Nhật Trường Trần Thiện Thanh, người viết sử thi cho nhạc lính

Cac Bai Khac

No sub-categories

Nhật Trường Trần Thiện Thanh, người viết sử thi cho nhạc lính

Trong bài viết của Trần Doãn Nho về “Nhạc Lính” đã ghi nhận: “Có khá nhiều tác giả viết về người lính: Y Vân, Trần Thiện Thanh, Nhật Ngân, Nguyễn Văn Đông, Lê Dinh, Anh Bằng, Minh Kỳ, Hoài Linh, Huỳnh Anh, Phạm Thế Mỹ, Đinh Miên Vũ, Phạm Đình Chương, Tuấn Khanh, Lam Phương, Trúc Phương, Trầm Tử Thiêng, Nguyên Đàm, Nguyên Diệu, Phan Trần… Trong số đó, Trần Thiện Thanh là nhạc sĩ viết nhiều nhất…”. Còn có thêm Văn Giảng (Nguyên Đàm), Song Ngọc, Anh Thy, Duy Khánh, Mạnh Phát, Nhật Lệ, Hùng Cường, Mạc Phong Linh… hay Anh Việt Thu (cùng làm việc chung với Nhật Trường ở Phòng Văn Nghệ, Cục Tâm lý Chiến và Đài Phát thanh Quân Đội) nhưng chỉ có một vài bài.

Nói đến Nhật Trường TTT, liên tưởng đến nhạc lính và ngược lại. Sáng tác nhạc tình của TTT trong thời chinh chiến để làm thăng hoa hình ảnh người lính VNCH từ chiến trường đến hậu phương. Những ca khúc của anh không những in sâu vào tâm hồn người lính mà đi vào lòng mọi người từ thời binh lửa cho đến nay.

*

Trần Thiện Thanh sinh ngày 12 tháng 6 năm 1942 tại Phan Thiết. Trưởng nam trong gia đình có 7 anh em. “Thật sự dòng họ Trần Thiện từ ông tổ gần là Trần Thiện Chánh (1822-1874), tài kiêm văn vỏ, cho tới thân phụ của Trần Thiện Thanh là Trần Thiện Hải nức tiếng khắp Phan Thiết là kẻ tài hoa, đủ đường ca hát, đóng kịch, soạn nhạc… cho nên ảnh hưởng tới con cháu như Nhật Trường là điều không ai phủ nhận…” (Hồ Đinh, người bạn cùng thời với TTT).

Ngoài bút hiệu Nhật Trường, thỉnh thoảng đề tên Anh Chương (tên trưởng nam của anh với các ca khúc của như Tuyết Trắng, Chân Trời Tím (phổ thơ Nguyễn Văn Hạnh), Hãy Trả Lời Em, Tâm Sự Người Lính Trẻ, Ngày Ðầu Một Năm, Người Yêu Của Lính…). Sau nầy Trần Thiện Anh Chương ở Hoa Kỳ làm truyền thông với bút hiệu Thanh Toàn (Trần Thiện Thanh Toàn là chú ruột).

Anh cũng dùng bút hiệu Thanh Trân Trần Thị (tên con gái thứ nhì) qua một số nhạc phẩm khác như Chuyện Hẹn Hò, Phút Giao Mùa, Chuyện Lứa Ðôi…

(Có một số bài hát nổi tiếng như Tình Ðầu Tình Cuối, Tình Thiên Thu, Bắc Ðẩu, Mầu Mũ Anh Mầu Áo Em, Tình Có Như Không… nhiều người nghĩ là của Trần Thiện Thanh, nhưng thật ra, đã được in với tên Trần Thiện Thanh Toàn, Thiếu Úy QLVNCH, em ruột Trần Thiện Thanh, hy sinh trên chiến trận khi còn trẻ. Ca khúc Trên Đỉnh Mùa Đông là sáng tác của hai anh em).

