Tin Biển Đông – 21/09/2018
Biển Đông trên bàn cờ chiến lược của TQ
Cùng với vị trí địa chiến lược vô cùng quan trọng và nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, Biển Đông được coi là một trong những khu vực quan trọng nhất trên thế giới. Để thực hiện những mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế và tăng cường vai trò, ảnh hưởng trên trường quốc tế, cũng như việc độc chiếm Biển Đông, Trung Quốc đã, đang và sẽ tiếp tục có những hành vi bất chất luật pháp quốc tế nhằm thực hiện ý đồ đặt ra đối với khu vực này.
Vai trò của Biển Đông trên bàn cờ chiến lược của Trung Quốc
Đầu tiên, về yếu tố địa chính trị: Biển Đông có vai trò đặc biệt quan trọng để Trung Quốc hiện thực hóa tham vọng trở thành cường quốc biển và cường quốc thế giới. Tuy nhiên, không gian sinh tồn của Trung Quốc đang bị “kìm hãm” bởi các nước láng giềng. Nếu phát triển về phía Bắc, Trung Quốc phải đối mặt với vùng khí hậu khắc nghiệt và bị Nga chặn đường; phát triển sang phía Tây và Tây Nam, là vùng rừng núi hiểm trở, không thuận tiện cho việc giao thương; hướng sang phía Đông là Nhật Bản, Đài Loan, không thuận tiện cho quá trình lưu thông thương mại đối với khu vực và thế giới. Trong khi đó, ở phía Nam là các quốc gia nhỏ, không có mối quan hệ bền chặt với các siêu cường trên thế giới. Vì vậy, yêu tiên chiến lược duy nhất của Trung Quốc là tìm mọi cách đột phá xuống phía Nam, giành quyền kiểm soát Biển Đông để mở rộng “không gian sinh tồn” của Trung Quốc.
Thứ hai, nếu giành quyền kiểm soát Biển Đông, Trung Quốc sẽ giành được nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng phong phú, đa dạng và dồi dào, đặc biệt là dầu khí và hải sản. Đối với Trung Quốc, đây là một thứ tài sản vô cùng quý giá để đáp ứng “cơn khát” năng lượng của mình. Biển Đông được đánh giá là một trong năm bồn trũng chứa dầu khí lớn nhất thế giới. Theo đánh giá của Trung Quốc, trữ lượng dầu khí ở Biển Đông khoảng 213 tỷ thùng, trong đó trữ lượng dầu tại quần đảo Trường Sa có thể lên tới 105 tỷ thùng. Với trữ lượng này và sản lượng khai thác có thể đạt khoảng 18,5 triệu tấn/năm duy trì được trong vòng 15 – 20 năm tới. Tuy Biển Đông chiếm diện tích 2,5% bề mặt Trái đất, song nó là một trong những khu vực có trữ lượng hải sản rất dồi dào trên thế giới và cũng là một trong năm khu vực đánh bắt cá năng suất cao nhất trên thế giới, chiếm khoảng 12% tổng lượng đánh bắt cá toàn cầu trong năm 2015, mang về giá trị tới 21,8 tỷ USD. Tại thời điểm hiện tại, hơn một nửa tàu cá trên thế giới hoạt động trong vùng biển này, cung cấp công ăn việc làm cho khoảng 4 triệu người.
