Tin Biển Đông – 24/09/2018
Hoạt động quân sự hóa của TQ ở Biển Đông
và phản ứng của cộng đồng quốc tế
Trong vài năm gần đây, Trung Quốc liên tục tiến hành các hoạt động quân sự hóa ở Biển Đông nhằm thực hiện âm mưu và ý đồ chiến lược của Bắc Kinh. Những hoạt động trên của Trung Quốc không vi phạm luật pháp quốc tế mà còn trực tiếp đe dọa hòa bình, ổn định trong khu vực. Theo số liệu thống kế không chính thức, Trung Quốc đã xây dựng phi tổng cộng 1.652 tòa nhà ở Biển Đông, trong đó có gần 800 tòa nhà ở Trường Sa. Chỉ riêng ở đá Xu Bi đã có gần 400 tòa nhà. Trước những hành động trên của Bắc Kinh, cộng đồng quốc tế liên tục có những tuyên bố và hành động cụ thể phản ứng lại những hành vi phi pháp của Trung Quốc.
Điểm lại hoạt động quân sự hóa của Trung Quốc ở Biển Đông trong năm nay
(1) Tờ Philippine Daily Inquirer (1/6) đưa tin, Trung Quốc điều hai máy bay quân sự Tây An Y-7 tới đá Vành Khăn, thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. (2) Viện nghiên cứu chiến lược quốc tế (IISS, 19/2) đăng phân tích cho biết Trung Quốc đã thiết lập hơn 40 cơ sở radar khác nhau trên 7 đảo đá mà nước này chiếm giữ phi pháp ở Trường Sa, góp phần nâng cao đáng kể năng lực “C4ISTAR” (chỉ huy, kiểm soát, truyền tin, máy tính, thông tin/tình báo, giám sát, thu thập thông tin về mục tiêu và trinh sát) của Trung Quốc ở khu vực. (3) Wall Street Journal (9/4) cho biết Trung Quốc đã triển khai 03 xe đặc chủng mang thiết bị phá song quân sự trên đá Vành Khăn và cũng đã triển khai một số hệ thống phá sóng tại đá Chữ Thập. (4) Tờ Giải Phóng Quân Báo của Trung Quốc (23/4) đưa tin nước này khánh thành một tượng đài trên đá Chữ Thập để đánh dấu công cuộc xây dựng các đảo nhân tạo ở quần đảo Trường Sa. (5) Trung Quốc (28/4) điều 1 máy bay Thiểm Tây Y-8 tới đá Xu Bi, thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. (6)Đài truyền hình CNBC của Mỹ (2/5) vừa công bố Trung Quốc triển khai (bất hợp pháp) tên lửa tên lửa hành trình chống hạm YJ-12B và các tên lửa đất đối không tầm xa HQ-9A hoặc HQ-9B trên 3 thực thể địa lý đã bị Trung Quốc bồi lấp trái phép thành đảo nhân tạo gồm đá Vành Khăn, đá Xu Bi và đá Chữ Thập. (7) Trung Quốc (9/5) triển khai phi pháp một loạt khí tài như hệ thống tên lửa đất đối không hoặc đối hạm, radar, xe hậu cần, thiết bị phá sóng đến đảo Phú Lâm. (8) Không quân Trung Quốc (18/5) tuyên bố lần đầu tiên đã đưa máy bay ném bom, kể cả Tây An H-6K tới ở đảo Phú Lâm. Đây là lần đầu tiên Trung Quốc đưa máy bay ném bom chiến lược ra khu vực đang trong tranh chấp. Bán kính chiến đấu của H-6 là 1.000 hải lý, gần như bao phủ toàn bộ lãnh thổ Philippines. Còn máy may H-6K được nâng cấp có thể đạt bán kính chiến đấu gần 1.900 hải lý, đưa toàn bộ khu vực Đông Nam Á vào tầm hoạt động. (9)Đài truyền hình CNBC của Mỹ (5/7) cho biết Trung Quốc đã âm thầm kích hoạt và thử nghiệm các thiết bị tác chiến điện tử được lắp đặt trên các đá Vành Khăn, Chữ Thập. (10) Tân Hoa Xã (28/7) đưa tin, Trung Quốc lần đầu tiên đưa tàu tìm kiếm cứu nạn “Nam Hải cứu 115”, có bãi đáp cho trực thăng cứu hộ cỡ trung tới neo đậu thường trú tại Đá Xu Bi. (11) Tờ Minh báo của Hồng Công (4/9) dựa vào các hình ảnh vệ tinh cho biết Trung Quốc đã điều tàu chiến có tên lửa dẫn đường Type 054A ra Đá Chữ Thập ở Trường Sa. Đây là một trong những hành động phi pháp, gây leo thang căng thẳng mới ở Biển Đông của Trung Quốc.
Điểm lại các hoạt động tập trận của Trung Quốc ở Biển Đông trong năm nay
(1) Từ ngày 02/2 đến ngày 26/2, Biên đội Huấn luyện thuộc Hạm đội Nam Hải của Trung Quốc đã tiến hành tập trận tại các khu vực Biển Đông, Ấn Độ Dương, Tây Thái Bình Dương với các tình huống giả định về phòng không, bảo vệ hàng hải và tác chiến trên biển. Cùng thời gian này, Trung Quốc (22/2) đã triển khai 04 tàu hải cảnh và 02 tàu cá dân binh tại bãi cạn Scarborough và 01 tàu hộ vệ tên lửa để theo dõi, giám sát hoạt động của Tàu sân bay Carl Vinson của Mỹ khi đang trên đường tới thăm hữu nghị Việt Nam và Philippines. (2) Theo tờ Đông Phương, Trung Quốc (23/3) đã triển khai 02 tàu hộ vệ tên lửa là “Lục Bàn Thủy” (514) và “Hoàng Sơn” (570) ra Biển Đông để ngăn cản tàu khu trục Mustin của Mỹ đang tuần tra tự do hàng hải trong phạm vi 12 hải lý của đá Vành Khăn, thuộc quần đảo Trường Sa. Cùng với đó, Bộ Quốc phòng Trung Quốc đã ra tuyên bố phản đối việc “Mỹ gây tổn hại an ninh, chủ quyền của Trung Quốc và đe dọa hòa bình, ổn định khu vực”. (3) Ngày 25/3, Trung Quốc tiếp tục tổ chức tập trận ở Biển Đông và Tây Thái Bình Dương. Trong đó, phía truyền thông Trung Quốc cho biết cuộc tập trận này nhằm nâng cao khả năng