Anh Quốc và Đại Nghị Chế
Nói đến Anh Quốc, về tổ chức chính trị, là nói đến quê cha đất tổ của Đại nghị Chế (Parliamentary Government), khuôn mẫu của hầu hết các phương thức tổ chức Chính Quyền Tây Âu, cũng như Hoa Kỳ là nơi chôn nhau cắt rún của TổngThống Chế, khuôn mẫu tổ chức hành pháp của một số lớn quốc gia trên thế giới, chúng tôi đã có dịp đề cập đến trong bài Tổng Thống Chế Hoa kỳ vừa rồi.
Nhưng từ ngày Quốc Hội Anh đặt viên đá góc tường, nền tảng cho Đại nghị Chế với câu Nhà Vua ở trong Quốc Hội (The King in Parliament), chúng tôi đã có dịp nhắc đền trong bài Quốc Hội, phương thức tổ chức Hành Pháp ở Anh có nhiều diễn biến.
Năm 1066 hoàng tộc Norman từ lục địa Âu Châu, vượt eo biển Manche qua chiếm hòn đảo Anh Quốc. (Taswell Langsmead, English Constitutional History, II ed., London, Plucknett 1960).
Vua đặt quyền bính cai trị và luật lệ trên khắp tân vương quốc.
Các lãnh chúa hàng năm phải nộp thuế cho vua.
Không đầy hai thế kỷ sau đó, năm 1215, các lãnh chúa trong vương quốc, các nam tước (baron) hợp nhau tại Runnynmede, gần Windsor, cùng đồng ý ký Bản Đại Tuyên Ngôn các Quyền Tự Do (Magna Charta Libertatum) để đặt yêu sách đối với vua:
– Nếu vua muốn lấy thuế nhiều hơn đã được quy định trong những điều khoản được ký kết,vua cần phải được sự thỏa thuận của Đại Hội Đồng (Magnum Consilium).
– Các nam tước cũng như những người dân tự do khác (tức không phải dân nô lệ), vua không được đem ra xét xử bằng thẩm phám đoàn gồm toàn quan chức của vua, mà phải được thẩm phán đoàn dân sự xét hỏi, thẩm định và tuyên án.
Nếu chúng ta có thể xem Bản Đại Tuyên ngôn các Quyền Tự Do năm 1215 là tài liệu đầu tiên được viết ra, khởi điểm cho những điều khoản khác sẽ được ghi vào Hiến Pháp Anh Quốc, (có người còn đi xa hơn cho rằng Bản Tuyên Ngôn Tự Do trên dựa vào tinh thần tự do của Bản Tổng Kết Luật Lệ và Phong Tục của Anh Quốc (Tractatus de legibus et Consuetudinibus Angliae của Glan Will khoản năm 1189), thì trái lại Đại Hội Đồng không thể được coi là khởi điểm cho Quốc Hội Anh.
Đại Hội Đồng chỉ là Hội Đồng Tư Vấn của vua, có đặc tính như các tổ chức của thời các lãnh chúa, kiểu Hội Đồng Thượng Thẩm của Pháp (Etats Généraux de Paris) hay các tổ chức Quốc Hội Âu Châu trong thời Quân Chủ Chuyên Chế lúc đó.
– Bàn cãi những vấn đề quốc sự như đối ngoại, lập pháp, thuế má hay phụ cấp, cứu xét các đơn từ thỉnh nguyện, xét xử các vấn đề kiện tụng dân luật cũng như hình luật ( Mailand, The Functions of Parliaments, Origins of the English Parliament, Longmans, London 1969, 145-210).
– Nhưng với sáng kiến vừa kể, một viễn ảnh mới được phát hiện. Các cộng đồng địa phương, làng xã, thôn ấp một mặt tuyên hứa bảo đảm ngân sách cho hoàng gia khỏi thiếu hụt, nhưng với điều kiện phải được cử người đại diện trực tiếp của họ trước hoàng gia để đạo đạt yêu sách và nhu cầu của họ. Cộng đoàn đại diện của các làng xã, thôn ấp tạo thành Hội Đồng có tính cách đại diện, được dân cử, khác với Đại Hội Đồng của vua cũng như nhiều hình thức Quốc Hội thời Trung Cỗ (Richardson, Parliament and great Councils in Meideval England, Stevens, London 1961).
Như vậy sự liên hệ giữa vua và làng xã thôn ấp đã được bắt đầu vào thế kỷ 13.