Theo lời người bạn Lê Hùng (Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 341 Địa Phương Quân, tiểu khu Bình Thuận) học lớp Đệ Nhị cùng với Nhật Trường TTT ở trường trung học Ngô Đình Khôi niên khóa 1960-1961 ở Phan Thiết. Nhật Trường vừa là Trưởng Ban Văn Nghệ và cũng là cầu thủ (thủ môn) đội túc cầu của nhà trường. Thân phụ Nhật Trường là Trần Thiện Hải, Trưởng Ty Thông Tin Bình Thuận, với môi trường đó qua chương trình phát thanh và văn nghệ cũng tạo thuận lợi cho Trần Thiện Thanh ca hát để giải trí. Trước đó, lúc còn nhỏ, Nhật Trường TTT (cũng như Song Ngọc ở Long Xuyên) đã tham gia trong Ban Văn Nghệ 860 của Bảo An Đoàn ở Bình Thuận, có Mỹ Thể, Nguyễn Hữu Sáng (em Nguyễn Hữu Thiết, gốc Quảng Trị, sinh tại Phan Thiết)…

Vì đam mê với kiếp cầm ca nên con đường học vấn bị dang dở và trong cái rủi có cái may khi rời quê nhà vào Sài Gòn để lập nghiệp… (Có vài bài viết cho biết năm 1958 Nhật Trường vào Sài Gòn lập nghiệp nhưng theo người bạn cho tôi biết cùng học với Trần Thiện Thanh ở Phan Thiết thì sau khi đậu Trung Học Đệ Nhất Cấp (1958), vào Sài Gòn học, thỉnh thoảng xuất hiện ca hát vào dịp cuối tuần ở Phan Thiết. Có lẽ vào Sài Gòn học vì chặng đường Sài Gòn – Phan Thiết khoảng hai trăm km, đi về dễ dàng và thời điểm đó).

Đầu thập niên 1960, Nhật Trường lập ban Tứ Ca Nhật Trường gồm anh và 3 nữ ca sĩ: Như Thủy (em gái), Vân Quỳnh và Diễm Chi. Băng nhạc Tiếng Hát Đôi Mươi trình bày nhiều ca khúc về lính, được nhiều người ái mộ.

Góp mặt trong nền tân nhạc ở Sài Gòn qua các nhạc phẩm: Đừng Hỏi Tại Sao (1963), Anh Về Với Em (1964), Bảy Ngày Đợi Mong (1964), Đôi Ngã Đôi Ta (1964), Một Ngày Gần Đây (1964), Ngày Anh Đi (1964), Hàn Mặc Tử (1964), Đồn Vắng Chiều Xuân (1964), Không Bao Giờ Ngăn Cách (1964), Nỗi Lòng Thanh Trúc (1964), Từ Đó Em Buồn (1964), Tình Yêu Thứ Nhất (1965), Người Yêu Của Lính (1965), Tâm Sự Mộng Cầm (1965), Một Đời Yêu Anh (1965), Đời Còn Nhiều Gian Dối (1965)…

Nhật Trường TTT tuy chưa vào lính nhưng đã sáng tác vài ca khúc nổi tiếng như Anh Về Với Em, Ngày Anh Đi, Không Bao Giờ Ngăn Cách, Đồn Vắng Chiều Xuân… Và, ca khúc Người Yêu Của Lính gắn liền với tiếng hát Ngọc Minh. Trước khi vào lính, Nhật Trường xuất hiện trên sân khấu và truyền hình với quân phục VNCH.

Năm 1965 nhập ngũ, Hạ Sĩ Quan phục vụ trong ngành Chiến Tranh Chính Trị. Đây cũng là môi trường của Trần Thiện Thanh khi “khoác áo treillis” sáng tác rất nhiều nhạc phẩm với các quân bnh chủng Hải, Lục, Không Quân VNCH.