kiểm soát thực địa các vùng biển tranh chấp, trong đó đã huy động cả các máy bay ném bom H-6K, máy bay chiến đấu Su-30 và Su-35. (4) Từ ngày 24/3 đến ngày 05/4, Trung Quốc tổ chức tập trận trong khu vực Vịnh Bắc Bộ, cách đảo Vi Châu 24 hải lý về phía Đông Bắc và 11 hải lý về phía Đông Nam. Trong đó, ngày 26/3, tàu sân bay Liêu Ninh và khoảng 40 tàu chiến, tàu ngầm và máy bay chiến đấu của Trung Quốc đã đi vào khu vực phía Nam đảo Hải Nam để tiến hành tập trận. Tại buổi họp báo hôm 29/3, Người phát ngôn Bộ Quốc phòng Trung Quốc Nhậm Quốc Cường đã xác nhận Trung Quốc đang tiến hành cuộc tập trận theo kế hoạch hàng năm nhằm kiểm tra năng lực tác chiến của quân đội nước này, song từ chối bình luận về các thông tin liên quan sự tham gia của biên đội tàu sân bay Liêu Ninh. (5) Thời báo Hoàn cầu của Trung Quốc (01/4) đưa tin không quân Trung Quốc (27/3) đã điều 12 máy bay ném bom H-6K xuất phát từ tỉnh Thiểm Tây đến “một địa điểm ở Biển Đông” để tiến hành huấn luyện và diễn tập chiến đấu tầm xa. (6) Ngày 03/4, Cục Hải sự tỉnh Hải Nam Trung Quốc thông báo cấm các hoạt động hàng hải tại khu vực rộng khoảng 27 km2gần cảng Á Long, Tam Á từ ngày 04/4 đến ngày 12/4 để tiến hành tập trận bắn đạn thật kéo dài 07 ngày tại khu vực phía Đông Nam đảo Hải Nam, với sự tham gia của tàu sân bay Liêu Ninh và 48 tàu chiến các loại, 76 máy bay chiến đấu và hơn 10.000 binh sỹ và nhiều tàu ngầm thuộc hạm đội Bắc Hải, Đông Hải và Nam Hải. Đây là cuộc tập trận lớn nhất từ trước tới nay của Trung Quốc, trong đó Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình (12/4) đã trực tiếp thị sát cuộc tập trận này. Dư luận cho rằng các cuộc tập trận của Trung Quốc nhằm phô trương sức mạnh và thể hiện quyết tâm bảo vệ “chủ quyền” của Trung Quốc ở Biển Đông, đồng thời đáp trả sự hiện diện ngày càng tăng của Mỹ và các nước ở Biển Đông, cũng như việc Mỹ tăng cường hợp tác quân sự với các nước tranh chấp khác ở Biển Đông như Philippines, Việt Nam. Cùng thời gian nay, Hải quân Trung Quốc cũng thông báo tiến hành tập trận trong khu vực rộng khoảng 950 km2 tại cảng Quỳnh Hải, phía Đông đảo Hải Nam. (7) Ngày 10/4, Cục Hải sự Trung Quốc thông báo Hải quân nước này tiến hành tập trận ở 7 điểm khác nhau trên Biển Đông, tại khu vực rộng khoảng 8.500 km2 phía Nam đảo Hải Nam từ ngày 11/4-13/4, trong đó đã triển khai khoảng 60 tàu cá dân binh và 10 tàu chấp pháp để bảo vệ vòng ngoài cho các cuộc tập trận này. (8) Cục Hải sự Trung Quốc (13/4) thông báo quân đội nước này tập trận bắn đạn thật tại eo biển Đài Loan từ 8h00-24h00 ngày 18/4. Ngoài ra, Trung Quốc tiếp tục nâng cấp cơ sở hạ tầng và triển khai một số hoạt động trên thực địa như xây dựng cơ sở thử nghiệm tàu không người lái quy mô lớn, hoàn hành lắp đặt trung tâm thông tin liên lạc trên đá Chữ Thập ở quần đảo Trường Sa. (9) Từ ngày 9/5 đến 12/5, Trung Quốc tiếp tục tiến hành các cuộc diễn tập bắn đạn thật ở quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Cùng thời gian này, Đài Loan cũng tiến hành tập trận bắn đạn thật ở đảo Ba Bình thuộc quần đảo Trường Sa cuộc Việt Nam từ ngày 23/5 đến ngày 25/5. (10) Truyền thông Trung Quốc (15/6) cho biết, Trung Quốc đã điều máy bay không người lái tham gia tập trận tên lửa mô phỏng việc chống lại cuộc tấn công trên không ở Biển Đông. (11)
Trung Quốc tìm mọi cách biện minh cho hành động quân sự hóa của mình
Tờ Nhân Dân Nhật Báo của Trung Quốc (17/1) cho rằng Bắc Kinh triển khai vũ khí, khí tài tới Biển Đông nhằm “bảo vệ hòa bình ở Biển Đông”, đồng thời chỉ trích Mỹ và các nước liên quan liên tục có các hành vi “khiêu khích” trong khu vực, “đe dọa an ninh và chủ quyền” của Trung Quốc. Người phát ngôn Bộ ngoại giao Trung Quốc (10/4) cũng tuyên bố Trung Quốc có “quyền đương nhiên của một quốc gia có chủ quyền” trong việc triển khai lực lượng và vũ khí đến các căn cứ ở quần đảo Trường Sa. Đáng chú ý, phát biểu bên lề Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị (4/8) hùng hồn tuyên bố: “Một số nước ngoài khu vực, chủ yếu là Mỹ, đã đưa vũ khí chiến lược lớn đến khu vực, đặc biệt là ở Biển Đông, như là cách để phô bày sức mạnh quân sự và gây sức ép với các nước tại khu vực, bao gồm Trung Quốc. Tôi e rằng đây là động lực lớn nhất cho việc Trung Quốc thúc đẩy việc quân sự hóa tại khu vực”. Không những vậy, ông Vương Nghị còn ngang nhiên cho rằng “Trung Quốc hoàn toàn có quyền làm những việc đó vì Trung Quốc cần bảo vệ chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của mình. Và bởi vì ngày càng có nhiều áp lực với Trung Quốc, việc Trung Quốc tiến hành thêm nhiều biện pháp tự vệ là điều tự nhiên”.
