Xin Chia Sẻ Chuyện Bực Mình – Phan Văn Song
Những Dấu Hiệu Bán Nước: Từ Chuyện Phúc (Đi Lạy Tàu) Đến Hà Zì Fù Ca Tụng Tiếng Tàu
Đầu tuần, đầu tháng, sao lắm chuyện bực mình! Đầu tháng Tám, ngoài trời nóng như đổ lửa, nên đành ngồi trong văn phòng ôm cái máy trốn nóng.
– Bực mình, sốt ruột từ cả hai tháng qua, lo sợ, cảm thấy cuộc Cách Mạng Mùa Hè nầy, cũng như bao cuộc nổi dậy, xuống đường trong nước các năm tháng trước, sợ rồi sẽ không đi đến đâu. Lòng dân chưa hoàn toàn thống nhứt, hệ thống Đảng Cộng Sản vẫn một mặt kiểm soát chặt chẽ người dân, một mặt nuôi dưỡng đám đảng viên. Tiền tài, của cải, địa vị cá nhân lớn hơn tương lai vận mạng một Quốc gia, sinh tồn một dân tộc! Có người nói với tôi, “biến thành công dân Tàu đâu có mất chất Việt Nam?”... Ở Pháp, ở Mỹ… chúng ta, con cái hậu duệ chúng ta đã thành công dân Tây, công dân Mỹ đâu có mất chất Việt và văn hóa Việt đâu? Ăn thua mình dạy dỗ tụi nó, ăn thua cộng đồng mình có đủ sức mạnh giữ lề, giữ lối, giữ nguồn giữ giống hay không thôi! Nghe muốn khùng luôn. Tôi từ giả bọn bạn nầy, gần xuống lỗ rồi, chọn bạn mà chơi, thằng nào theo Tàu, theo Cộng tui nghỉ chơi, gần chết rồi nương nương nhịn nhịn chả đi vào đâu! Từ nay thà ở nhà với cô vợ chứ chơi với mấy thằng cà chớn hổng chơi!
– Bực mình vì những chuyện động trời, mà sao người mình không biết mắc cở? Nào dân trong nước đang bị đàn áp! Nào dự luật Đặc khu bán nước! Nào luật An ninh mạng! Nào Đảng cầm quyền vẫn muôn năm đi sứ, mỗi mỗi việc phải chạy qua Beijing “khấu đầu dưới trướng liệu điều kêu ca” xin xỏ nhận chỉ thị.
– Bực mình cái mồm của lão Thủ tướng Phúc, thì, đòi nhứt nhứt phải tất cả “phải Ma dzề in Việt Nam”, nhưng cái thân của lão Phúc (thì lại mỗi mỗi) Du sứ Tàu!
– Bực mình với những chuyện Phúc Du, thì hôm qua nhận được một bài viết do một anh bạn già Paris gởi hỏi ý kiến mình. Bài viết, xưa rồi, của tay nhà văn tự nhận nào là nhà bất đồng chánh kiến, nào là nhà dân chủ, tuy tên cúng cơm bố mẹ đặt hoàn toàn Việt Nam, nhưng lại lấy tên giả Tàu lai để viết bài, với tên ngòi viết (bút danh) thật kêu, thật cường điệu, việt hóa là Hà Sĩ Phu – Hei Xí Fù – 河士夫 (Kẻ Sĩ đất Hà ‘Nội’), tuy lão nay ở Đà Lạt, ca tụng chữ Tàu. Chúng tôi xin phép được trích vài đoạn để quý bạn làm chứng cái bực mình của chúng tôi:
“Hán văn là một bộ phận cấu thành của tiếng Việt: Hà Sĩ Phu”
” … Để góp thêm, mở đầu, tôi xin lấy vài ví dụ vui để thấy chữ Hán đã dính chặt vào dân tộc Việt Nam như thế nào, người mù chữ Nho tuyệt đối cũng đang dùng chữ Nho một cách tự nhiên, vô thức. Không phải là chuyện vay mượn vài chữ như vay mượn tiếng Anh, tiếng Pháp, mà người Việt dùng chữ Nho tự nhiên, tuôn chảy như viết, như nói tiếng mẹ đẻ của mình.
….
– Có thể đâu đó đã xuất hiện những tấm biển quảng cáo thế này:
“Kinh doanh quần áo các loại – hoa quả thời vụ – tạp hóa tổng hợp”.