Đề cập đến nhạc lính như lời Trần Doãn Nho:

“Lính ở đây là lính VNCH. Trong suốt những tháng năm dài chinh chiến, người lính là hình ảnh nổi bật trong cuộc sống, gắn chặt với cuộc chiến, diễn ra từng ngày từng giờ trên khắp đất nước. Gia đình nào, không ít thì nhiều, cũng đều có thân nhân nằm trong quân đội. Những thắng, bại trên chiến trường của người lính đều nhất nhất ảnh hưởng đến cuộc sống của mọi người. Và bi kịch của chiến tranh gắn liền với bi kịch cá nhân của từng người lính…

Nhạc lính, trước hết, nói về người lính, đã hẳn. Mà cũng là nói về chiến tranh. Về một xã hội vùng vẫy để tồn tại, để thích nghi với hoàn cảnh bom đạn. Và mơ ước. Những gian khổ, nhọc nhằn, vất vả, tiếc nuối, buồn chán, thất vọng, cay đắng, tủi nhục cùng với ước mơ – những gì vô cùng đời thường, vô cùng dân dã, tất cả đều được bày tỏ qua lời ca mà không cần phải sử dụng một ẩn dụ xa xôi nào. Do đó, khác với nhạc đỏ – thứ nhạc để chỉ nhạc Cộng Sản nói chung thường mang tính tuyên truyền – nhạc lính đầy tính cách nỗi niềm và mang tính nhân bản rõ nét.

… Đặc biệt, khác với nhạc đỏ, nhạc lính không nhằm gây căm thù. Không những thế, trong một số trường hợp, còn kêu gọi xóa bỏ căm thù, kêu gọi tình thương, kêu gọi hòa bình. Lời ca phần lớn và chủ yếu nói về nhiệm vụ, về lòng hăng say, sự hy sinh, ca ngợi sự chịu đựng gian khổ và lòng quả cảm của người lính. Và ngay cả khi đề cập đến cái chết anh hùng của những người sĩ quan chỉ huy trên chiến trường, ta cũng không hề thấy khêu gợi chút căm thù nào. Chỉ nói về cái chết, về sự hy sinh và nỗi tiếc thương…

Nhạc lính đồng thời cũng là nhạc tình. Cũng là nhạc quê hương. Nói về lính cũng chỉ để nói về tình. Mặt khác, trong một số bản tình ca thuần túy, hình ảnh người lính cũng hiện diện. Có lẽ vì đời lính, tự bản chất, chứa đựng sự xa cách, nhớ mong, niềm tuyệt vọng và bi kịch tình yêu…

… Trong khi còn chiến tranh, nhạc lính được hát như một bày tỏ nỗi lòng, có khi như một bù đắp, của những người khoác chiến y…”

(Trần Doãn Nho).

Từ giã mái trường, từ giã người yêu khi, chàng trai trẻ đáp tiếng gọi của non sông, với nghĩa vụ tòng quân:

“Ngày anh đi, ngày anh đi phượng rơi rơi ngàn lối

Áo chinh nhân ép cánh thư ngày nào

Gửi cho nhau lúc mới quen lần đầu

Ngày anh đi ngày anh đi sông hồ in dáng em

… Nếu anh là chiến sĩ đi xây đắp tương lai

Em là người ở lại muôn đời đợi chờ anh.”

Khi khoác áo chiến y, người yêu nơi hậu phương lúc nào cũng mong đợi lá thư từ đơn vị xa xôi nên dặn dò. Ca khúc “Nhớ Viết Thư Cho Em” qua tiếng hát của Lệ Thanh trên làn sóng phát thanh quá hay, nghe mà ngớ ngẩn, nghe mà ước mong có người yêu dễ thương như vậy để xoa dịu tâm hồn người lính:

“Nhớ viết thư cho em

mà bảo rằng dù xa cách đừng quên

Nhớ viết thư cho em

dù mực nhòe trên trang giấy trắng

Em biết đời phong sương

anh đã chôn dĩ vãng trong tim

Sống vui hiện tại và trọn đời anh cho tương lai

Nhớ viết thư cho em

để rạng ngời thêm trăng sáng nửa đêm

Nhớ hái đôi hoa sim đặt vào lòng tờ thư thương mến

Em muốn màu hoa sim

như màu yêu tím của đôi ta

Tím lên cuộc đời mà lòng ta thương mến nhau hoài”

(Trần Thiện Thanh & Mạnh Phát)

Ca khúc “Tình Thư Của Lính” thay cho lời tâm sự của người lính gởi cho người tình:

“Từ khi anh thôi học, và từ khi anh khoác áo treillis

Từ khi anh xa nhà, một ngàn đêm nhung nhớ giữa trời mây

… Thư của lính không xanh màu trời như mơ ước đâu em.