Phản ứng của cộng đồng quốc tế:
Bộ Quốc phòng Mỹ đã lên tiếng chỉ trích “hoạt động quân sự hóa liên tiếp của Trung Quốc tại các thực thể đang tranh chấp” ở Biển Đông. Trong các cuộc tranh luận mới đây, họ nhấn mạnh cam kết “một khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và mở cửa”. Một quan chức cấp cao Bộ Quốc phòng Mỹ trả lời phỏng vấn CNBC cho biết việc Trung Quốc triển khai các hệ thống phòng thủ tên lửa tới Biển Đông cho thấy “quá trình quân sự hóa tăng cường tại các tiền đồn tôn tạo trái phép” của Trung Quốc sẽ “chỉ làm gia tăng căng thẳng và gây ra sự mất lòng tin giữa các nước có tranh chấp”. Thư ký báo chí của Nhà Trắng Sarah Sanders cho biết chính quyền Tổng thống Trump đã “bày tỏ lo ngại” với Trung Quốc, cảnh báo nước này về “các hậu quả nhãn tiền và trong dài hạn” nếu không thay đổi cách hành xử của mình. Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ James Mattis cũng cho biết Mỹ sẽ tiếp tục đối đầu với hoạt động quân sự hóa của Trung Quốc tại Biển Đông, đồng thời khẳng định Bắc Kinh đã không giữ lời khi cam kết không đưa vũ khí ra quần đảo Trường Sa. Cùng quan điểm trên, Đô đốc Philip Davidson, Tư lệnh Bộ chỉ huy Thái Bình Dương của Hải quân Mỹ cho biết việc Trung Quốc quân sự hóa các tranh chấp “đặt ra thách thức không nhỏ cho các hoạt động quân sự của Mỹ trong khu vực”, đồng thời cảnh báo: “Hiện chỉ thiếu việc triển khai các lực lượng. Một khi chiếm đóng xong, Trung Quốc sẽ có khả năng mở rộng tầm ảnh hưởng ra hàng ngàn hải lý xuống phía Nam và phô trương lực lượng đến tận sâu trong Đại Tây Dương. Nói ngắn gọn là Trung Quốc hiện có khả năng kiểm soát Biển Đông trong mọi kịch bản chiến tranh với Mỹ”. Để đáp trả hoạt động quân sự hóa của Trung Quốc ở Biển Đông, Bộ Quốc phòng Mỹ cũng đã hủy lời mời Hải quân Trung Quốc tham gia cuộc tập trận đa phương Vành đai Thái Bình Dương. Trong khi đó, Ngoại trưởng Mỹ Mike cho biết hoat động quân sự hóa của Trung Quốc ở Biển Đông gây nguy hiểm cho tự do thương mại, đe dọa chủ quyền của các nước khác và làm suy yếu sự ổn định của khu vực.
Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe cũng bày tỏ lo ngại Trung Quốc quân sự hóa và mở rộng xây dựng ở Biển Đông, đồng thời yêu cầu Trung Quốc phải thực hiện đúng phát ngôn của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tại Hội nghị thượng đỉnh Mỹ – Nhật – Trung (9/2017), rằng Trung Quốc sẽ không quân sự hóa tại Biển Đông.
Ngoại trưởng Australia Julie Bishop (5/2018) thể hiện quan ngại đối với việc những hành vi quân sự hóa Biển Đông của Trung Quốc, cho rằng Trung Quốc rõ ràng có trách nhiệm với tư cách là thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, tức phải bảo đảm hòa bình và an ninh trên thế giới, đồng thời nhấn mạnh bất kỳ hành động đơn phương nào nhằm quân sự hóa các đảo nhân tạo phi pháp ở Biển Đông đều đi ngược lại trách nhiệm đó.
Trong khi đó, giới chuyên gia, học giả quốc tế cũng đưa ra nhiều nhận định liên quan hoạt động quân sự hóa phi pháp của Trung Quốc ở Biển Đông. Theo chuyên gia Richard Javad Heydarian, giáo sư về các vấn đề quốc tế và khoa học chính trị tại Đại học De La Salle, việc Trung Quốc triển khai máy bay ném bom có khả năng tấn công hạt nhân, cùng nhiều tên lửa và các thiết bị phá sóng radar đã làm thay đổi căn bản các toan tính chiến lược trong khu vực Biển Đông. Tiến sĩ Constantinos Yiallourides, Nghiên cứu viên tại Viện Luật quốc tế và So sánh Anh (BIICL) cho rằng, dù Trung Quốc đã nhiều lần cam đoan rằng “sẽ không sử dụng vũ lực” để giải quyết các tranh chấp lãnh thổ nhưng các hoạt động cải tạo và xây dựng quân sự không ngừng tại các vùng lãnh thổ tranh chấp nhằm tạo ra một “sự đã rồi” và ép buộc các bên tranh chấp khác chấp nhận nguyên trạng mới này. Những hành động của Trung Quốc được xem là một sự mở rộng lãnh thổ bất hợp pháp thông qua vũ lực, trái với luật pháp quốc tế. Bằng cách quân sự hóa các cấu trúc tranh chấp, Trung Quốc muốn cho các “đối thủ” của mình thấy rằng họ chỉ có hai lựa chọn, một là chấp nhận nguyên trạng mới và hai là “đối mặt với một cuộc chiến tranh tốn kém với một cường quốc lớn trong khu vực”.
Báo chí, truyền thông và giới chuyên gia các nước cũng đưa ra nhiều bình luận, nhận định nhiều về hoạt động tập trận liên tục của Trung Quốc ở Biển Đông, cho rằng sự hiện diện và các hoạt động quân sự của Trung Quốc ở Biển Đông sẽ làm gia tăng tình trạng căng thẳng và các nguy cơ xảy ra sự cố trên biển; gây phức tạp thêm tình hình, ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường an ninh, hòa bình, hợp tác trong khu vực; gây tổn hại đến các quy chuẩn của luật pháp quốc tế và những nỗ lực thúc đẩy hợp tác, giải quyết hòa bình các tranh chấp của các nước; đe dọa nghiêm trọng đến an toàn của hoạt động hàng hải, hàng không của khu vực và quốc tế, cũng như hoạt động đánh bắt cá của ngư dân các nước.
Nhìn chung, hoạt động quân sự hóa của Trung Quốc ở Biển Đông không chỉ vi phạm luật pháp quốc tế (vi phạm hiến chương Liên Hợp quốc; vi phạm Công ước luật biển; vi phạm DOC) mà còn đã đi ngược lại cam kết với các nước ASEAN về việc giữ nguyên hiện trạng ở Biển Đông và đi ngược lại các cam kết song phương giữa Trung Quốc với các nước liên quan, khiến tình hình khu vực ngày càng trở nên căng thẳng.
Pháp muốn duy trì
quyền tự do hàng hải ở biển Đông
Pháp sẽ thảo luận với Úc nhằm tìm cách phối hợp các hoạt động tại biển Đông để duy trì quyền tự do hàng hải ở khu vực này.
Truyền thông trong nước dẫn tin của mạng News.com.au cho biết bà Florence Parly, Bộ trưởng Quốc phòng Pháp, nói như vậy trong chuyến thăm thành phố Adelaide của Úc để dự một buổi hội thảo quốc phòng vào hôm 24/9.
Bà Bộ trưởng Quốc phòng Pháp nhận định Pháp ‘không đứng về phía nào’ nhưng Paris ý thức được rằng Trung Quốc ngày càng trở nên lấn lướt tại Biển Đông.
Tin cho biết bà Florence khẳng định lập trường của Pháp rất rõ ràng về việc Bắc Kinh đang vướng mắc các quy tắc quốc tế nhưng Paris vẫn đối thoại cởi mở. Bộ trưởng Quốc phòng Pháp còn cho biết Pháp sẽ vẫn tiếp tục cho tàu hoạt động ở khu vực Biển Đông.
Hồi cuối tháng 5 vừa qua, Pháp đã cho tàu đổ bộ tấn công Dixmude và một tàu hộ vệ đi qua Biển Đông, gần một số bãi đá nhân đạo do Trung Quốc xây dựng phi pháp trong khu vực Trường Sa.