Thứ ba, giành quyền kiểm soát Biển Đông, Trung Quốc sẽ kiểm soát được nhiều tuyến giao thông hàng hải quốc tế quan trọng nhất thế giới, kiểm soát được tuyến đường giao thông biển huyết mạch nối liền Thái Bình Dương – Ấn Độ Dương, châu Âu – châu Á, Trung Đông – châu Á, kiểm soát được con đường vận chuyển dầu và các nguồn tài nguyên thương mại từ Trung cận Đông và Đông Nam Á tới Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc. Nếu kiểm soát được Biển Đông, làm chủ được các tuyến đường thương mại trên Biển Đông, Trung Quốc vừa có thể bảo đảm an toàn tuyệt đối cho các đoàn vận chuyển dầu của mình từ Trung Đông, Bắc Phi về, mà còn áp đặt được ý chí chính trị của mình đối với các nước trong và ngoài khu vực có các hoạt động giao thương, vận chuyển liên quan đến các tuyến hàng hải trên Biển Đông, khống chế được Nhật Bản, Hàn Quốc, làm thất bại chiến lược “xoay trục” châu Á – Thái Bình Dương của Mỹ, đồng thời tăng cường và mở rộng tầm ảnh hưởng trên nhiều lĩnh vực đối với các nước ASEAN. Theo số liệu thống kê, Biển Đông là tuyến đường vận tải quốc tế nhộn nhịp thứ hai của thế giới. Mỗi ngày có khoảng từ 150 – 200 tàu các loại qua lại Biển Đông, trong đó có khoảng 50% là tàu có trọng tải trên 5.000 tấn, hơn 10% là tàu có trọng tải từ 30.000 tấn trở lên.
Thứ tư, khống chế, làm chủ được Biển Đông là một trong những yếu tố hết sức quan trọng để Trung Quốc thực hiện được tham vọng nước lớn, hiện thực hóa giấc mơ Đại Trung Hoa. Ngược lại, nếu mất quyền kiểm soát Biển Đông, bị phong tỏa các tuyến giao thông huyết mạch qua Biển Đông, nguồn cung năng lượng cho Trung Quốc bị gián đoạn, nền kinh tế, xã hội của Trung Quốc sẽ bị tác động nghiêm trọng. Chính vì vậy, trong nhiều năm gần đây, Trung Quốc đã, đang nỗ lực thúc đẩy nhiều hoạt động nhằm kiểm soát toàn bộ Biển Đông bằng nhiều biện pháp.
Trung Quốc đang triển khai đồng bộ các biện pháp nhằm độc chiếm Biển Đông
Về mặt pháp lý: Trung Quốc đẩy mạnh việc công bố, tuyên truyền các văn bản pháp quy quan trọng về quản lý, quy hoạch biển, cụ thể: Trung Quốc công bố “Cương yếu quy hoạch đất đai toàn quốc Trung Quốc năm 2016, tầm nhìn năm 2030”; Luật an toàn giao thông biển sửa đổi; Đại cương “Phương án sử dụng và khai thác hải đảo không người cư trú”; Quốc vụ viện Trung Quốc cũng phê chuẩn “Phương án giám sát Hải dương”; Trung Quốc lần đầu công bố Sách Trắng về “Chính sách hợp tác an ninh châu Á – Thái Bình Dương”, trong đó có nội dung xuyên tạc cho rằng “Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi đối với quần đảo Nam Sa (Trường Sa của Việt Nam) và vùng nước phụ cận”. Ngoài ra, Chính phủ Trung Quốc cũng trao Cục Hải dương Quốc gia quyền giám sát quản lý các nguồn tài nguyên, bảo vệ môi trường biển, kiểm soát, giám sát tàu thuyền và thiết bị, hoạt động hàng hải của nước ngoài trong vùng biển “thuộc quyền tài phán” của Trung Quốc… đối với các địa phương ven biển và cơ quan thực thi luật biển.