Thư của lính không thơm nồng hương, không nét hoa đa tình.

Thư của lính ba lô làm bàn nên nét chữ không ngaỵ

Nhưng thư của lính ghi giữa rừng cây khi nhớ em thật đầy”.

Ca khúc “Tâm Sự Người Lính Trẻ” của TTT chia sẻ nỗi niềm:

“Từ khi anh thôi học từ khi đôi lứa đôi đường

Từ sông ngăn núi trở tạ từ không nói nên lời

Từ khi gót sông hồ ngược xuôi ôi những đêm thật dài hồn nghe thương nhớ ai

Một năm tìm vui nơi quan tái chưa về một lần dù chỉ một lần thôi”.

Trong thời binh lửa, qua vài ca khúc trữ tình nầy, cảm nhận cuộc tình thật lãng mạn, dễ thương, quá đẹp khi xa nhau. Câu nói của Stefan Zweig “Dù cho biển cách núi ngăn, lòng hai ta cũng mãi không rời xa” đã thể hiện ở ca khúc Trần Thiện Thanh.

Bài thơ “Cần Thiết” của Nguyên Sa đã một thời thay cho lá thư tình của tuổi học trò:

“Không có anh lấy ai đưa em đi học về

Lấy ai viết thư cho em mang vào lớp học

Ai lau nước mắt cho em ngồi khóc

Ai đưa em đi chơi trong chiều mưa”

Thì ca khúc của Trần Thiện Thanh chia sẻ hình ảnh giữa người lính với người yêu sự “cần thiết” đó thật đáng yêu:

“Nếu em không là người yêu của lính

Em sẽ nhớ ai Chủ Nhật trời xinh

Em sẽ nhớ ai đêm sương lạnh lùng

Và giữa chốn muôn trùng

Ai viết tên em lên tay súng.

Nếu em không là người yêu của lính

Ai sẽ nhớ em chiều dừng hành quân

Ai khẽ nhắc tên em muôn nghìn lần

Để thấy cánh sao gần

Không đẹp bằng hồ mắt giai nhân”

(Người Yêu Của Lính)

Người lính khó giữ đúng hẹn hò vì có khi vào giờ phút cuối phải thi hành nhiệm vụ của đơn vị đảm trách. Trong tình yêu phải có sự cảm thông cho nhau nên:

“Anh hẹn em cuối tuần

Chờ anh nơi cuối phố

Biết anh thích màu trời

Em đã bồi hồi chọn màu áo xanh”

Thế rồi qua 7 ngày đợi mong, không gặp người tình và cuối cùng:

“Chiều Thứ Bảy mưa rơi

Ai bảo anh lại tới

Ai bảo anh xin lỗi

Ai bảo anh nhiều lời cho mắt em lệ rơi”

(Bảy Ngày Đợi Mong)

Lời trách yêu đó thật nhẹ nhàng, “lệ rơi” khi gặp nhau mà không cần xin lỗi, không cần nhiều lời… Lời ca đó dành cho người thưởng thức cảm nhận.