Biển Đông là khu vực hiện đang tranh chấp giữa các nước gồm Trung Quốc, Brunei, Malaysia, Philippines, Đài Loan và Việt Nam. Trong đó, Trung Quốc đòi 90% diện tích với đường đứt khúc chín đoạn vốn đã bị Tòa Trọng tài Quốc tế ở the Hague bác bỏ trong một phán quyết đưa ra vào tháng 7 năm 2016.
https://www.rfa.org/vietnamese/
Nhìn lại những tuyên bố
của Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte
về vấn đề Biển Đông
Từ khi lên cầm quyền đến nay, chính sách Biển Đông của chính quyền Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte vẫn còn là một ẩn số đối với cộng đồng quốc tế. Ông Duterte liên tục đưa ra những tuyên bố, phát ngôn không giống ai về vấn đề Biển Đông và quan hệ với Trung Quốc.
Những phát biểu để đời của ông Rodrigo Duterte:
Ngày 24/8, ông Duterte bất ngờ tuyên bố, ám chỉ đảo nhân tạo mà Trung Quốc xây dựng phi pháp trên Biển Đông, cho rằng “Trung Quốc phải suy nghĩ lại vì vấn đề Biển Đông có thể trở thành ngòi nổ một ngày nào đó. Bạn không thể xây đảo. Nó là đảo nhân tạo và bạn khẳng định rằng không phận trên hòn đảo nhân tạo đó là của bạn. Điều đó là sai trái vì vùng lãnh hải đó được xem là vùng biển quốc tế”.
Ngày 22/8, phát biểu tại cuộc họp gồm các quan chức ở thành phố Cebu, Tổng thống Rodrigo Duterte cho biết: “Tôi đã nói với ông ấy, Chủ tịch Tập Cận Bình, rằng chúng tôi cũng có tuyên bố (trên Biển Đông). Chúng tôi có phán quyết của tòa. Nhưng tôi sẽ không khăng khăng sử dụng phán quyết này vì nó sẽ dẫn đến một cuộc chiến tranh và đó sẽ là thảm họa. Tôi hiểu điều đó. Nhưng làm ơn hãy nhớ rằng một ngày nào đó trong nhiệm kỳ của mình, tôi sẽ sử dụng phán quyết đó”; đồng thời cho biết ông sẽ không lãng phí thời gian để đi đáp trả những lời chỉ trích cho rằng ông dường như ngoảnh mặt làm ngơ trước các động thái quân sự hóa trái phép của Trung Quốc trên Biển Đông. Thay vào đó, ông Duterte nhấn mạnh ông không cho phép Trung Quốc khai thác tài nguyên ở vùng biển mà Philippines tuyên bố chủ quyền. Ông Duterte cũng khẳng định Philippines không thể đọ sức mạnh quân sự với Trung Quốc vì Lực lượng Vũ trang Philippines được trang bị yếu kém. Tuy nhiên, ông Duterte khẳng định ông sẵn sàng triển khai quân đội và cảnh sát để bảo vệ chủ quyền của Philippines ngay cả khi họ chỉ được trang bị dao.
Ngày 21/8, trong cuộc họp với các thị trưởng quần đảo Visayas tại thành phố Cebu, ông Duterte cảnh báo Trung Quốc không khai thác dầu và các tài nguyên khác ở vùng biển phía Tây Philippines và cho rằng hành động đó có thể dẫn đến chiến tranh. “Tôi nói rõ về vấn đề dầu mỏ, nếu Trung Quốc giành độc quyền thì họ sẽ gặp rắc rối… Khi đó mọi người sẽ thấy Bộ trưởng Bộ Nội vụ Eduardo Ano mang dao rựa ra chém người Trung Quốc”, ông Duterte cho hay.
Ngày 23/7, Tổng thống Philippines Duterte cho biết, “Mối quan hệ đang được cải thiện của chúng ta với Trung Quốc không đồng nghĩa với việc chúng ta sẽ do dự trong việc bảo vệ các lợi ích ở vùng biển Tây Philippines”; đồng thời cho biết Philippines va Trung Quốc đang nỗ lực giải quyết vấn đề này thông qua các kênh ngoại giao, đồng thời khẳng định hai nước cũng tích cực hợp tác trong vấn đề chống ma túy.
Ngày 18/7, The Philippine Star đưa tin, phát biểu tại lễ khởi công xây dựng cầu Binondo-Intramuros do Trung Quốc đầu tư, Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte bày tỏ tin tưởng đối với “sự công bằng” của Bắc Kinh, người dân Philippines cần xem Trung Quốc “như một người láng giềng tốt” và cho rằng “chưa tới lúc để thảo luận về tranh chấp Biển Đông với Trung Quốc” mà “sẽ trao đổi vào một thời điểm khác theo như cam kết với Chủ tịch Tập Cận Bình”. Bên cạnh đó, ông Duterte khẳng định sẽ không gây sức ép buộc Trung Quốc phải tuân thủ Phán quyết của Tòa Trọng tài vụ kiện Biển Đông bác bỏ yêu sách phi lý của Trung Quốc trên Biển Đông.
Ngày 18/6, phát biểu tại lễ kỷ niệm 120 năm ngày thành lập Bộ Ngoại giao (DFA), Tổng thống tuyên bố: “Ta không thể đánh Trung Quốc. Trung Quốc không dễ bị khuất phục. Các bạn không thể khiến họ sợ hãi và thậm chí đến Mỹ còn phải e ngại đôi phần… Bạn biết nếu như phải chống lại Trung Quốc, Nga sẽ tham gia cuộc xung đột”; đồng thời cho biết “về vấn đề Biển Đông, các bạn muốn gì? Tôi phải cho thấy thái độ hung hăng như thế nào để thuyết phục Trung Quốc rời đi? Liệu tôi đã đe dọa họ hoặc đưa ra hàng nghìn khuyến nghị, chúng tôi đã làm rồi, chúng tôi chỉ là không công bố thôi. Thực sự chúng tôi đã phản đối”.
Ngày 28/5, ông Duterte đưa ra cảnh báo sẽ “không cho phép Trung Quốc xây dựng bất kỳ công trình nào ở bãi cạn Scarborough hoặc khai thác tài nguyên ở những khu vực thuộc chủ quyền của Philippines và sẵn sàng chiến tranh nếu điều này bị vi phạm”.
Ngày 19/5, phát biểu tại Cebu, Philippines, Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte cho biết ông sẽ không khiêu khích gây chiến với Trung Quốc sau thông tin cho rằng quân đội Trung Quốc đã điều các máy bay ném bom tầm xa tới một sân bay ở Biển Đông; đồng thời ông Duterte bày tỏ lo ngại rằng “liệu Philippines sẽ phải đối mặt với những điều gì nếu một cuộc chiến tranh bùng phát ở khu vực, đồng thời cũng không lấy gì đảm bảo được rằng Mỹ sẽ đứng ra bảo vệ nước này khi xảy ra tình huống như vậy”. Mặt khác, ông Duterte cho rằng một giải pháp khả thi hơn đó là “thúc đẩy một thoả thuận hợp tác chung với Trung Quốc nhằm khai thác các tiềm năng ở Biển Đông”.