Làng xã thôn ấp tại địa phương là những đơn vị động lực phát triển kinh tế, bảo đảm liên tục cho ngân sách hoàng gia, với tổ chức tự trị về hành chánh.Và như vậy là đại diện của họ là Hội Đồng Đại Diện bên cạnh vua ở Westminster. Nói cách khác, từ thế kỷ 13 như vừa nói, họ đã cữ người vào Quốc Hội với ý nghĩa hiện đại của chúng ta (Postan, The Medieval Economy and Society. An Economic History of Britain in the Middle Ages, Harmondsworth, Penguin Books 1972, p. 263s).
Còn nữa, theo gương của Simon de Monfort, năm 1295 vua Edward I, muốn cho Quốc Hội có nhiều đại diện của mọi tầng lớp quần chúng, đứng ra triệu tập Quốc Hội Kiểu Mẫåu, gồm
Nhưng Quốc Hội Kiểu Mẫu của vua Edward I kéo dài không được bao lâu. Bởi lẽ từ nửa thế kỷ 14 trở đi, hai nhóm quân tước và đấng bậc cao trọng giáo sĩ bắt đầu có những cuộc hợp riêng rẽ, vì có nhu cầu và lợi thú riêng thuộc giai cấp và giới chức của họ, tách rời nhóm đại diện làng xã thôn ấp, vì quyền lợi và nhu cầu của các nhóm khác biệt nhau.
Sự việc Quốc Hội trở thành Lưỡng Viện do những cuộc nhóm hợp riêng như vừa kể bắt đầu từ năm 1351.
Khác với hình ảnh thông thường mà chúng ta thấy tại Quốc Hội các nước, Quốc Hội nhóm trong một thính phòng hình bán nguyệt, ở Quốc Hội Anh quốc Quốc Hội nhóm trong một thính phòng hình chữ nhật. Ở phía cuối phòng trên bậc cao là bàn của vị Xướng Ngôn Viên (Speaker), phía dưới, thấp hơn là bàn của các vị Thư Ký. Bên phải của vị Xướng ngôn Viên là những dãy bàn của các vị đại biểu phe thân chính phủ. Dãy bàn thứ nhất dành cho các Bộ Trưởng hay nhân viên chính phủ.
Vì thế, phe đối lập luôn luôn được phe đương quyền kêu gọi đối thoại một cách kính cẩn: Các Ngài Phe Đối Lập (Her Majesty Opposition).
Trong các phiên hợp tranh cải tại Quốc Hội, vị đại biểu phát biểu ý kiến không trực tiếp nói thẳng với phía bên kia hay với một vị đại biểu khác đồng đảng với mình, mà luôn luôn quay về nói với vị Xướng Ngôn Viên, để vị nầy, sau khi thấu hiểu và thâu thập ý kiến của Quốc Hội, sẽ đến trình bày lại với vua.
Theo tục lệ, kể từ ngày các làng xã, thôn ấp cử người vào Quốc Hội, xác thực hơn kể từ ngày Simon de Monfort gọi dân chúng ở thôn ấp ngồi vào Quốc Hội năm 1265, hay xác thực hơn nữa từ ngày Hạ Viện bắt đầu hoạt động, giữ vai trò chính yếu (tính đến 1965 là đúng 700 năm), mọi dựï án được đem ra bàn thảo trong Quốc Hội phải được đọc đi đọc lại đến 3 lần.Sỡ dĩ phải đọc lại đến 3 lần là vì các đại diện của Quốc Hội Simon de Monfort phần lớn là dân quê, nông dân mù chữ được chọn từ các thôn ấp. Thói quen đọc 3 lần đó, Quốc Hội Anh vẫn còn giữ đến ngày nay, mặc dù mục đích cũng như hoàn cảnh đã thay đổi:
– Lần thứ 2: Quốc Hội bàn thảo chung sau khi nghe đọc lại, sau đó tùy theo lãnh vực của vấn đề, dự án sẽ được giao cho các Ủy Ban Chuyên Môn(Select Committees) cứ xét.
II – QUỐC HỘI, HIẾN PHÁP VÀ BẦU CỬ.
Trong bài nói về Hiến Pháp, có lần chúng tôi đã trình bày : Nếu Anh Quốc là Quốc Gia tiền phong đặt khuôn mẫu và thể thức cho cả toà nhà Quốc Hội Dân Chủ cho các nước Tây Âu, thì đối với Hiến Pháp Anh quốc không phải là mẫu mực để các nước dân chủ Tây Âu bắt chước.Bởi lẽ Anh Quốc không có một Hiến Pháp được viết ra trên giấy trắng mực đen tất cả những điều khoản, nguyên tắt nền tảng và thể thức tổ chức cho cơ cấu quốc gia như Hiến Pháp của các nước Tây Âu , kể cả Hoa Kỳ.