Những người lính Mỹ (GI) tham chiến ở chiến trường VN, thường viết trên nón sắt “When I die I will go to heaven because I live in hell” (Khi tôi chết sẽ lên thiên đàng vì sống trong địa ngục) như “than thân trách phận” nhưng với Trần Thiện Thanh thì ngược lại:

“Viết tên người yêu lên ba lô nặng trĩu

Đêm quân hành dừng chân đồi hoa tím

Nhớ xưa đôi mình hẹn nhau mà sao sáng

Đâu bằng đôi mắt em…

Áo anh nhuộm phong sương nhưng quê hương đẹp ý

Lối trăng đầy tình em còn soi sáng

Sẽ không bao giờ

Không bao giờ ngăn cách đâu em”

(Không bao Giờ Ngăn Cách)

Chỉ có người lính nhớ người yêu mới viết tên trên ba lô, tâm hồn lãng mạn của người lính làm đẹp chân dung người tình trong cơn binh lửa.

Nhạc phẩm “Màu Mũ Anh Màu Áo Em”, TTT phác họa chân dung người lính của các binh chủng với người yêu:

“Khi em đã yêu anh chàng lính Thuỷ Quân Lục Chiến

Bạc màu áo trận, bạc luôn cả chiếc mũ xanh

Khi em đã yêu anh chàng áo rằn sọc ngang

Màu áo xanh rừng em nhớ mang.

Hay em đã yêu anh chàng lính Dù là anh

Dù tung giữa trời và địa cầu dâng đất lên

Khi em biết yêu thiên thần mũ đỏ dù hoa

Màu áo bông hồng em nhớ cho…

Khi em dám yêu anh bộ binh nghèo là anh

Thì màu áo vàng là màu tình duyên đó anh

Xin cho tháng năm không làm phai màu tình yêu

Màu mũ anh và màu áo em

Khi em đã yêu anh chàng lính biển là anh

Tầu đi bến nào còn tình thì qua bến nao

Khi em đã yêu anh chàng lính Hải Quân hào hoa

Màu trắng mây trời trên áo em.

Hay em đã yêu anh chàng lính Biệt Động Quân

Mà rừng núi sình lầy nào còn vương gót anh

Khi em đã yêu trên trời núi thẳm rừng sâu

Màu mũ nâu là màu áo em”

Để tưởng nhớ và tri ân những người con thân yêu của tổ quốc khi dấn thân trong binh nghiệp bảo vệ lý tưởng Quốc Gia, Dân Tộc. Thân xác không còn nhưng qua các ca khúc của Trần Thiện Thanh luôn gợi lại hình ảnh bi hùng, cao cả trong trái tim mọi người.

Hình ảnh hào hùng của cố Đại Úy Nguyễn Văn Đương của binh chủng Nhảy Dù hy sinh trong cuộc chiến qua ca khúc “Anh Không Chết Đâu Anh” của Trần Thiện Thanh góp phần hình ảnh cao đẹp trong Quân Sử VNCH.

Phan Nhật Nam tường thuật lại:

“… Đồi 31 ở mặt trận Hạ Lào, tháng Hai, 1971.. Đại quân Miền Nam gồm: Sư Đoàn Nhẩy Dù, Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, Sư Đoàn I Bộ Binh, Lữ Đoàn I Thiết Kỵ, và Liên Đoàn I Biệt Động Quân cùng vượt biên giới Lào-Việt tiến đánh vùng hậu cần Tchépone của cộng sản Bắc Việt trên đất Lào. Lữ Đoàn 3 Dù gồm các Tiểu Đoàn 2, 3, và 8 giữ mặt Bắc của trục tiến quân. Vị trí Đồi 31 của Tiểu Đoàn 3 Dù được Pháo Đội B3 Pháo Binh Dù do Đại Úy Nguyễn Văn Đương chỉ huy yểm trợ. Vòng đai cực Bắc của Biệt Động Quân bị tấn công trước; tiếp vị trí Đồi 30 của Tiểu Đoàn 2 Dù bị công phá.. Cuối cùng, chỉ còn lại Căn Cứ Đồi 31 giữa vòng vây của một sư đoàn Bắc Việt (tỷ lệ 1 chống 15). Ngày 25/2, Đồi 31 bị tràn ngập, Đại Tá Nguyễn Văn Thọ và toàn ban tham mưu lữ đoàn đồng bị bắt, căn cứ chỉ còn khẩu pháo cuối cùng, Đại Úy Đương hạ ngang nòng bắn thẳng vào toán quân cộng sản theo xe tăng T54 ào lên đồi chiếm mục tiêu, và ông gục ngã với khẩu pháo cuối cùng bị phá hủy…”