“Phục vụ học sinh: sách giáo khoa, bút mực, dụng cụ thủ công, truyện cổ tích thế giới”.
Chẳng mấy ai bảo các tấm biển kia đã dùng chữ Hán. Nhưng xin thưa đó là ngôn ngữ Hán học hay Nho học trăm phần trăm, thuần Nho, không lẫn một chữ thuần Việt nào hết. Bạn có thể nghĩ “quần áo” hay “hoa quả” là tiếng thuần Việt chứ gì, không đâu, quần áo là hai chữ Nho 裙襖, đúng cả về phát âm và ngữ nghĩa. Quần 裙 là cái quần, áo 襖 là cái áo, cứ tra từ điển Hán Việt Đào Duy Anh thì biết. Hoa quả 花果 cũng vậy, vốn là chữ Nho. Cũng hai ký tự ấy nhưng người Tàu Bắc Kinh phát âm hơi khác, người Tàu Quảng Đông phát âm hơi khác mà thôi (nên mặc dù là tử ngữ nhưng bằng chữ Hán người Việt và người Tàu có thể bút đàm)…
– Không phải chỉ những câu ngắn mà có thể cả một buổi thuyết trình một ông cán bộ Việt mù chữ Nho có thể dùng toàn ngôn ngữ Hán, vốn chỉ là “tử ngữ” (mà không lẫn một chữ thuần Việt nào mới khiếp!), chẳng hạn ông ấy nói thao thao bất tuyệt như sau: “Các đồng chí cán bộ chính trị, cán bộ quân đội, sĩ quan công an cần đề cao tinh thần phục vụ nhân dân, kính trọng nhân dân, đề cao tinh thần trách nhiệm, phục tùng ý kiến đa số, bảo lưu ý kiến thiểu số, vận động các đoàn thể thanh niên, phụ nữ, công đoàn tích cực đấu tranh, bài trừ nạn tham ô, hối lộ, trấn áp quần chúng…
Chẳng hạn câu đầu tiên “Các đồng chí cán bộ chính trị, cán bộ quân đội, sĩ quan công an cần đề cao tinh thần phục vụ nhân dân…”sẽ ghi ra giấy thành各同志幹部政治, 幹部軍隊,士官公安勤提高精神服務人民, 敬重人民…, đọc lên cũng y như đọc bản quốc ngữ vậy, bảo rằng thuyết trình viên đã nói tiếng Việt hay đọc “Hán văn” đều đúng… »
– Trong những cuộc thảo luận của giới trí thức hiện nay, cả người thân Tàu hay ghét Tàu cũng có thể nói toàn chữ Hán:
Ví dụ ông Cộng sản thân Trung Hoa thì giữ lập trường “Độc quyền lãnh đạo, kiên trì định hướng Xã hội chủ nghĩa” 獨權領導,堅持定向社會主義. Toàn chữ Nho!
Ông Dân chủ tiên tiến không biết mặt một chữ Nho nào cũng “Quyết tâm thực hiện Dân chủ đa nguyên Pháp trị” 决心實現民主多元法治. Cũng toàn chữ Nho!”
(Ngưng trích)
Đọc xong tôi giận run cả người. Bài nầy tôi viết trong bực bội. Có lời gì khiếm nhã, xin quý bà con thông cảm.
Dĩ nhiên sau trên 1000 năm hoàn toàn bị đô hộ, và dù tuy được 1000 năm độc lập, nhưng vì các Vua Việt Nam ta lo mở mang bờ cõi, cũng cố giòng họ, sợ chiến tranh, tiếp tục đi sứ, theo văn hóa Tàu và tiếp tục lẫn lộn Bắc Nam. Tuy 6 lần bị xâm lược, nhưng vì bị 1000 năm văn hóa Tàu từ trước, nên vẫn cứ xem Tàu «chỉ» là người anh em phía Bắc, không (dám) rõ ràng nghĩ hắn ta là Hán Tộc, một dân tộc khác, là khác hẳn với chúng ta là Việt tộc. Chỉ có Vua Quang Trung (thế kỷ thứ 18), người duy nhứt, là rõ ràng nhứt, dứt khoát nhứt. Vua Quang Trung tổ chức đưa chữ Nôm vào Văn Kiện Hành Chánh và có chương trình đòi lại Lưỡng Quảng là hai tỉnh thuộc đất Đại Việt xưa của ta. Nhưng, chuyện chưa thành Ngài đã mất.