Các địa phương ven biển của Trung Quốc đưa ra các quy định, kế hoạch quản lý, giám sát, phát triển về sử dụng, khai thác, kiểm tra giám sát và bảo vệ môi trường biển. Tỉnh Hải Nam Trung Quốc đã công bố “Quy hoạch phát triển du lịch tổng thể năm 2016-2020”, khẳng định sẽ nâng cấp các sản phẩm du lịch dưới nhiều hình thức nhằm kết nối (trái phép) Hải Nam và Hoàng Sa; cái gọi là “Thành phố Tam Sa” thông qua phương án “Quy hoạch thực thi đồng bộ dịch vụ cảng Phú Lâm”; kế hoạch phát triển các nhà máy điện hạt nhân nổi trên biển theo Quy hoạch 5 năm lần thứ 13; Lệnh cấm đánh bắt cá hàng năm (Bộ Nông nghiệp nông thôn Trung Quốc thông báo tạm ngừng đánh cá có thời hạn từ 12h ngày 1/5/2018 đến 12h ngày 16/8/2018 ở Biển Đông, vùng biển từ 12 độ vĩ Bắc đến đường giao giới vùng biển Phúc Kiến – Quảng Đông kể cả Vịnh Bắc Bộ và vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam.)… nhằm phối hợp với chiến lược tổng thể của Chính phủ Trung Quốc, nhất là việc triển khai phát triển du lịch ở Biển Đông, để từng bước hợp thức hóa cơ sở hạ tầng tại khu vực chiếm đóng phi pháp.
Về kinh tế, khoa học kỹ thuật: Trung Quốc đẩy mạnh hoạt động củng cố kiểm soát trên thực địa bằng nhiều biện pháp trong đó tập trung vào các hoạt động dân sự có hàm lượng công nghệ cao; cung cấp dịch vụ công cho hoạt động hàng hải ở khu vực. Không những vậy, Trung Quốc cũng lợi dụng việc phát triển kinh tế, khoa học kỹ thuật để gia tăng ảnh hưởng đối với các nước ASEAN, chia rẽ đoàn kết trong nội bộ ASEAN, ép buộc một số nước phải lệ thuộc và ủng hộ Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông.
Về hoạt động quân sự: Trung Quốc đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu, chế tạo trang thiết bị quân sự mới như hoàn thiện tàu sân bay nội địa đầu tiên; thử nghiệm các loại vũ khí chiến lược có tính răn đe cao như tên lửa Đông Phong 5C (DF-5C), Đông Phong 16 (DF-16), máy bay tiêm kích J-20…; tăng cường các hoạt động tập trận bắn đạn thật ở khu vực quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa; triển khai (bất hợp pháp) tên lửa phòng không HQ-9B và tên lửa chống hạm YJ-12B trên 3 thực thể địa lý đã bị Trung Quốc bồi lấp trái phép thành đảo nhân tạo gồm đá Vành Khăn, đá Xu Bi và đá Chữ Thập (thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam); triển khai tàu chiến, radar, pháo phòng không ra Biển Đông…
Về hoạt động trong lĩnh vực dân sự: Trung Quốc đang đẩy nhanh quy hoạch quản lý biển, hỗ trợ cung cấp dịch vụ công nhằm đảm bảo an toàn hàng hải trong khu vực, cụ thể: Trung Quốc tuyên bố đã hoàn thiện việc đặt tên cho 255 cấu trúc ở Biển Đông, mở chi nhánh của Ngân hàng Trung Quốc (Bank of China) tại cái gọi là “thành phố Tam Sa”, thử nghiệm các chuyến bay dân sự, cho phép “Công ty vận tải tư nhân Hải Hiệp” đưa khách du lịch (đoàn viên thanh niên, sinh viên ra Hoàng Sa); xây dựng các dự án cơ sở hạ tầng lớn về giao thông liên lạc, năng lượng, phủ sóng mạng di động, bệnh viện, rạp chiếu phim… ở Hoàng Sa và Trường Sa.