Ngày 7/5, Tổng thống Rodrigo Duterte cho biết “Trung Quốc nói rằng họ sẽ bảo vệ chúng ta. Trung Quốc sẽ không cho phép Philippines bị phá hủy. Họ ở ngay đây và chúng ta có thể gọi cho họ yêu cầu giúp đỡ bất cứ lúc nào”. Trong khi đó, Tổng thống Duterte chỉ trích Mỹ khi cho rằng nước này sẽ không bảo vệ Philippines vì lo sợ chiến tranh.
Ngày 15/5, trong chuyến thăm ngoài khơi tỉnh Aurora, Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte khẳng định “Philippines không từ bỏ các quyền chủ quyền của mình đối với các vùng biển ở Biển Đông”, cho biết Philippines “sẽ xây dựng một vài khu vực Philippine Rise (trước đây là Benham Rise) thành khu vực bảo tồn biển”.
Ngày 19/2, phát biểu tại cuộc họp mặt nhân dịp Tết Âm lịch của Câu lạc bộ doanh nhân gốc Hoa, Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte trấn an lo ngại trong nước về việc Trung Quốc quân sự hóa (trái phép) ở các đảo nhân tạo trên Biển Đông, cho rằng “các cơ sở (phi pháp) mà Trung Quốc xây dựng trên Biển Đông nhằm mục đích phòng thủ chống lại Mỹ chứ không phải các nước trong khu vực; đồng thời tuyên bố ông “sẽ không hy sinh mạng sống của người Philippines một cách vô ích” và cho rằng “nếu Trung Quốc muốn, các anh có thể biến chúng tôi thành một tỉnh, giống như Phúc Kiến. Tỉnh Philippines của Trung Quốc”.
Ẩn ý đằng sau những tuyên bố hồn nhiên của ông Duterte về vấn đề Biển Đông
Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte được cho là một trong những người thành công trong việc thực hiện chính sách “vừa đấm, vừa xoa” đối với Trung Quốc. Việc ông Duterte đưa ra những tuyên bố chỉ trích, thậm chí là đe doạ Trung Quốc ở Biển Đông không ngoài mục đích nhắc nhở Trung Quốc phải thực hiện những cam kết, thoả thuận song phương mà hai nước đã ngầm trao đổi; đồng thời tìm cách trấn an và động viên tinh thần người dân trong nước rằng chính quyền của ông đang làm tất cả những gì có thể để bảo vệ “chủ quyền” của Philippines ở Biển Đông. Tuy nhiên, những khi ông Duterte “ca ngợi” Trung Quốc và “nguyện làm hết sức vì tinh thần đoàn kết giữa hai nước” là thông điệp muốn gửi gắm tới Mỹ, đồng minh của Philippines rằng “Mỹ cần phải tăng cường đầu tư và viện trợ hơn nữa đối với Philippines, nếu không Manila sẽ đi theo Trung Quốc”, đồng thời nó cũng là thông điệp gửi tới Trung Quốc, nhắn nhủ Bắc Kinh “cần phải tích cực hợp tác với Philippines”.
Đáng chú ý, những tuyên bố cứng rắn của Tổng thống Philippines Duterte được đưa ra giữa lúc chính quyền Tổng thống Philippines bị các nhóm cánh tả chỉ trích vì không nêu cao báo động công khai đối với những hành động sai trái gần đây của Trung Quốc trên Biển Đông, như triển khai máy bay chiến đấu, radar, vũ khí điện tử, tên lửa phòng không ra đảo nhân tạo mà Bắc Kinh xây dựng trái phép ở khu vực quần đảo Trường Sa (thuộc chủ quyền của Việt Nam), cũng như không yêu cầu Trung Quốc tuân thủ phán quyết của Tòa Trọng tài thường trực (PCA, tại The Hague, Hà Lan) trong vụ kiện về biển Đông của Philippines năm 2016.
Giới chính khách Philippines cho rằng, lên nắm quyền từ tháng 5/2016, Tổng thống Duterte đã tuyên bố chính sách đối ngoại không hướng nhiều về phía đồng minh thân cận Mỹ mà lại quay ra thân thiện với Bắc Kinh, tìm cách thúc đẩy thương mại, đầu tư và các quỹ cơ sở hạ tầng với nền kinh tế số 2 thế giới.
Trong khi đó, giới chuyên gia nhận định, phương pháp của Tổng thống Duterte đã khuyến khích Trung Quốc ngày càng cương quyết hơn về việc kiểm soát tuyến đường thủy trên biển Đông, nơi rất giàu tài nguyên dầu mỏ và khí đốt mà trong đó nhiều vùng nằm trong khu vực tranh chấp với các nước trong khu vực.Tổng thống Duterte “đổi giọng” với Trung Quốc giữa lúc các cuộc khảo sát cho thấy sự ủng hộ dành cho ông đang suy giảm. Trước đó, Tổng thống Duterte liên tục bị phe đối lập chỉ trích là “mềm yếu” với Trung Quốc. Theo cuộc khảo sát được tiến hành hồi cuối tháng 6 bởi tổ chức nghiên cứu xã hội Social Weather Stations (Philippines) có sự tham gia của 1.200 người, gần 90% người tham gia nói rằng họ muốn Philippines khẳng định các tuyên bố chống lại Trung Quốc trên Biển Đông.
Phản ứng trước những tuyên bố, hành động của Philippines và Trung Quốc ở Biển Đông,Bộ Ngoại giao Việt Nam nhiều lần khẳng định: Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý và chứng cứ lịch sử để khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Lập trường nhất quán của Việt Nam là giải quyết tranh chấp trên Biển Đông bằng biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, tuân thủ đầy đủ và hiệu quả Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC). Mọi hoạt động xây dựng, cải tạo tại các cấu trúc thuộc khu vực quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà không được sự cho phép của Việt Nam đều là phi pháp; đồng thời đề nghị các nước liên quan cần tôn trọng chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông.
Đảo nhân tạo ở Biển Đông:
Nhìn từ khía cạnh luật quốc tế
Bất chấp sự phản đối của cộng đồng quốc tế và đi ngược lại các quy định của luật pháp quốc tế, Trung Quốc đã tiến hành xâm chiếm, cải tạo phi pháp nhiều đảo đá, bãi cạn thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Trung Quốc đã tiến hành bồi lấp trái phép 7 thực thể trên quần đảo Trường Sa (Đá Tư Nghĩa, Đá Chữ Thập, Đá Vành khăn, Đá Gạc Ma, Đá Ga Ven, Đá Châu Viên, Đá Én Đất) nhằm biến những rạn san hô thành đảo nhân tạo khổng lồ. Một số đảo nhân tạo đã được xây dựng đường băng, lắp đặt radar và các hệ thống vũ khí. Dưới sự chỉ trích của cộng đồng quốc tế, hoạt động bồi lấp trái phép của Trung Quốc đã tạm dừng vào cuối năm 2016. Hành động này của Trung Quốc không nằm ngoài âm mưu biến khu vực này thành những tiền đồn quân sự phục vụ ý đồ độc chiếm Biển Đông của Bắc Kinh.