Nói như vậy không có nghĩa là Anh Quốc không có Hiến Pháp.Nói cách khác, các điều khoản của Hiến Pháp Anh Quốc không được ghi chép vào một bản văn duy nhứt, mà hàm chứa trong các văn bản được viết trải qua dòng lịch sữ thăng trầm của chính trị, xã hội , kinh tế của xứ sở:
– hàm chứa trong các điều khoản luật pháp của làng xã, thôn ấp, ngay cả trước khi hoàng gia Norman đến chiếm hòn đảo Anh, được gọi là Luật Pháp Thông Thường (Common Law),
Như trên chúng ta đã đề cập là văn bản đầu tiên được viết ra một cách rõû rệt , khởi đầu cho một vài nguyên tắc của Hiến Pháp Anh là Bản Đại Tuyên Ngôn các Quyền Tự Do ( Magna Charta Libertatum), từ giữa thế kỷ 13, lúc các làng xã, thôn ấp bắt đầu có đại diện trực tiếp với vua.Nói cách khác Hạ Viện bắt đầøu mặc cả , đăït điều kiện với vua, biến những lời thỉnh nguyện thành những đòi hỏi , những dự án luật , những đòi hỏi dân có quyền mà nhà vua phải nhượng bộ ( Bill of Rights):
..nếu nhà vua không ra sắc luật cho dân được quyền .., Quốc Hội sẽ không phê chuẩn dự khoản thuế mà vua dự liệu cho ngân sách .
Trong hai thế kỷ 15 và 16, nhiều cuộc chạm trán giữa Quốc Hội và Hoàng Gia đã đến độ căng thẳng, nhứt kà đối với Hoàng Gia Tudor.Sau cùng, căng thẳng đến độ các vị vua của Hoàng Gia Stewart nhiều lần định phủ quyết các quyết định của Quốc Hội, dựa vào truyền thống cố hữu
– Vua thay Trời trị dân ,
Cuộc chạm trán còn kéo dài đến thế kỷ 17.
– và năm 1679 Sắc Luật Bảo Vệ Cơ Thể (Habeas Corpus Act) cũng được vua phê chuẩn, trong đó có điều khoản luật cấm bắt bớ giam cầm một cách vô cớ ( nói theo ngôn ngữ đỉnh cao trí tuệ của nước CHXHCNVN công an mời đi làm việc bất cứ lúc nào cũng được , phải có trát của toà thì nhân viên công lực mới được bắt giữ và sau đó phải đưa bị cáo ra tòa xét xử để biện bạch nguyên cớ cho việc bắt giữ.
Với Sắc Luật về Quyền Kế Vị (Act of Settlement) năm 1701, quyền thừa kế của Hoàng Gia không phải do thần quyền , mà do Quốc Hội quyết định.
Bắt đầu từ thế kỷ 18 trở đi, nhà vua không còn được quyền phủ quyết các quyết định của Quốc Hội nữa.
– Nhà vua đồng ý ( le roy le veut)
– «Hãy thi hành như dự án luật muốn» (soit fait come il est desiré).
Và nếu những dự án luật về ngân sách cho vua, thì vua sẽ phê chuẩn như sau:
– «Vua cám ơn các con dân tốt lành của Ngài, chấp nhận lòng tốt của họ và như vậy Ngài chấp nhận» (Le Roy remercie Ses bons sujets, accepte leur bénévolence, et ainsi le veut).
Ngoài ra những bản văn được viết ra một cách rỏ rệt như vừa trích dẫn kể trên với ngày tháng, Hiến Pháp Anh Quốc cũng hàm chứa nhiều bản tuyên án của các phiên tòa ( Cases).
– Bản Tuyên Án về Đặc Quyền của Hoàng Gia (Case of Proclamations) năm 1611
Và sau cùng, những cách hành xử trong dân chúng theo tập tục, truyền thống cũng được người Anh coi là những điều khoản của Hiến Pháp để tổ chức xã hội của họ (Sir. Erskine May, Treatise on the Law Privileeges, Procedings and Usage of Parliament, London, Butterworth 1957, XVI ed.).
Việt Nam chúng ta có câu:
Quan có vội, quan lội quan đi.
Ở phần trên, chúng ta có đề cập đến việc các làng xã, thôn ấp ngay tư thế kỷ 13 đã bắt đầu cử người đại diện trực tiếp và thường trực của mình trước hoàng gia, nếu vua muốn được dân chúng trả thuếù để bảo đảm cho ngân sách hoàng gia khỏi thiếu hụt.