Về mặt chiến lược: Trung Quốc tìm mọi cách buộc Mỹ phải ra khỏi Đông Á và Tây Thái Bình Dương bằng cách gây hao mòn chiến lược và chính trị hoặc đẩy Mỹ vào tình thế bị động chiến lược bằng chính sách bên miệng hố chiến tranh hiếu chiến trên tất cả các vùng biển Tây Thái Bình Dương. Đồng thời, Trung Quốc tăng cường sức mạnh hải quân để thu hẹp khoảng cách với ưu thế hải quân vượt trội của Mỹ ở Tây Thái Bình Dương. Mục tiêu rộng hơn là tạo ra khả năng triển khai lực lượng không chỉ ở vùng duyên hải của Trung Quốc mà còn cả ở Ấn Độ Dương. Ngoài ra, Trung Quốc cũng tìm cách duy trì các tranh chấp trên Biển Đông luôn ở mức độ áp lực vừa phải để Mỹ không thể trực tiếp can thiệp quân sự, nhưng vẫn đủ để gây sức ép chiến lược với Mỹ. Đối với các nước ASEAN, Trung Quốc vừa thực hiện chiến lược lôi kéo, vừa tìm cách chia rẽ đoàn kết ASEAN nhằm ngăn chặn khu vực hóa những tranh chấp Biển Đông.
http://biendong.net/bi-n-nong/23736-bien-dong-tren-ban-co-chien-luoc-cua-tq.html
Lý do Nga quyết định chưa can dự nhiều
vào vấn đề Biển Đông
Nga không phải nước có tranh chấp chủ quyền trực tiếp đối với Trung Quốc và các nước ASEAN ở Biển Đông. Mặc dù xét về tổng thể thì Đông Nam Á có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của Nga, song những năm qua, trong vấn đề tranh chấp Biển Đông, Nga lại chưa có sự can dự đáng kể nào gây ấn tượng trong vấn đề này, ngoại trừ những dấu hiệu cho thấy xu hướng thắt chặt quan hệ với Trung Quốc.
Trong tháng 4/2016, Ngoại trưởng Nga Lavrov cho biết lập trường của Nga về vấn đề Biển Đông, trong đó phản đối sự can dự của bên thứ ba và quốc tế hóa vấn đề Biển Đông, kể cả trong khuôn khổ các diễn đàn như ARF, EAS, ASEM. Tháng 9/2016, khi được hỏi về quyết định của Tòa Trọng tài quốc tế về vụ kiện đường lưỡi bò của Trung Quốc (7/2016) bên lề Hội nghị Thượng đỉnh G20 tại Hàng Châu (Trung Quốc), Tổng thống Nga V.Putin khẳng định “Chúng tôi đoàn kết và ủng hộ lập trường của Trung Quốc trong việc không công nhận phán quyết của Tòa… Đây không phải là lập trường chính trị mà chỉ đơn thuần về pháp lý”. Ông cho biết thêm sự can thiệp từ bên ngoài không giúp giải quyết vấn đề mà chỉ khiến tình hình thêm căng thẳng. Có nhiều nguyên nhân khiến Nga chưa có nhiều can dự vào vấn đề Biển Đông, như bao gồm sự ưu tiên về chiến lược, lịch sử mối quan hệ của Nga đối với các nước và mối quan hệ với Trung Quốc. Cụ thể:
Thứ nhất, địa bàn ưu tiên chiến lược của Nga vẫn là châu Âu, khu vực Trung Á và các nước SNG. Trên thực tế từ trước đến nay Đông Nam Á chưa bao giờ là địa bàn ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Nga. Chính sách đối với châu Á của Nga phần lớn tập trung vào Trung Quốc và phần lớn tập trung vào Trung Quốc và một phần quan hệ truyền thống với Việt Nam. Thực tế thì Nga chưa đủ nguồn lực và sự chú trọng để đẩy mạnh quan hệ với Đông Nam Á và xa hơn là đối với các vấn đề an ninh nóng bỏng của các nước khu vực này. Năm 2010, Nga chính thức công bố chính sách hướng Đông nhằm mục đích giảm bớt sự phụ thuộc kinh tế vào các nước phương Tây, đồng thời tận dụng tiềm năng to lớn từ các nền kinh tế đang lớn mạnh của châu Á, trong đó phải kể đến các nước thuộc khu vực ASEAN.