Trong cuốn hồi ký “Một Cánh Hoa Dù” của Thiếu Tá Trương Dưỡng đã kể lại thời điểm căn cứ hỏa lực 31 Hạ Lào (cao điểm 456) vào 6 giờ 30 phút ngày 25 tháng 2 năm 1971, như sau:

“Ngay chiều hôm đó đồi 31 bị tràn ngập, tôi nghe tiếng Nguyễn Quốc Trụ, bạn cùng khóa, gọi Kiệt bên căn cứ A-Lưới là: “Xe tăng Việt Cộng đang trên hầm chỉ huy, mầy nói pháo binh bắn lên đầu tao, chờ tụi nó xuống tao sẽ tự tử, vĩnh biệt mầy, Kiệt ơi.” Căn cứ hỏa lực 31 thất thủ, bên trong gồm Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù, BCH Trung Đoàn 3 Pháo Binh, Pháo Đội 33 của Nguyễn Văn Đương…”. Và, người hùng Pháo Đội Trưởng Nguyễn Văn Đương chấp nhận hy sinh để khỏi lọt vào tay Cộng quân.

Trần Thiện Thanh viết lên lời ca vô cùng xúc động:

“Anh không chết đâu anh, người anh hùng mũ đỏ tên Đương

Tôi vẫn thấy đêm đêm một bóng dù sáng trên đồi máu

Nghe trong đêm kêu gào từng tiếng súng pháo đếm mau

Và tiếng súng tiếng súng hay nhạc chiêu hồn đưa anh đi anh đi…

… Ôi đất mát trên đồi xanh tình yêu khóc ngất bên cỏ tranh

Đâu cánh dù ôm gió, đây cánh dù ôm kín đời anh

Trong những tiếng reo hò kia lẻ loi tiếng súng anh nhiệm mầu

Ôi tiếng súng sau cùng đó, anh còn nghe tầm đạn đi không anh

Không, anh không, anh không chết đâu em, anh chỉ vừa bỏ cuộc đêm qua

Tôi thấy mắt anh bên ngọn nến vàng hắt hiu niềm nhớ

Trên khăn tang cô phụ còn lóng lánh dấu ái ân

Giọt nước mắt nóng bây giờ và còn hằng đêm cho anh cho anh …”

Ca khúc “Anh Không Chết Đâu Anh” là một trong những ca khúc được trình bày trong một bộ phim truyền hình có tên là “Trên Đỉnh Mùa Đông” do Trần Thiện Thanh làm đạo diễn, ra mắt vào năm 1972.

Trong bộ phim này, còn nhiều ca khúc bất hủ nữa của Trần Thiện Thanh cũng được hát: Trên Đỉnh Mùa Đông, Mùa Đông Của Anh, Chiều Trên Phá Tam Giang… Cuốn phim đã làm rơi lệ của biết bao nhiêu khán giả, đã mô tả được phần nào cái chết bi hùng của Đại Úy Nguyễn Văn Đương tại chiến trường Hạ Lào, trong chiến dịch hành quân Lam Sơn 719.

Đồi Charlie với cao độ 900 mét, Tây Bắc tỉnh Kon Tum, một cứ điểm quân sự để kiểm soát cả một vùng rộng lớn ngã ba Đông Dương… Địa danh này nổi tiếng với nhiều trận giao chiến khốc liệt giữa Quân Lực VNCH và đồng minh Hoa Kỳ với Cộng quân.

Ngày 25 tháng 3 năm 1972, Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù được trực thăng vận bốc vào vùng hành quân. Đơn vị thiện chiến nầy nhảy ngay trên đầu địch làm cho chúng bất ngờ và nhiều trăm tên bị tan xác tại đây, lúc này cuộc hành quân đang đi vào giai đoạn chót. Trung Tá Nguyễn Đình Bảo cùng Đại Đội chỉ huy và Đại Đội 110 trấn giữ ngọn đồi, 3 Đại Đội còn lại đóng chung quanh ngọn đồi. Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn Nhảy Dù đóng ở xa vài chục cây số để yểm trợ.