Nhưng chúng ta sẽ vấp phải lỗi lầm lớn, nếu chúng ta nghĩ rằng việc tuyển cử các đại biểu từ làng xã, thôn ấp có tính cách bầu cử đại chúng ( universal suffrage) như hiện nay.Trên thực tế, lúc đó các ứng viên cũng như cử tri đều bị giới hạn bởi nhiều khó khăn.
Bởi vì chỉ có địa chủ (theo quan niệm vừa kể) mới có đất đai, có lợi tức hàng năm vững chắc, đáng được tin cậy để giao cho việc quản trị hành chánh địa phương, có khả năng vô tư để xử những vụ kiện tụng nhỏ tại địa phương (process by jury) và hành xử quyền đại diện của mình tại Quốc Hội Wesminster một cách vô vị lợi.
Và cũng vì phát triển kỹ nghệ mà một số thôn ấp bị dân chúng bỏ trống hay Thôn ấp hôi thối (Rotten Boroughs), nhưng vẫn được có đại diện ở Quốc Hội, trong khi đó thì nhiều khu vực mới, nhứt là những làng mạc đông đúc dân cư chung quanh khu kỹ nghệ vẫn không được có đại diện. Một trong những Thôn ấp hôi thối được huân tước Russell, đại diện cho nhóm cải cách Quốc Hội đưa ra, đó là trường hợp Old Sarum, chỉ còn có 3 địa chủ, vậy mà cũng có đại diện ở Quốc Hội. Nhiều trường hợp như vậy đã được đem ra bàn cải ở Quốc Hội để sữa đổi. Với Sắc Luật Bảy Năm, năm 1715, rồi đến Sắc Luật về Quốc Hội năm 1911, nhiệm kỳ Quốc Hội được thu ngắn lại 5 năm (Thommpson, English Landed Society in 19th Century, Routledge and Kegan Paul 1963) .
Với Sắc Luật Cải Tổ Qui Mô (Great Reform Act) năm 1911, Quốc Hội phân chia lại lãnh thổ Anh Quốc thành nhiều đơn vị bầu cữ mới, sau khi đã loại bỏ 56 Thôn ấp hôi thối được kiểm chứng (Baker, Political Ideas in Modern Britain, London, Methuen 1978)
Năm 1832, với Sắc Luật Đại Cải Cách trước đó vẫn chưa cho phép phái nữ Anh Quốc được bỏ phiếu. Phái nữ phải chờ mãi đến năm 1918, với Sắc Luật Đại Diện Dân Chúng (Representation of the People Act) mới được đi bỏ phiếu, nếu họ có trên 30 tuổi.
Và năm 1928, với Đạo luật Nội Quy các cô 21 tuổi lần đầu tiên mới được đi bỏ phiếu (Liddington Norris, One Hand Tied Behind Us. The Rise of the Women’s Suffrage Movement, London, Virago 1978).
III – HOÀNG GIA, CHÍNH PHỦ VÀ DÂN CHÚNG.
Qua những dòng lịch sử vừa trình bày trên, chúng ta thấy rằng quyền thế của vua càng ngày càng bị giảm bớt đi song song và ngược chiều với tiến trình lớn mạnh quyền lực của Quốc Hội.
So với uy quyền của các Vị Nguyên Thủ Quốc Gia tại các nước theo Đại Nghị Chế, quyền hành của vua (hiện nay, của Nữ Hoàng Elisabeth) Anh Quốc bị thu gọn lại rất nhiều, nhưng uy thế của vua được dân chúng rất kính nể và thương mến.
Nhà vua hiện là biểu tượng cho sự đoàn kết quốc gia, cũng như tượng trưng cho sự hợp tác trong khối Thịnh Vượng Chung (Commonwealth).
Đặc quyền mà Hiến Pháp qui định cho vua hiện nay được ghi như sau:
Quyền được hỏi ý kiến, quyền kích lệ, cảnh giác những mối nguy hiểm đối với bất cứ quyết định nào (The right to be consulted, the right to encourage, the right to warn).
Hiện nay Hoàng Gia vẫn có một Hội Đồng Tư Vấn (Privacy Council) gồm 300 thành viên.Nhưng trừ những cuộc Đại Lễ hoặc các cơ hội đặc biệt, ít khi Hội Đồng hội hợp đủ mặt.Trong các thành viên Hội Đồng Tư Vấn, một số người giữ chức vự tương đương với nhiệm vụ của các Bộ Trưởng Chính Phủ. Hội Đồng Tư Vấn đã bắt đầu làm việc bên cạnh vua từ khoảng năm 1600 trở đi.