Quy định về đảo trong luật quốc tế
Quy chế pháp lý của đảo được quy định tại Điều 121 của Công ước Luật biển 1982 của Liên hợp quốc (UNCLOS) như sau:(1) Một đảo là một vùng đất tự nhiên có nước bao bọc, khi thủy triều lên vùng đất này vẫn ở trên mặt nước. (2) Với điều kiện phải tuân thủ khoản 3, lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa của hòn đảo được hoạch định theo đúng các quy định của Công ước áp dụng cho các lãnh thổ đất liền khác. (3) Những hòn đảo đá nào không thích hợp cho con người đến ở hoặc cho một đời sống kinh tế riêng, thì không có vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa.
Về nguyên tắc, UNCLOS thừa nhận đảo có địa vị pháp lý ngang bằng với đất liền khi tính tới hiệu lực của các vùng biển bao quanh nó. Tuy nhiên, do sự đa dạng của đảo về diện tích cũng như vị trí của đảo so với đất liền, Điều 121 đã dự liệu địa vị ngang bằng của đảo với đất liền chỉ có được khi đảo có khả năng cho việc cư trú của con người hoặc có đời sống kinh tế riêng. Tuy nhiên, trên thực tế việc áp dụng các quy định của Điều 121, đặc biệt là khoản 3 Điều 121 không dễ dàng bởi sự mập mờ của quy định này. Đối với điều kiện thứ nhất của khoản 3 Điều 121, người ta có thể lập luận rằng khả năng cho việc cư trú của con người có thể áp dụng cho hiện tại, quá khứ hay tương lai. Con người ở đây cũng không được quy định rõ là dân thường, hay lực lượng quân đội hoặc các nhân viên kỹ thuật cũng được chấp nhận. Cư trú ở đây là việc sinh sống lâu dài hoặc chỉ là cư trú tạm thời cũng được công nhận. Đối với điều kiện thứ hai, đời sống kinh tế riêng cũng có thể được lập luận là đời sống kinh tế của chính các đảo hoặc của cả các vùng nước bao quanh. Những quy định mập mờ như trên để ngỏ cho nhiều khả năng giải thích linh hoạt Điều 121. Mặc dù Điều 121 là nhằm hạn chế bớt hiệu lực tạo ra các vùng biển từ các đảo so với đất liền nhưng trên thực tế với những quy định mập mờ Điều 121 thường được các quốc gia sử dụng để tăng thêm các vùng biển cho các quốc gia có chủ quyền với đảo.
Đảo nhân tạo trong luật pháp quốc tế
Tính đến thời điểm hiện tại, chưa có văn bản luật quốc tế nào định nghĩa về đảo nhân tạo, kể cả UNCLOS hay Công ước Thềm lục địa 1958. Định nghĩa phổ biến nhất và được giới học giả ngành luật pháp quốc tế chấp nhận rộng rãi nhất cho đến này là định nghĩa trong Bách khoa toàn thư Công pháp quốc tế, quy định: “Đảo nhân tạo là một nền tảng cố định vĩnh viễn hoặc tạm thời do con người tạo nên bằng cách đặt, đổ lên các vật chất tự nhiên như sỏi, cát và đá, bao quanh là nước và nổi trên mặt nước khi thủy triều lên”. Trong khi đó, theo Soons, “Đảo nhân tạo là những cấu trúc được tạo ra bằng cách đặt/đổ lên các vật chất tự nhiên như sỏi, cát và đá; trong khi đó các công trình lắp đặt nhân tạo lại là những cấu trúc bê tông cố định gắn với đáy biển bằng ống dẫn và các cọc”. Việc xây dựng đảo nhân tạo trên thế giới thường là để tránh lấy đất nông nghiệp thiết yếu cho các mục đích khác nhau, bao gồm phát triển đô thị, thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên, giao thông vận tải và thông tin liên lạc, nghiên cứu khoa học, dự báo thời tiết, giải trí và căn cứ quân sự.
Một số dạng đảo nhân tạo: (1) Thành phố trên biển (cố định hoặc nổi), (2) Đảo nhân tạo phục vụ phát triển kinh tế, chẳng hạn như đối với việc thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên, đảo nhân tạo công nghiệp, đảo nhân tạo phục vụ đánh bắt cá, các công trình xây lắp nhân tạo để phát triển các nguồn lực phi tự nhiên như cứu hộ hoặc khảo cổ học, nhà máy điện; (3) Các công trình nhân tạo phục vụ giao thông vận tải, chẳng hạn như bến tàu nổi, nhà kho, sân bay nổi; (4) Các công trình phục vụ nghiên cứu khoa học và dự báo thời tiết; (5) Các công trình phục vụ giải trí; (6) Các căn cứ quân sự. Nếu nhìn vào từng phân loại một, chúng ta có thể dễ dàng thấy rằng tình trạng pháp lý của chúng khác nhau. Đây là một trong những lý do tại sao không có một định nghĩa nào về đảo nhân tạo trong UNCLOS và UNCLOS đã đơn giản là né tránh những phức tạp nảy sinh từ vấn đề định nghĩa đảo nhân tạo. Nhưng mặt khác, những kẽ hở còn lại trong Công ước Luật Biển vẫn làm phức tạp vấn đề liên quan đến quy chế pháp lý của đảo nhân tạo.
Mặc dù không định nghĩa về đảo nhân tạo, nhưng UNCLOS có nhiều quy định liên quan đảo nhân tạo, cụ thể:
Điều 11 cho rằng: “Để ấn định ranh giới lãnh hải, các công trình thiết bị thường xuyên là bộ phận hữu cơ của một hệ thống cảng, nhô ra ngoài khơi xa nhất, được coi là thành phần của bờ biển. Các công trình thiết bị ở ngoài khơi xa bờ biển và các đảo nhân tạo không được coi là những công trình thiết bị cảng thường xuyên”.
Điều 56 về các quyền, quyền tài phán và các nghĩa vụ của các quốc gia ven biển trong vùng đặc quyền về kinh tế, trong đó quy định: (1) Trong vùng đặc quyền về kinh tế, quốc gia ven biển có: a) Các quyền thuộc chủ quyền về việc thăm dò khai thác, bảo tồn và quản lý các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật, của vùng nước bên trên đáy biển, của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, cũng như về những hoạt động khác nhằm thăm dò và khai thác vùng này vì mục đích kinh tế, như việc sản xuất năng lượng từ nước, hải lưu và gió. b) Quyền tài phán theo đúng những quy định thích hợp của Công ước về việc: Lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình; Nghiên cứu khoa học về biển; Bảo vệ và gìn giữ môi trường biển; Các quyền và các nghĩa vụ khác do Công ước quy định. (2) Trong vùng đặc quyền về kinh tế, khi thực hiện các quyền và làm các nghĩa vụ của mình theo Công ước, quốc gia ven biển phải tính đến các quyền và nghĩa vụ của các quốc gia khác và hành động phù hợp với Công ước. (3) Các quyền có liên quan đến đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nêu trong điều này được thực hiện theo đúng phần VI.
