu nhiều khả năng đã kiên nhẫn đợi khu trục hạm Decatur sắp kết thúc hành trình tuần tra FONOP của mình rồi mới ra mặt can thiệp và cản trở. Sau khi bị áp sát ở khoảng cách nguy hiểm, tàu Decatur đã chuyển hướng khỏi khu vực 12 hải lý quanh đảo nhân tạo Trung Quốc bồi đắp phi pháp và kết thúc hành trình tuần tra của mình. Theo bà Glaser, nếu tàu Lan Châu ra mặt cản trở chiến hạm Mỹ ngay từ đầu chiến dịch FONOP, sự việc có thể đã diễn tiến hoàn toàn khác. Khi đó, hạm trưởng tàu Decatur sẽ phải đối mặt với quyết định tiếp tục di chuyển và chấp nhận nguy cơ va chạm với tàu Trung Quốc, hoặc buộc phải ra lệnh hủy bỏ chiến dịch FONOP, động thái sẽ bị coi là sự nhượng bộ của Washington trước Bắc Kinh. Đáng chú ý, bà Glaser nhận định “Tập Cận Bình không muốn bị coi là yếu đuối, ông ấy muốn được nhìn nhận như một lãnh đạo bảo vệ lợi ích của Trung Quốc, đó là thông điệp họ muốn truyền đi khi cản trở hoạt động FONOP của Mỹ. Ngoài ra, Trung Quốc cho rằng thương mại và sức mạnh quân sự gắn bó với nhau và chính sách của chính quyền Tổng thống Donald Trump dường như nhằm ngăn chặn sự trỗi dậy của Bắc Kinh”.
Teddy Ng, bình luận viên của SCMP, cũng cho rằng những động thái như vậy của tàu chiến Trung Quốc, dù được chỉ đạo ở cấp độ nào, cũng vẫn tiềm ẩn nguy cơ tính toán sai lầm, nhất là khi hoạt động trên vùng biển phức tạp. Tính toán sai lầm từ thủy thủ Trung Quốc hoặc Mỹ trong những lần chạm trán như vậy có thể gây ra va chạm, thương vong, châm ngòi cho một cuộc khủng hoảng vượt tầm kiểm soát, thậm chí là một cuộc chiến tranh quy mô lớn.
Zack Cooper, chuyên gia nghiên cứu chính sách quốc phòng của Mỹ tại châu Á thuộc Viện Doanh nghiệp Mỹ (AEI) nhận định “không có gì ngạc nhiên khi quân đội Trung Quốc thách thức các chiến dịch tự do hàng hải của Mỹ ở Trường Sa. Đó là những hành động nhằm chống lại các quy tắc và luật lệ quốc tế, nhưng sẽ thất bại khi Mỹ tiếp tục hoạt động tuần tra”.
Adam Ni, chuyên gia về chính sách an ninh và ngoại giao Trung Quốc thuộc đại học Tổng hợp Australia nói, cuộc đối đầu ngày càng căng thẳng giữa Trung Quốc và Mỹ ở châu Á có thể đặt các nước trong khu vực vào tình thế buộc phải chọn đứng về một phía. “Đối với các nước châu Á, một nước Mỹ năng động ở châu Á nhằm đối trọng lại với tham vọng ngày càng lớn của Trung Quốc là điều tích cực. Tuy nhiên, có nguy cơ cạnh tranh chiến lược sẽ làm nóng tình hình và ảnh hưởng đến hòa bình và ổn định của khu vực” và “khả năng ngày càng tăng về một cuộc chiến tranh lạnh giữa Mỹ và Trung Quốc là viễn cảnh không mong muốn đối với một khu vực vốn phụ thuộc rất lớn vào khả năng kết nối và lưu thông hàng hóa”.
Ankit Panda, chuyên gia chính sách đối ngoại và biên tập viên của tờ The Diplomat gọi vụ việc là “nỗ lực trực tiếp và nguy hiểm nhất từ trước đến nay của Quân đội Trung Quốc để can thiệp vào chiến dịch tự do hàng hải hợp pháp của Mỹ tại Biển Đông”.
Ông Collin Koh chuyên gia thuộc Trường nghiên cứu quốc tế S. Rajaratnam, Singapore (RSIS) nhận định, các nước Đông Nam Á trước nay vẫn đang cố gắng quản lý mối quan hệ hài hòa với cả Trung Quốc và Mỹ, thậm chí các nước này mong muốn tìm kiếm đẩy mạnh hợp tác kinh tế với Bắc Kinh, trong khi lại hy vọng nhận được cam kết đảm bảo an ninh từ Washington. Ông Koh nhận định: “Mặc dù việc bị kẹp ở giữa là rất rõ ràng, nhưng các nước Đông Nam Á không nhất định mong muốn phải đưa ra lựa chọn đứng hẳn về bên nào. Theo đó, ý tưởng chung là phải tối đa hóa lợi ích từ tất cả các bên, trong khi không để vào tầm ngắm của cả hai”. Tuy nhiên, căng thẳng toàn diện cả về quân sự, thương mại và ngoại giao giữa Mỹ và Trung Quốc ngày càng leo thang sẽ không cho phép các nước Đông Nam Á có thể tiếp tục chiến lược “đánh đu” giữa hai cường quốc.
Trong khi đó, có chuyên gia nói cuộc đụng độ mới nhất giữa Trung Quốc và Mỹ trên Biển Đông là dấu hiệu cho thấy chiến tranh thương mại đã lan tỏa sức nóng sang cả vấn đề an ninh và những diễn tiến gần đây ở Biển Đông cho thấy các đồng minh của Mỹ có chiều hướng sẵn sàng can dự vào đây. Ngoài ra, bằng hành động cản trở tàu khu trục Mỹ một cách quyết liệt ở Trường Sa, Trung Quốc dường như đang phát tín hiệu rằng họ ngày càng cứng rắn với Mỹ không chỉ trong cuộc chiến thương mại mà cả trong vấn đề Biển Đông.