– Nhà Vua không bao giờ sai lầm hay làm sai (The King can do no wrong),
– Nhà Vua không thể tự mình làm lấy (The King can not act alone).
Nhưng dần dần với các tiến trình song song và ngược chiều về các lãnh vực quyền hành giữa vua và Quốc Hội, như đã nói, ấn ký của Vị Bộ Trưởng có nghĩa là trong trường hợp hành động sai lầm hay bất chính, Bộ trưởng có thể bị Hạ Viện truy tố và Thượng Viện xét xử.
Từ thế kỷ 18 trở đi, nhà vua càng ngày càng ý thức rằng Hội Đồng Tư Vấn, nhứt là các Vị Bộ Trưởng có nhiệm vụ hành pháp trực tiếp. Nhưng muốn thực hiện nhiệm vụ của mình, tức là cai trị đất nước một cách có hiệu quả, cần được sự đồng thuận và tín nhiệm của quốc Hội. Dần dần Quốc Hội bỏ đi thói quen truy tố ( Bill of Attainder) sau khi xét hành động của Vị Bộ Trưởng hay thành viên của Chính Phủ.
Như chúng ta vừa nói, Hội Đồng Tư Vấn của vua gồm khoảng 300 thành viên để giúp vua trị nước.Nhưng trên thực tế, chỉ có một số thành viên của Hội Đồng giữ những chức tương đương với các Bộ Trưởng Chính Quyền hiện hữu.
Sau khi Nữ Hoàng Anne Tudor mất đi, năm 1714 vua George Tudor, dòng dõi người Đức, sinh trưởng ở Hannover, sang Anh kế vị.
Từ đó, cần có một vị trong các Bộ trưởng tham dự các buổi họp của Hội Đồng Thân Tín hay Hội Đồng Nội Các, sau các buổi họp, đến tường trình lên vua những điều Nội Các quyết định.
Thường Vị Bộ trưởng được chọn giữ nhiệm vụ nầy là Bộ trưởng Tài Chánh hay ngân Khố ( Treasure Lord).
Việc vua không còn tham dự trực tiếp các phiên họp của Hội Đồng Nội Các, đưa đến sự kiện trên thực tế chỉ có Nội Các quyết định và hành xử quyền bính: Vua chỉ có quyền hành theo hình thức (formalis) trên giấy tờ mà thôi.
Qua hai sự kiện vừa kể, Hội Đồng Tư Vấn và Hội Đồng Thân Tín hay Nội Các phải được Quốc Hội tín nhiệm mới hành xử quyền bính giúp vua trị nuớc một cách hữu hiệu và việc Nội Các tự nhóm họp và quyết định lấy mọi vấn đề hành quyền, quyền Hành Pháp của thể chế quân chủ độc tôn trong quá khứ dần dà được chuyển qua Quốc Hội và rồi Quốc Hội, với quyền chuẩn y hay bác bỏ (xem bài Quốc Hội) và qua thể thức tín nhiệm hay bất tín nhiệm, còn cầm giữ cả quyền hành pháp trong tay.
Nhưng trên thực tế Nội Các hay Hành Pháp mới là cơ quan hành xử quyền hành để thực hiện, mà Quốc Hội đồng thuận hay bác bỏ đó, theo thể thức Đại Nghi Chế.
Kế đến, với sự kiện một trong các Vị Bộ Trưởng của Hội Đồng Nội Các được lựa chọn với nhiệm vụ thân hành đến tường trình lại với vua những quyết định của phiên họp, dần dần các Vị Bộ Trưởng trong Nội Các xem Vị Bộ trưởng được tuyển chọn như là Thủ Lãnh của Nội Các, nhứt là vào năm 1721 Sir Robert Walpole được tuyển cử như là Vị Lãnh Đạo của Hội Đồng, Vị Bộ Trưởng trên các Bộ Trưởng hay Vị Thủ Tướng lãnh đạo Hội Đồng Nội Các. Tư tưởng Thủ Tướng là Vị Lãnh Đạo Tối Cao của Hội Đồng Nội Các được nhà chính trị học Jenning ghi lại như sau:
Ngài là Vị Thủ Tướng, bởi vì trổi vượt hơn các Vị Bộ trưởng khác, chứ không phải trổi vượt vì ngài lá Thủ Tướng (He is Prime Minister, because he is supremen, not supremen because he is Prime Minister). (Jenning, The Constitution under Strain, in Political Quart., 1932,p.198).