Cộng quân dốc toàn bộ toàn bộ pháo kích vào Charlie thật nặng, mỗi ngày hàng ngàn quả đại bác 130 ly, 122 ly và cả hỏa tiễn 122 ly…

Cộng quân gia tăng quân số dù hàng ngàn cán binh trẻ từ miền Bắc đã bị nướng thiêu trong bom đạn nhưng họ vẫn ngông cuồng thí quân bao vây ngọn đồi Charlie. Dùng trận đánh “biển người” này, hầm chỉ huy của Trung Tá Nguyễn Đình Bảo đã lãnh trọn 1 trái đạn pháo 130 ly và anh đã hy sinh! Sau 4 ngày đêm chiến đấu, ngọn đồi Charlie đã bị mất, cộng quân tràn ngập. Xác chết của Trung Tá Nguyễn Đình Bảo tuy đã gói trong 3 lớp vải dù poncho nằm lại ở giao thông hào mà cũng bị bom đạn của quân ta trút xuống đánh bật Cộng quân, cày nát xác thân anh. Charlie đã tan tành, chung quanh chỉ là khói tro quyện với thây người chết của cả hai bên.

Cố Đại Tá Nguyễn Đình Bảo hy sinh tại Charlie ngày 12 tháng 4 năm 1972 khi vừa đúng 35 tuổi.

Ca khúc “Người Ở Lại Charlie” của Trần Thiện Thanh, một trong những ca khúc được nhiều người ngưỡng mộ với người chiến sĩ VNCH:

“Anh! Anh! Hỡi anh ở lại Charlie

Anh! Anh! Hỡi anh giã từ vũ khí

Vâng, chính anh là ngôi sao mới

Một lần này chợt sáng trưng

Là cánh dù đan bằng tiếc thương vô cùng…

Ngày anh đi, anh đi anh đi từ tổ ấm

Anh ơi, địa danh nào thiếu dấu chân anh?…

Toumorong, Dakto, Krek, Snoul

Trưa Khe Sanh gió mùa, đêm Hạ Lào thức sâu

Anh! Cũng anh vừa ở lại một mình, vừa ở lại một mình

Charlie, tên vẫn chưa quen người dân thị thành…

Xin một lần thôi, một lần thôi

Vẫy tay tạ từ Charlie

Xin một lần nữa, một lần nữa

Vẫy tay chào buồn anh đi”.

Với binh chủng Thiết Giáp, nhạc phẩm “Bắc Đẩu” của TTT và Trần Thiện Thanh Toàn ghi: Tặng anh hùng mũ đen Bắc Đẩu Nguyễn Ngoc Bích”. Cố Thiếu Tá Nguyễn Ngọc Bích, Chi Đoàn Trưởng CĐ 2, Thiết Đoàn 18:

“Người bỗng trở thành vì sao Bắc Đẩu

Lẻ loi tinh cầu đêm đen không dấu

Một tối chớm hè đạn pháo chuyển mưa

Cây Cầu Ga nhỏ anh qua, anh qua…

Xin muôn năm như vì sao sáng đó

Hỡi người định mệnh là vì sao lẻ

Dậy đi Bắc Đẩu, dậy đi Bắc Đẩu

Bừng mắt dậy soi sáng thiên thu…

Người tên Bắc Đẩu chết trận La Vang

Liệm xác ba lần Ngọc bích cũng tan

Chỉ còn vì sao thôi, chỉ còn vì sao thôi”

Ca khúc Rừng Lá Thấp, TTT viết cho người bạn cùng quê ở Phan Thiết, Đại Úy Vũ Mạnh Hùng trong binh chủng Thủy Quân Lục Chiến, đã hy sinh khi chận quân địch tại Hàng Xanh, Cầu Bình Lợi trong trận Mậu Thân!