Thứ hai, quan hệ Nga với các nước ASEAN được tạo dựng trên cơ sở kinh tế và chính trị không đủ mạnh, không phải nói là yếu ớt. Những năm qua, kể từ Hội nghị thượng đỉnh Nga – ASEAN lần thứ nhất (2005), kim ngạch trao đổi thương mại hai bên đã kim ngạch thương mại của Nga đối với khu vực này mới đạt 21,4 tỷ USD (2014), hiện Nga chỉ đứng thứ 14 trong tổng số các đối tác thương mại lớn của ASEAN, chiếm chưa đến 1% tổng số kim ngạch thương mại của các nước ASEAN. Năm 2015, kim ngạch thương mại của Nga đối với ASEAN còn giảm xuống còn 13 tỷ USD, so với 345 tỷ USD kim ngạch thương mại của Trung Quốc đối với ASEAN. Đầu tư của Nga vào ASEAN rất thấp, chỉ khoảng 700 triệu USD (2014), tương đương 0,2% FDI của Nga ra nước ngoài. Như vậy chúng ta thấy rõ sự quan tâm và mức độ ưu tiên của Nga đối với ASEAN dừng ở mức nào. Về mặt chính trị, Nga cũng chưa cho thấy những dấu hiệu về quan tâm và dành ưu tiên cho khu vực này. Tại Hội nghị Quan chức Cao cấp (SOM) ASEAN – Nga do Thứ trưởng Ngoại giao, Trưởng đoàn quan chức cao cấp (SOM) Lào Thongphane Savanphet và Thứ trưởng Ngoại giao Nga Igor Morgulov đồng chủ trì tháng 5/2018 vừa qua, hai bên cũng chỉ tái khẳng định tầm quan trọng của quan hệ đối tác toàn diện và tiến bộ ASEAN – Nga, nhất trí tăng cường nỗ lực hướng tới nâng cấp quan hệ lên Đối tác chiến lược và tích cực triển khai các thoả thuận tại Hội nghị Cấp cao Kỷ niệm 20 năm quan hệ ASEAN – Nga (2016). Phía Nga cho biết ASEAN và Nga sẽ triển khai một số hoạt động cụ thể như tổ chức Đối thoại doanh nghiệp và Diễn đàn Giáo dục ASEAN – Nga dịp Diễn đàn kinh tế phương Đông tại Vladivostok tháng 9/2018, đoàn doanh nghiệp Nga tới tìm hiểu thị trường các nước ASEAN, Hội nghị Thượng đỉnh Thanh niên ASEAN – Nga tại Philippines trong năm 2018, các khoá đào tạo tại Nga về xây dựng năng lực trong phòng chống khủng bố, buôn bán ma tuý, tội phạm mạng… cho cán bộ an ninh các nước ASEAN. Nói chung, tất cả sự tham gia của Nga mới chỉ là những bước đi còn yếu ớt so với sân chơi chính trị vốn rất sôi động ở khu vực này.