Nhà Nguyễn, quá nhu nhược, nhứt là bắt đầu Vua Minh Mạng và các con cháu đều là những vua quan được các quan chức Tống nho giáo dục nên là những tay phục tùng đắc lực nhứt của nền văn hóa Hán, điển hình là Vua Tự Đức, dám tự phụ hãnh diện là tay làm thơ làm phú Tàu, Tự Đức với tội phạm to lớn nhứt là đã làm mất nước Việt Nam!
Cái tội lớn nhứt là các quan lại hủ nho, suốt đời nầy đến đời khác không đủ Tình Yêu Nước để dứt bỏ văn hóa Tàu, bỏ hẳn chữ Nho, Nho Giáo, đi tìm một văn hóa, văn minh, truyền thống hoàn toàn Việt Nam, đi tìm một lối chữ viết hoàn toàn Việt Nam (như các trí thức quan lại Triều Tiên đã tìm ra chữ viết hàn hangul).
Thật vậy! Các quan lại Việt Nam hủ nho không đủ lòng Yêu Nước để đi tìm một sự độc lập về văn hóa, một độc lập về suy nghĩ, một độc lập về tư tưởng mà cứ bám riết vào cái văn hóa Khổng tử, Mạnh tử, gọi là Thánh Hiền của Tàu. Tại sao chỉ có Tàu mới có Thánh Hiền? Ông bà Việt Nam ta không phải là Thánh Hiền sao? Văn hóa đình làng với ông Bụt, Ông Thần cây Đa, ông Chìa Vôi … những tục những lệ làng không được xem là văn hóa thật Việt Nam ta sao? là văn hóa đúng mức Việt Nam ta sao? Y chang Đảng Cộng Sản Việt Nam ngày nay không đủ lòng yêu nước để đi tìm một hướng đi hoàn toàn độc lập với Đảng Cộng Sản Tàu vậy!
Không phải người Việt chúng ta không có chữ riêng, ngôn ngữ riêng. Chúng ta có tiếng nói riêng, có cái phát âm riêng. Ta nói Con Ngựa Trắng, Tàu nói Bạch Mã. Tàu nói ngược với ta. Ta để tỉnh từ sau danh từ, Tàu để trước. Như tiếng Pháp với tiếng Anh Pháp Cheval Blanc, Anh White Horse.
Bằng chứng, năm 771, khi Phùng Hưng, trong thời gian Việt Nam ta bị Nhà Đường của Tàu đô hộ, đã nổi dậy giành Độc lập, trong vòng 7 năm, cho một vùng đất Việt «đất Phong Châu – Ninh Bình ngày nay»! Lên ngôi, tự xưng mình là «Bố Cái Đại Vương» – Bố và Cái đều hai từ ngữ hoàn toàn Việt Nam, Đại Vương mới là chữ Hán Việt.
Hà Sĩ Phu đã lầm tiếng nói và chữ viết. Dĩ nhiên vì Hán thuộc, dĩ nhiên vì bị đô hộ văn hóa người Việt ta lúc bấy giờ mượn cách viết của Tàu, dùng chữ Tàu, làm phương tiện truyền thông. Nhưng các quan dân Việt của ta đều phát «âm việt» cả, vì vậy nên gọi là Hán Việt. Hán Viết là viết bằng chữ Hán nhưng phát âm Việt. Đó cũng là cái may mắn cho dân Việt vì vậy không bị mất giống, không bị diệt chủng. Khi ta đọc tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Đức ta đều phát âm Pháp, Anh Đức chớ có phát âm Việt đâu? Có chăng thì có cái giọng thôi. Chúng tôi có anh bạn người Huế nói tiếng Pháp, tiếng Anh gì, cũng với giọng huế. Có dịp tôi đọc cho bà con nghe!