Điều đó nới lên tài năng và đức độ của Vị Bộ trưởng sẽ được chọn lên làm Thủ Tướng để hướng dẫn Nội Các.
Nói cách khác, trong Đại Nghị Chế hiện nay, Thủ Tướng Chính Phủ là người được Quốc Hội tuyển chọn và Tổng Thống, vị Nguyên Thủ Quốc Gia bổ nhiệm.
Và như trên đã nói, các Bộ Trưởng được chọn giữa các Nghị Sĩ (nhờ các Sắc Luật Tu Chính Án năm 1919, 1926 và 1936) vẫn không mất quyền đại biểu của họ ở Quốc Hội. Họ vừa là Dân Biểu trong Quốc Hội, vừa là Bộ trưởng trong Chính Phủ (lằn mức phân quyền trong Đại Nghị Chế không xác định rỏ rệt như trong Tổng Thống Chế là vậy. Thể thức phân quyền, kiểm soát và cân bằng trong Đại nghị Chế được tổ chức ngay trong lòng Quốc Hội, giữa thành phần đa số ủng hộ Chính Phủ đương quyền và thành phần thiểu số đối lập, một đặc tính nữa của Đại Nghị Chế, mà chúng tôi đã có dịp đề cập đến trong bài Thiểu Số Đối Lập, Hiến Pháp Cộng Hoà Liên Bang Đức.
Vị Thủ Tướng được chỉ định là người lãnh đạo chính đảng chiếm đa số trong Quốc Hội. Để bảo đảm cho Nội Các do mình lãnh đạo được vững mạnh, ông chọn lựa các Bộ trưởng từ các Dân Biểu cùng đảng phái đa số của ông để tham gia vào Nội Các Chính Phủ trong suốt nhiệm kỳ hành pháp do luật pháp quy định. Ngoại trừ vì lý do nào khác, với các Dân Biểu đồng đảng của Thủ Tướng khó mà xảy ra chuyện giữa đường gảy gánh tương tư, không ủng hộ ông nữa, bắt buộc ông phải từ chức.
Như vậy việc Chính Phủ có quyền yêu cầu giải tán Quốc Hội là việc làm để tránh cho quyền hành của Quốc Gia bị tê liệt và trao trả quyền quyết định lại cho toàn dân qua cuộc tuyển cữ mới (Costanzo, Lo Scioglimento delle Assemblee Parlamentari, I, Milano, 1984, p.180s).
Nhưng việc giải tán Quốc Hội không được các nhà chính trị học Anh Quốc coi như là quyền hạn của Hành Pháp ( Chính Phủ) đứng ra thi hành, mà là qua vị Thủ Tướng truất phế Quốc Hội.Thủ Tướng là người hiểu rỏ tình trạng đất nước, do việc hành xử quyền hành của ông. Đàng khác ông cũng là thành viên của Quốc Hội ( Thủ Tướng cũng như các Vị Bộ Trưởng trong Nội Các Chính Phủ là những Dân Biểu Quốc Hội), nhận thấy thành phần và đường hướng Quốc Hội như hiện thời không thể đáp ứng được nhu cầu của đất nước. Ông đệ trình lên vua, Vị nguyên Thủ Quốc Gia, để ngài giải tán Quốc Hội mà luật pháp đã quy định cho ngài (Laski, Le Gouvernement Parlementaire en Engleterre, Paris, 1950, p.278).
Nhiều người bi quan cho rằng quyền yêu cầu giải tán Quốc Hội được giao cho Thủ Tướng như vừa kể có thể đi đến lạm dụng.
Một vị Thủ Tướng với đa số rộng lớn ở Quốc Hội (Hạ Viện) không có lợi gì tự nhiên đứùng ra giải tán Quốc Hội với mục đích để đạt được thắng lợi ở những cuộc đấu sức dựa vào những hoàn cảnh tạm bợ hiện tại (A Minister with a large majority in the House of Commons has no businessto disolve merely with the object gaining an advantage at the polls due the transitory circumstances) (Lucy, A Diary of the Unionist Parliament, Bristol, 1901,p.394).
Trong tâm thức và ngôn ngữ của ngưới Anh, Quốc Hội ( như trong thành ngữ Nhà Vua ở trong Quốc Hội ) , gồm có Vua và Quốc Hội Lưỡng Viện để quyết định và hành xử quyền bính quốc gia.Trên thực tế và qua các diển biến lịch sử mà chúng tôi có dịp nhắc đến ở trên, quyền lực quốc gia được Quốc Hội hành xử chỉ là Quốc Hội Hạ Viện. Do đó để nói đến Quốc Hội, nhiều lúc thay vì dùng danh từ Parliament, người Anh thường dùng Tòa Nhà của các Đại Diện Xã Ấp (House of Commons).