Điều 60 quy định về các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình trong vùng đặc quyền về kinh tế, trong đó ghi rõ: (1) Trong vùng đặc quyền về kinh tế, quốc gia ven biển có đặc quyền tiến hành xây dựng, cho phép và quy định việc xây dựng, khai thác và sử dụng: Các đảo nhân tạo; Các thiết bị và công trình dùng vào các mục đích được trù định ở Điều 56 hoặc các mục đích kinh tế khác; Các thiết bị và công trình có thể gây trở ngại cho việc thực hiện các quyền của quốc gia ven biển trong vùng. (2) Quốc gia ven biển có quyền tài phán đặc biệt đối với các đảo nhân tạo, các thiết bị và các công trình đó, kể cả về mặt các luật và quy định hải quan, thuế khóa, y tế, an ninh và nhập cư. (3) Việc xây dựng các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình đó phải được thông báo theo đúng thủ tục, và việc duy trì các phương tiện thường trực để báo hiệu sự có mặt của các đảo, thiết bị và công trình nói trên cần được bảo đảm. Các thiết bị hay công trình đã bỏ hoặc không dùng đến nữa cần được tháo dỡ để đảm bảo an toàn hàng hải, có tính đến những quy phạm quốc tế đã được chấp nhận chung do tổ chức quốc tế có thẩm quyền đặt ra về mặt đó. Khi tháo dỡ phải tính đến việc đánh bắt hải sản, bảo vệ môi trường biển, các quyền và các nghĩa vụ của quốc gia khác. Cần thông báo thích đáng về vị trí, kích thước và độ sâu của những phần còn lại của một thiết bị hoặc công trình chưa được tháo dỡ hoàn toàn. (4) Quốc gia ven biển, nếu cần, có thể lập ra xung quanh các đảo nhân tạo, các thiết bị hoặc công trình đó những khu vực an toàn với kích thước hợp lý; trong các khu vực đó, quốc gia ven biển có thể áp dụng các biện pháp thích hợp để bảo đảm an toàn hàng hải, cũng như an toàn của các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình đó. (5) Quốc gia ven biển ấn định chiều rộng của những khu vực an toàn có tính đến các quy phạm quốc tế có thể áp dụng được. Các khu vực an toàn này được xác định sao cho đáp ứng một cách hợp lý với tính chất và chức năng của các đảo nhân tạo, các thiết bị và các công trinh, và không thể mở rộng ra một khoảng cách quá 500m xung quanh các đảo nhân tạo, các thiết bị và các công trình, tính từ mỗi điểm của mép ngoài cùng của các đảo nhân tạo, thiết bị và các công trình dó, trừ ngoại lệ do các vi phạm của quốc tế đã được thừa nhận chung cho phép hoặc tổ chức quốc tế có thẩm quyền kiến nghị. Phạm vi của khu vực an toàn được thông báo theo đúng thủ tục. (6) Tất cả các tàu thuyền phải tôn trọng các khu vực an toàn đó và tuân theo các tiêu chuẩn quốc tế được chấp nhận chung liên quan đến hàng hải trong khu vực của các đảo nhân tạo, các thiết bị, các công trình và các khu vực an toàn. (7) Không được xây dựng những đảo nhân tạo, thiết bị hoặc công trình, không được thiết lập các khu vực an toàn xung quanh các đảo, thiết bị, công trình đó khi việc đó có nguy cơ gây trở ngại cho việc sử dụng các đường hàng hải đã được thừa nhận là thiết yếu cho hàng hải quốc tế. (8) Các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình không được hưởng quy chế của các đảo. Chúng không có lãnh hải riêng và sự có mặt của chúng không có tác động gì đối với việc hoạch định ranh giới lãnh hải, vùng đặc quyền về kinh tế hoặc thềm lục địa.
Điều 87 quy định về tự do trên biển cả, trong đó: (1) Biển cả được để ngỏ cho tất cả các quốc gia, dù có biển hay không có biển. Quyền tự do trên biển cả được thực hiện trong những điều kiện do các quy định của Công ước hay và những quy tắc khác của pháp luật quốc tế trù định. Đối với các quốc gia dù có biển hay không có biển, quyền tự do này đặc biệt bao gồm: Tự do hàng hải; Tự do hàng không; Tự do đặt các dây cáp hoặc ống dẫn ngầm với điều kiện tuân thủ Phần VI; Tự do xây dựng các đảo nhân tạo hoặc các thiết bị khác được pháp luật quốc tế cho phép, với điều kiện tuân thủ phần VI; Tự do đánh bắt hải sản trong các điều đã được nêu ở Mục 2; Tự do nghiên cứu khoa học với các điều kiện tuân thủ các Phần VI và VIII. (2) Mỗi quốc gia khi thực hiện các quyền tự do này phải tính đến lợi ích của việc thực hiện tự do trên biển cả của các quốc gia khác, cũng như đến các quyền được Công ước thừa nhận liên quân đến các hoạt động trong Vùng.
Điều 208 quy định về ô nhiễm do các hoạt động liên quan đến đáy biển thuộc quyền tài phán quốc gia gây ra đã quy định: Các quốc gia ven biển thông qua các luật và quy định để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm đối với môi trường biển trực tiếp hay gián tiếp do các hoạt động liên quan đến đáy biển thuộc quyền tài phán quốc gia gây ra, hay xuất phát từ các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình thuộc quyền tài phán của mình theo các Điều 60 và 80. Các quốc gia thi hành mọi biện pháp khác có thể cần thiết để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự sự ô nhiễm này. Các luật, quy định và biện pháp này không được kém hiệu quả hơn các quy tắc và quy phạm quốc tế hay các tập quán và thủ tục đã được kiến nghị có tính chất quốc tế. Các quốc gia cố gắng điều hòa các chính sách của mình về mặt này ở mức độ khu vực thích hợp. Đặc biệt khi hành động qua trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại giao, các quốc gia thông qua các quy tắc và quy phạm cũng như tập quán và thủ tục được kiến nghị, trên phạm vi thế giới và khu vực, để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự nạn ô nhiễm môi trường biển nói ở khoản 1. Các quy tắc và quy phạm cũng như tập quán và thủ tục được kiến nghị này, tùy theo sự cần thiết mà qua từng thời kỳ được xem xét lại.
Ngoài ra còn một số Điều trong UNCLOS cũng những quy định liên quan “đảo nhân tạo” như Điều 79, Điều 80, Điều 214 và Điều 246. Nhìn chung, UNCLOS đã quy định về “đảo nhân tạo” như sau: Thứ nhất, UNCLOS cho phép các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia ven biển, được quyền xây dựng đảo nhân tạo và quyền tài phán đối với các đảo này. Rõ ràng các quốc gia ven biển có quyền xây dựng các đảo và các thiết lập nhân tạo trong vùng lãnh hải của mình. Thứ hai, UNCLOS ở một chừng mực nào đó đã xác định tình trạng pháp lý của đảo nhân tạo. Thứ ba, việc xây dựng đảo nhân tạo có một số tác động đối với việc phân định biên giới biển. Đối với việc phân định lãnh hải, “công trình cảng bền vững ở xa nhất mà tạo nên một phần không thể tách rời của hệ thống cảng biển được coi như là một phần cấu thành bờ biển”, nhưng những thiết lập xa bờ và các đảo nhân tạo không nên được coi là “công trình cảng bền vững”.