Và dĩ nhiên, người Việt có tiếng nói riêng của người Việt. Cùng với Hán Việt, tiếng Việt giàu hơn tiếng Tàu, chúng ta có hai âm để chỉ một vật, ta đếm một hai ba… (chữ Việt âm Việt toàn việt), và ta cũng đếm nhứt, hay nhất, nhì tam… (chữ Hán, âm Hán Việt) …Và do đó để viết chữ Việt thuần túy, tiền nhân ta, những người yêu nước dùng chữ Nôm. Để phát biểu tư tưởng viết bằng âm Việt ngữ, các tiền nhân yêu nước chúng ta phải dùng một thủ thuật là phải cộng hai chữ hán, một chữ về nghĩa một chữ về thanh để biểu hiện âm Việt Nam thuần… Thí dụ muốn nói Năm (năm tháng) phải công chữ niên (hán là năm) + với chữ hán ngũ (là số năm).
– Nhờ thế mà đại văn hào Tiên Điền Nguyễn Du viết được một bản trường ca Kim Vân Kiều bất hủ toàn bằng chữ Nôm. Thử đọc to để cảm hứng: Vì Thơ là một bài hát, với vần với âm, với nhịp, với cắt khoảng, với hơi thở, và ta phải đọc ta, phải ngâm, phải hò. Thơ không phải một bức tranh mà ta nhìn vào nét vẽ nét chữ!
“…Người lên ngựa, kẻ chia bào,
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.
Dặm hồng, bụi cuốn chinh an,
Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh…”
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.
Dặm hồng, bụi cuốn chinh an,
Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh…”
Tả cảnh chia ly giữa Thúc Sinh và Thúy Kiều, tuyệt vời! Hồn thơ, hơi thơ hoàn toàn Việt. Có gì là chất Tàu đâu?
– Nhờ thế mà bà Đoàn Thị Điểm đã dịch được Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn từ Hán tự Đường Thi sang chữ Nôm với âm điệu hoàn toàn Việt Nam. Hãy đọc to, để nghe Bà tả tất cả những tâm sự ai oán của một người vợ thời chinh chiến:
« …Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm giường đã có đèn biết chăng?
Đèn có biết giường bằng chẳng biết?
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương! …»
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm giường đã có đèn biết chăng?
Đèn có biết giường bằng chẳng biết?
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương! …»
Tàu đâu? Tàu ở chỗ nào hởi ông Sĩ Phu đất Hà? Còn hỏi bao nhiêu chữ gốc Tàu bao nhiêu chữ gốc Việt Người đọc tui không cần biết! Đối với tôi tất cả là Việt! Như trong ngôn ngữ pháp, ngôn ngữ anh, bao nhiêu gốc La-tinh, bao nhiêu gốc Hy-lạp.
– Nhờ thế mà nữ sĩ Hồ Xuân Hương viết những bài thơ âm Việt nhiều ẩn ý, rất Việt tánh, để đời :
« …Hai Xe Hà Chàng Gác Hai Bên,
Thiếp Sợ Bí Thiếp Bèn Nghênh Sĩ»… (Đánh Cờ). Tàu đâu?
– Nhờ thế mà đại văn hào Nguyễn Đình Chiểu cũng với chữ Nôm viết Truyện dài bằng Thơ Nôm, Lục Vân Tiên, với tất cả âm điệu miền nam Việt Nam, với âm giai, điệu gió, thơ đọc như “kể chiện”, kiểu nói bình dân của dân Nam kỳ Lục tỉnh.
«…Trước xe quân tử tạm ngồi Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa…» Hay«…Vân Tiên ghé lại bên đàng,
Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô…
– Vân Tiên tả đột hữu xông
Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang… »
Tàu đâu? Hán đâu? Hay là đúng dân Nam kỳ của chúng tôi!
Nhưng các quan lại hủ nho Việt ta, cứ khư khư bám vào cái chữ Tàu, bám vào cái văn hóa Khổng tử, sợ rằng sang chữ Nôm các lão sẽ mất ghế, mất danh tiếng, mất hiểu biết. Y chang đảng Cộng sản ngày mai ôm một lô «chữ nghĩa khẩu hiệu, lý thuyết cũng vì sợ mất ghế… mất Đảng, mất ăn nhậu…» Lại còn bày đặt ra những bằng cấp, ngành học, nào lý luận Mác Xít, nào Tư Tưởng Hồ Mao, nào chủ nghĩa Mác Lê… với các trường Đại Học chuyên ngành Cộng Sản, Trường Đảng, với những bằng cấp «to đùng» cường điệu: Tiến sĩ, phó Tiến sĩ, Giáo sư, phó giáo sư… Mẹ! Giáo sư là thầy dạy học. Nghề Thầy giáo, một ngày đi dạy cũng là Thầy giáo. Phó Thầy Giáo là cái gì? Dạy học nửa ngày hay sao?