Như chúng ta đã có dịp đề cập đến, từ thế kỷ 18 trở đi, dường như nhà vua không bao giờ từ chối chẩn y các quyết định do Quốc Hội đã biểu quyết (bằng những thành ngữ của pháp văn cỗ). Do đó quyền lực quản trị Quốc Gia chỉ còn thu gọn vào Quốc Hội Lưỡng Viện (Đại Nghị Chế hay Quốc Hội Chế, Parliamentarism, là vậy).
Thượng Viện (Chamber of Lords) được đặt dưới quyền chủ toạ của Vị Huân Tước Chưởng Án (Chanceller of Lords).
Cho đến thế kỷ 18, phần lớn các ghế trong Hạ Viện, được ủy thác cho các Dân Biểu, đại diện làng xã, thôn ấp và phải được Thượng Viện đồng thuận.Điều kiện vừa kể, hiện nay, không được Quốc Hội đặt ra nữa. Và Thượng Viện chỉ còn quyền hành rất hạn hẹp. Nói đúng hơn, Thượng Viện Anh Quốc hiện nay là viện để các quyết định Quốc Hội được suy nghĩ thêm cặn kẽ hoặc là cơ quan để trì hoản thêm thời gian để vấn đề được chín mùi trước khi thực hiện.
Thành viên của Thượng Viện cho đến nay vẫn không thay đổi, có khoảng 1200 người,
– 26 của tôn giáo gồm 2 Tổng Giám Mục và 24 Giám Mục.
– Kế đến 21 Huân Tước Luật Pháp, là những Vi Thẩm Phán có nhiều công trạng được vua chỉ định có giá trị suốt đời.
-Và với SắcLuật Quý Tộc Suốt Đời năm 1958 ( Life Peerage Act ) khoảng 330 nhân vật có công được vua phong lên hàng quý tộc sẽ là thành viên của Thượng Viện.
Nhiều vấn đề được Thượng Viện đem ra cứu xét, Hạ Viện và Chính Phủ quan tâm theo dõi. Nhưng trên thực tế, Thượng Viện không có quyền quyết định để luật lệ có hiêu quả. Với sắc luật về Quốc Hội năm 1911 và 1944, những đạo luật về ngân sách (Money Bills), một khi được Hạ Viện chuẩn y và được Xướng Ngôn Viên tuyên bố, sẽ đương nhiên trở thành luật, sau khi được vua ấn ký, có hay không có sự đồng thuận của Thượng Viện cũng vậy. Nhiều dự án luật khác cũng vậy, sau khi Hạ Viện chấp thuận 2 lần trong 2 phiên họp khác nhau và trải qua thời gian một năm, cho dù Thượng Viện bác bỏ, dự án đương nhiên trở thành luật do hiệu lực của Sắc Luật về quốc Hội năm 1944.
Không phải vô tình hay do thiếu từ ngữ mà người Anh chỉ dùng một từ ngữ để chỉ ba thực thể chính trị khác biệt trong nhiều ngôn ngữ khác, kể cả Việt ngữ.
Suy nghĩ chính chắn hơn sự liên lạc giữa ba danh từ vừa kể, chúng ta sẽ thấy rằng tinh thần dân chủ của người anh rất sâu sắc khi họ định nghĩa ba danh từ liên hệ trên bằng một nguyên ngữ La Tinh duy nhứt Constituere.
Cũng vậy, trong cuộc sống thường nhật, mặc dầu quyền lực Quốc Gia nằm
Cùng trong tinh thần vừa kể, Đơn Vị Bầu Cử được người Anh gọi là Constituency (đôi khi bằng College). Với Sắc Luật về thể thức phân chia lại số ghế trong Hạ Viện(House of Commons – Redistribution of Seats Act) năm 1948, Đơn Vị Bầu Cử được coi là một lãnh thổ có đại diện riêng biệt tại Hạ Viện (An area having separate representation in the House of Commons).
Đơn Vị Bầu cử là hảng xưởng tại địa phương chế tạo ra nền chính trị cho toàn quốc (Louise and Ahondt, Society and ist Institutions, The Corporatist Theory in suffort (ed), Origins of the English Parliament, London, Longmans 1969,p.43s).