Thứ ba, do mối quan hệ chiến lược không thể bỏ qua của Nga đối với Trung Quốc – nước gây ra tranh chấp chủ quyền chủ yếu với các nước ASEAN ở Biển Đông. Nga và Trung Quốc hiện là đối tác đối thoại chủ chốt của ASEAN và muốn cùng ASEAN xây dựng chương trình nghị sự cũng như định hình cấu trúc an ninh tương lai tại khu vực. Đây được coi là thay đổi đáng mừng đối với sự phát triển kinh tế và an ninh tại khu vực. Nga và Trung Quốc đang tham gia sâu hơn vào châu Á, nơi chiến lược tái cân bằng của Mỹ đã có động lực với sự ủng hộ quan điểm chung của ASEAN về Biển Đông. Sau khi Washington tham gia Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác Đông Nam Á năm 2009, tiếng nói và vị thế của Mỹ tại khu vực cũng nhận được sự quan tâm chú ý nhiều hơn. Tại Thượng đỉnh Đông Á (EAS) ở Brunei trong tháng 10/2013, Nga và Trung Quốc dự kiến sẽ hợp tác cùng nhau và đưa ra kế hoạch chung để củng cố vị thế và hy vọng nhận được sự ủng hộ của ASEAN. Cả hai nước đều ủng hộ vai trò lãnh đạo của ASEAN trong chương trình nghị sự của với 6 lĩnh vực ưu tiên chính là môi trường và năng lượng, giáo dục, tài chính, các vấn đề sức khỏe toàn cầu và bệnh dịch, giảm thiểu thiên tai và kết nối ASEAN. Điều khiến Nga và Trung Quốc xích lại gần nhau chính là mục tiêu chung trong giảm thiểu cái mà cả hai nước nhận thức một nước Mỹ bá quyền. Hai bên đều muốn bảo đảm rằng các đồng minh an ninh của Mỹ và chiến lược tái cân bằng không làm suy yếu sự hiện diện và ảnh hưởng của Trung – Nga tại châu Á. Xét tới căng thẳng hiện nay về tranh chấp biển tại Hoa Đông và Biển Đông, Nga và Trung Quốc đã nhận thức được nhu cầu tăng cường hợp tác an ninh biển. Những cuộc diễn tập hải quân Nga và Trung Quốc gần đây đã diễn ra dọc bờ biển Trung Quốc và truyền thông Trung Quốc đã ca ngợi quan hệ đối tác chiến lược toàn diện của hai nước láng giềng này. “Việc tái khẳng định liên kết quân sự Nga – Trung trong bối cảnh Biển Đông như hiện nay chính là cách để giới tinh hoa chính trị ở Bắc Kinh và Moscow thúc đẩy, thắt chặt trở lại mối quan hệ song phương”, Andrew O’Neil, giáo sư từ Đại học Griffith, Australia, nhận xét.
Thứ tư, do sự xa cách về mặt địa lý và lịch sử quan hệ giữa Nga với Đông Nam Á, Nga còn quá xa lạ với ASEAN so với các nước khác như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Pháp, Anh, Ấn Độ. Đối với ASEAN, Nga chỉ là một nước thường xuyên bán vũ khí và phương tiện quân sự hoặc là đối tác hợp tác năng lượng với một số nước. Năm 2012, Tập đoàn Năng lượng nguyên tử nhà nước Rosatom thuộc sở hữu nhà nước của Nga đã giành được hợp đồng cung cấp cho Việt Nam hai nhà máy năng lượng hạt nhân đầu tiên của nước này dự kiến được hoàn thành vào năm 2023 – 2024. Trong hội nghị về hợp tác thương mại giữa Việt Nam và Nga diễn ra tại Hà Nội hồi tháng 9/2015, nhiều tập đoàn lớn của Nga tỏ ra rất quan tâm đến việc đầu tư vào những lĩnh vực như điện hạt nhân. Nga nỗ lực mở rộng xuất khẩu các loại vũ khí, thiết bị quân sự và các hoạt động bảo dưỡng, đa dạng hóa nguồn cung các sản phẩm quốc phòng. Thậm chí, để kết nối với ASEAN, Nga còn tổ chức một diễn đàn kỹ thuật quân sự quốc tế, có tên là “Army 2015” vào tháng 6/2015.
Kết luận: Từ góc độ kinh tế đến chính trị thì với Nga Biển Đông không quá quan trọng như đối với các lợi ích cốt lõi. Các lợi ích sống còn của Nga hiện đang nằm ở khu vực châu Âu, khu vực Trung Á và các nước SNG. Vì vậy, sự quan tâm của Nga đối với vấn đề này chỉ dừng lại ở mức hạn chế để nhường chỗ cho những lợi ích khi thúc đẩy hợp tác với Trung Quốc. Tuy nhiên, chính điều nay đang khiến Nga mất dần lợi thế và hình ảnh đối với các nước khu vực, nhất là việc hợp tác với Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông đi ngược lại với xu thế phát triển và nguyện vọng của các nước trong khu vực.