Ngôn ngữ theo nghĩa Hán việt là tiếng nói (ngôn). Như vậy tiếng Việt Nam là tiếng nói, là nói tiếng Việt Nam. Tại sao Hà Sĩ Phu lại dám bảo người việt đọc một câu giống như người tàu đọc được? Thử dùng một câu ngắn thôi:
Anh đi đâu? Nị hui pín tù ? (Quảng Đông). Nói tiếng Quảng Đông, Cỏn Qwang Tung Hỏa. Sua Qwang Túng dù (Bắc Kinh).
Như vậy, về mặt ngôn ngữ, các âm điệu hoàn toàn không giống nhau. Còn nói về viết thì viết toàn bằng chữ Tàu giống nhau. Nhưng đó là cả xứ Tàu. Xứ Tàu là xứ duy nhứt có TiVi nói tiếngTàu có phụ đề hoa ngữ.
Các tiền nhân ta không đủ sáng kiến và lòng yêu nước như người Đại Hàn và người Nhựt Bổn đặt ra chữ viết riêng. Người Hàn còn hay hơn người Nhựt là đã tạo ra chữ viết hangul là một loại ký hiệu theo âm vần a b c… Ráp chử ráp vần như vần gốc la-tinh của chữ quốc ngữ Việt Nam ta ngày nay vậy!
Chúng ta có cái may mắn gặp các vị cố đạo dòng tên đã dùng ký âm abc để tạo chữ quốc ngữ cho chúng ta ngày nay. Nhờ chữ quốc ngữ với ký âm abc chúng ta đã dễ dàng truyền bá quốc ngữ và dẹp được nạn mù chữ và mở mang trí tuệ cho người dân Việt Nam. Các quốc gia dùng những ký hiệu khác như chữ Tàu, chữ Ả-rập, chữ ấn độ đều gặp những khó khăn. Vài quốc gia tân thời muốn dễ dàng giáo dục dẹp nạn mù chữ đã chuyển sang ký âm la-tinh: Thổ Nhĩ Kỳ, Indônêsia, Mã lai Á…Tàu muôn dùng máy đánh chữ, hay internet đều phải qua dạng dùng ký âm la-tinh PinYin (bính âm) la-tinh để dùng bàn phiếm.
Ấy là nói đến tiện lợi. Còn nói về văn hóa! Chúng ta hình dáng giống Tàu, thêm bị văn hóa Tàu, chúng ta phải cảnh giác và chống Tàu hơn! Vì càng giống nhau, càng láng giềng nhau, chúng ta dễ bị chúng nó xâm chiếm, đồng hóa. Dân Do Thái Hébreu và dân Ả-rập đều là cùng một chủng tộc sémite, cùng văn hóa sémite. Cả hai đều chào mở đầu câu chuyện bằng Salem (Do Thái); Salam (Ả rập). Hai tay nầy thù nhau đến giết nhau. Tàu với Ta, bên Nị Hảo, bên Mạnh Giỏi thì thù nhau phải là cái chắc! Người Tàu chỉ tử tế khi người Tàu bị thất thế, tỵ nạn ở Việt Nam. Người anh em phương Bắc tỵ nạn miền Nam sẽ là những người phương Nam tốt Phan Thanh Giản, Mạc Cửu là những thí dụ.
Ít hàng nói hết, mong chia sẻ cùng quý bà con. Mất lòng ai thì đành chịu vậy! Tôi nhỏ lớn dân Nam kỳ thấy sao nói vậy! Thấy người đi nịnh Tàu, trong lúc Tàu đang hoành hành hống hách hùng hổ xâm chiếm nước ta, dân tộc Tàu đang diệt chủng dân tộc ta, mà người gọi là trí thức, tự nhận là sĩ phu đất Bắc Hà lại nịnh Tàu! Chịu không nổi! Và còn tên Phúc Du nữa! Đúng là Phúc Du 福 遊! Thôi ráng nhịn không nói tiếng Anh!
Quý bà con nào động lòng trắc ẩn vì con người Hoa tui đây đôi lời xin lỗi.
Hồi Nhơn Sơn, giữa những ngày hè nóng bức
Phan Văn Song
Phan Văn Song