So với Tổng Thống Chế Hoa kỳ, trong đó hai mấu chốt của tổ chức quyền lực Quốc Gia là nguyên tắc phân quyền và nguyên tắc kiểm soát và cân bằng, trong Đại Nghị Chế của Anh Quốc, nguyên tắc phân quyền không được nhấn mạnh môt cách tuyệt đối. Thay vì quyền lực Quốc Gia bị phân chia cách biệt giữa lập pháp và hành pháp, trong Đại nghị Chế phương thức cộng tác hổ tương giữa các quyền lực Quốc Gia được nhấn mạnh một cách nổi bậc hơn.
Mặc dầu khi thực thi, Lập Pháp và Hành Pháp có thể thức và lãnh vực hành động khác nhau. Nhưng về cơ cấu quốc gia, Hành Pháp muốn có tư cách chính danh để hành quyền một cách hữu hiệu, phải được sự tín nhiệm của đa số Nghị Sĩ trong Quốc Hội, nếu ngược lại một Chính Phủ bị Quốc Hội bất tín nhiệm sẽ mất đi tư cách danh chính ngôn thuận để tiếp tục cai trị đất nước.
Trong thể thức thực thi quyền hành cũng vậy, các dự án luật cũng như chương trình chính trị để điều khiển Quốc Gia, Chính Phủ phải được Quốc Hội tín nhiệm, và ngược lại, do việc các Bộ trưởng và Thủ Tướng cũng như nhân viên cao cấp trong Chính quyền là những vị Nghị Sĩ trong Quốc Hội, các dự án luật cũng như việc hướng dẫn đường lối chính trị của Chính Quyền được Quốc Hội cùng bàn thảo với sự hiện diện và góp ý của các thành viên Chính Phủ.
IV – MỘT VÀI NHẬN ĐỊNH.
Qua hai bài Tổng Thống Chế Hoa kỳ và Anh Quốc và Đại nghị Chế chúng ta có thể rút được một vài nhận xét sau đây:
– a) Hoa Kỳ:
Đọc lai những Điều Khoản Thỏa Ước Liên Bang cũng như thành quả của Hiến Pháp Philadelphia, chúng ta đã xác định rằng mặc dầu 13 Tiểu Bang, cựu thuộc địa Anh Quốc, của Hoa Kỳ đồng ý với nhau hợp thành Quốc Gia Liên Bang, nhưng mỗi Tiểu bang vẫn giữ quyền tôái thượng của mình, mà họ đã phải trả đắc giá trong chiến cuộc chống lại mẩu quốc Anh để được độc lập. Tinh thần yêu chuộng tự do đó, chống lại mọi hình thức chuyên chế độc tài bất cứ từ đâu đến, họ luôn nắm chặt lấy bằng mọi cách.
Nhờ hoàn cảnh thuận lợi đưa đẩy, tức là vua cần ngân sách phải nhượng bộ dân để được dân trả thuế, nhưng cũng nhờ trí óc sáng suốt, người Anh biết lợi dụng thời thế chiếm lấy dần dần quyền bính từ tay của thể chế quân chủ chuyên chế, biến Anh quốc thành một quốc gia dân chủ (mặc dầu dưới hình thức Quân Chủ Lập Hiến).
– c) Nếu ở Hoa kỳ, người Mỹ đã biết bảo đảm tự do, dân chủ của họ
d) Cũng vậy,
a) Người Anh đã phải dành lại từ tay vua từng mãnh đất của quyền lực và tự do qua gần 6 thế kỷ (kể từ thế kỷ 13) với nhiều chiến lợi phẩm được ghi lại trong các Sắc Luật.
c) Người Đức với vết thương Đức Quốc Xã và Cộng Sản, lãnh thổ bị chia đôi như Việt Nam.
d) Người Ý với kinh nghiệm độc tài đẩm máu của Phát Xít (Fascismo) còn in đậm trên dưới 50 năm qua với Mussolini.
e) Người Tây Ban Nha với quyền lực hét ra lửa của Generalissimo Franco..
Đại Nghị Chế là phương thức các quốc gia Tây Âu ủy thác lối sống dân chủ và tự do của họ.
– Pháp với BánTổng Thống Chế;
– Anh, Đức, Ý, Tây ban Nha với Đại nghị Chế.
– Bán Tổng Thống Chế, Thủ Tướng Chế, Nội Các Chế tựu trung cũng chỉ là Đại Nghị Chế hay Đại Nghị Chế biến thể.
Tất cả đều đặt lối sống dân chủ, tự do của mình ở Toà Nhà Quốc Hội để được ngủ yên giấc, chống lại các cơn ác mộng độc tài, bạo chúa lúc nào cũng đội lốt dưới mọi hình thức sẳn sàng trở lại.