Đại Úy phi công Trần Thế Vinh, đã vị quốc vong thân trên vùng trời Trị Thiên ngày 9 tháng 4 năm 1972. Ca khúc “Bay Lên Cao Đi Anh” của Trần Thiện Thanh không than khóc, ủy mị mà vẽ lên nét hào hùng chiến sĩ Không Quân:

“… Cao bay lên cao, bay lên cao đi anh

Như trong kỷ niệm, anh đạp gió xé mây trôi

Cao bay lên cao, bay lên cao đi anh

Xin linh hồn anh, lên trời cao bay thật mau

Xin cho cao thêm cho thêm lên cao lên

Cao câu nguyện cầu cho tuổi trẻ sớm đi xa

Xin cho cao lên cho cao lên cao lên

Hãy ngước nhìn không gian Việt Nam cao diệu vợi

… Bay lên bay lên cao đi anh

Mang theo hào hùng cho cuồng bão biết xôn xao

Bay lên bay lên cao, bay lên cao đi anh

Thế giới chìm sâu anh vừa qua còn mộng du

Cao bay lên, cao bay lên cao, đi anh

Xin linh hồn anh lên thật cao lên thật nhanh”

Với Không Quân và Hải Quân, Trần Thiện Thanh tô đẹp biết bao hình ảnh của quân chủng nầy. Ca khúc Tuyết Trắng, TTT dùng hình ảnh mây trời như tuyết, quá tuyệt:

“Đây áo bay màu xanh xanh như tình ái

Thắt lại khăn ấm chính em đan

Khi gió quay cuồng sau cánh bay

Con tàu thét gầm cho tim ngất ngây

Phi đạo chạy dài anh cất cánh bay lên…

Ngả nghiêng cánh chim con tàu sẽ rời, rời xa thành phố rồi

Mây giăng thật thấp mây đan lụa trắng mây pha màu nắng.

Vượt cao vút cao mây trời kết thành một vùng tuyết trắng ngần

Tuyết ơi xin nhuộm trắng trong tâm hồn em gái nhỏ tôi thương.

Khi nắng chiều đi không gian chợt tối

Xóa nhòa vùng tuyết trắng mông mênh

Anh ước sao tình mình như tuyết trinh

Cho dù chúng mình không gian cách ngăn

Cho dù tuyết trắng đã chìm trong màn đêm”.

Nhạc phẩm Hoa Biển của TTT và Anh Thy, đại lễ và quân phục của quân chủng, thủy thủ màu trắng, sóng biển màu trắng… tất cả đều là màu trắng giữa đại dương, màu hoa biển:

“… Tại em suy tư bên bờ vắng

Nên đêm vượt trùng anh mong tìm gặp hoa trắng về tặng em

Cho anh thì thầm em ơi tình mình trắng như hoa đại dương

Trùng khơi nổi gió lênh đênh triền sóng thấy lung linh rừng hoa

Màu hoa thật trắng, ôi hoa nở thắm ngất ngây lòng thêm

Vượt bao hải lý chưa nghe vừa ý, lắc lư con tàu đi

Chỉ thấy bọt nước, tan theo ngọn sóng dáng hoa kia mịt mùng

Biển khơi không mang hoa màu trắng

Tàu anh xa xôi chưa tìm bến

Nên em còn hờn, nên em còn buồn sao chưa thấy anh sang

Em ơi giận hờn, xin như hoa sóng tan trong đại dương”

Ngoài ra, TTT còn sáng tác Sư Đoàn I Bộ Binh VNCH Hành Khúc cho đơn vị nầy trấn đóng ở vùng giới tuyến.

“Đây Sư Đoàn 1, đây Sư Đoàn Giới Tuyến

Chiến Sĩ Tiền Phong nơi tuyến đầu Việt Nam

Lam Sơn oai hùng, tay xây đài chiến thắng

Súng thép đập tan quân Bắc phương hung tàn…

Vương Trùng Dương