Như vậy, quốc gia ven biển không thể “nhờ” đảo nhân tạo mà “nới” thêm chủ quyền được. Họ chỉ có thể ấn định chiều rộng của những khu vực an toàn có tính đến các quy phạm quốc tế. Các khu vực an toàn này được xác định sao cho đáp ứng một cách hợp lý với tính chất và chức năng của các đảo nhân tạo và không thể mở rộng ra một khoảng cách quá 500m xung quanh các đảo nhân tạo, tính từ mỗi điểm của mép ngoài cùng của các đảo nhân tạo, trừ ngoại lệ do các vi phạm của quốc tế đã được thừa nhận chung cho phép hoặc tổ chức quốc tế có thẩm quyền kiến nghị. Phạm vi của khu vực an toàn được thông báo theo đúng thủ tục khu vực.
Trung Quốc xây dựng đảo nhân tạo ở Biển Đông là vi phạm luật pháp quốc tế:
Thứ nhất, các đảo nhân tạo Trung Quốc xây dựng trái phép thuộc quần đảo Trường Sa là của Việt Nam mà Trung Quốc đã chiếm đóng bằng vũ lực. Trung Quốc luôn tự cho là có chủ quyền đối với khu vực quần đảo Trường Sa nói riêng và với hơn 80% diện tích Biển Đông nói chung, nhưng trên thực tế, Trung Quốc đã dùng vũ lực quân sự để xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa và một phần quần đảo Trường Sa của Việt Nam vào các năm 1956, 1974, 1988, 1995… Những hành động vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế này sẽ không đem lại chủ quyền cho Trung Quốc ở Biển Đông.
Không những vậy, Tòa Trọng tài Thường trực tại The Hague (PCA) ra phán quyết chung cuộc vụ Philippines kiện Trung Quốc về “Đường Chín Đoạn”, hay còn gọi là “Đường Lưỡi Bò” trên Biển Đông. Trong đó, phán quyết của Tòa đã nêu rõ: “Tòa kết luận không có căn cứ pháp lý để Trung Quốc đòi quyền lịch sử với các vùng biển nằm trong “đường chín đoạn”. Ngoài ra, về vấn đề pháp lý của “các hòn đảo” mà Trung Quốc đã cơi nới mở rộng nhân tạo dựa trên các bãi cạn, đá ngầm, cùng vùng biển xung quanh, Toà kết luận “không có thực thể nào ở Quần đảo Trường Sa đáp ứng được các điều kiện để làm căn cứ tính những vùng biển nới rộng”. Toà cũng lưu ý về việc có sự hiện diện của con người trên một số điểm, nhưng xác định việc đó không làm thay đổi bản chất “không thể là nơi con người có thể sinh sống hoặc tự nó có giá trị kinh tế” của các thực thể này, bởi sự tồn tại của con người tại đó hoàn toàn “phụ thuộc vào sự hỗ trợ bên ngoài chứ không phải dựa vào khả năng tự có”.
Thứ hai, các đảo nhân tạo Trung Quốc xây dựng trái phép là trên các loại đá tự nhiên và các rạn san hô vĩnh cửu còn vi phạm các quy định của UNCLOS, Hiến chương Liên hợp quốc, xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam và gây ảnh hưởng nghiêm trọng đối với hoạt động tự do hàng hải, hàng không và môi trường sinh thái ở Biển Đông.
Thứ ba, Trung Quốc đã vi phạm các quy định Điều 87 UNCLOS, liên quan việc “tôn trọng hợp lý”.Việc hưởng quyền xây dựng đảo nhân tạo của một số quốc gia không nên ảnh hưởng bất hợp lý đến quyền và lợi ích của các quốc gia khác cũng như cả cộng đồng quốc tế. Nguyên tắc này được thể hiện rõ trong các điều khoản liên quan của UNCLOS, nó chỉ ra rằng khi một quốc gia ven biển thiết lập vùng an toàn xung quanh đảo nhân tạo, cần đảm bảo rằng khu vực này liên quan một cách hợp lý đến bản chất và chức năng của hòn đảo nhân tạo ấy, và cũng cần phải đưa ra thông báo về phạm vi của vùng an toàn. Hơn nữa, “đảo, các thiết lập và cấu trúc nhân tạo cùng với các vùng an toàn bao quanh chúng có thể không được thiết lập nếu chúng ảnh hưởng đến việc sử dụng các tuyến đường biển đã được công nhận thiết yếu đối với đường biển quốc tế”.
Thứ tư, Trung Quốc đã vi phạm các điều khoản, thỏa thuận song phương, đa phương về nghĩa vụ phải thông báo và tham vấn về việc xây dựng đảo nhân tạo và các thiết lập ở Biển Đông; vi phạm các quy định của Tuyên bố về Cách ứng xử trên Biển Đông (DOC) năm 2002 và cam kết không tiến hành quân sự hóa, làm phức tạp hóa tình hình Biển Đông.
Trung Quốc đã có nhiều bước chuẩn bị công phu khi tiến hành cải tạo đảo nhân tạo ở Biển Đông:
Financial Times nhận định. Trung Quốc đã đầu tư rất nhiều tiền vào ngành công nghiệp nạo vét trong thập kỷ qua, với khoảng 200 tàu được chế tạo từ năm 2006, đưa Bắc Kinh trở thành một trong những nước sản xuất tàu xây đảo lớn nhất thế giới. Gần đây, Trung Quốc đã chế tạo thành công tàu Tiankun chuyên nạo vét, xây đảo lớn và tiên tiến nhất khu vực. Tàu Tiankun có chiều dài 140 m, lượng choán nước 17.000 tấn. Tàu có công suất hút tới 6.000 m3 đất, cát mỗi giờ từ độ sâu 35 m, như vậy cứ mỗi giờ con tàu có thể đào khối lượng tương đương 3 hồ bơi tiêu chuẩn. Theo Viện Nghiên cứu và Thiết kế Hàng hải ở Thượng Hải, Tiankun là tàu xây đảo hiện đại nhất châu Á, có thể sử dụng cho mục đích nạo vét bờ biển và các hoạt động bồi lấp đất ngay cả trong điều kiện thời tiết xấu. Alex Neill, thành viên cao cấp thuộc Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (IISS), cho biết ý nghĩa thực sự của việc công bố tàu xây đảo khổng lồ là nó có thể được triển khai để khôi phục các hoạt động bồi lấp ở Biển Đông.
Nhìn chung, việc Trung Quốc bất chấp công luận và luật pháp quốc tế cải tạo, xây dựng 7 đảo nhân tạo ở quần đảo Trường Sa của Việt Nam nhằm mục đích gây sự đã rồi, khống chế toàn bộ khu vực, hay nhiễu loạn hiện trạng, đe dọa vị trí pháp lý của các bên tranh chấp… cũng không đem lại cho nước này chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán được luật pháp quốc tế công nhận ở Biển Đông.
http://biendong.net/bi-n-nong/23769-dao-nhan-tao-o-bien-dong-nhin-tu-khia-canh-luat-quoc-te.html