Di sản tư tưởng chính trị Hy Lạp-La Mã. Cuộc Đối Thoại Với Quá Khứ Qua Tư Tưởng Chính Trị Của Aristote – Trần Thanh Hiệp
Một giáo sư trường Đại học Panthéon-Assas, Paris II, trong quyển Hợp Tuyển về Tư Tưởng Pháp Lý (Anthologie de la Pensée Juridique), mà ông là tác giả, có viết rằng ba nhà hiền triết lỗi lạc của Hy Lạp, Socrate, Platon và Aristote, đã đặt nền móng trí thức và đạo đức cho Phương Tây. Người ta cũng đọc thấy trong quyển Toàn Cảnh về Triết Học (Panorama de la Philosophie) rằng ba nhà hiền triết này là ba khuôn mặt đánh dấu Thời Đại Hoàng Kim của triết học Hy Lạp. Socrate, tuy là nhân vật hàng đầu nhưng ông không trước tác, chỉ là người giảng dạy mà thôi.
Ông không để lại cho hậu thế tác phẩm viết, vì ông không nhằm trực tiếp truyền thụ những kiến thức nhất định. Ông chỉ mở ra những cuộc đối thoại trong đó, tùy trường hợp, ông nêu lên những hiểu biết sai lầm, có loại bỏ được thì mới tránh được nạn suy nghĩ sai. Bài học cơ bản của ông là “Hãy tự giác” (Connais-toi toi-même). Mặt khác, học trò của ông rất đông, chính Platon và Arístote cũng đã tìm đến ông để được thụ huấn. Cho nên để nghiên cứu về riêng Socrate, cần có thêm thời giờ. Về phần Platon, trên mục này đã có một bài nghiên cứu sâu. Dưới đây là phần nói về Aristote.
Nói rằng Aristote là một nhà tư tưởng không phải chỉ nói ông là một nhà chuyên môn, một nhà khảo cứu về tư tưởng. Mà thật ra chỉ chú trọng trình bày những nét đặc thù của Aristote trong mọi hoạt động của ông trên địa hạt tư tư tưởng. Những nét đặc thù đã dẫn ông tới một thứ tư tưởng đặc thù, biến ông thành người đối cực của Thầy mình, Platon.
Nhà tư tưởng Arístote
Sinh năm 384 trước CN tại Stagire, một thành phố thuộc vùng đất Macédoine, Aristote từ thời niên thiếu đã được biết, trong tương lai, sẽ là một người đặc biệt. Về nhiều mặt. Như về nguồn gốc. Ông xuất thân trong một gia đình qúi tộc. Thân phụ ông là bác sĩ Nicomaque, thầy thuốc riêng của vua nước Macédoine. Thân mẫu ông là một nữ-hộ-sinh. Vì vậy, ông đã theo học ngành y khoa và đã trở thành một bác sĩ. Nhưng đồng thời ông lại còn là một triết gia, một trong ba triết gia biểu tượng cho một nước Hy Lạp cổ đại, bắt đầu chuyển hóa sang tân đại.
Vì là người Macédoine nên Aristote không được kể là công dân của Thành Quốc Athènes. Ông chỉ là một ngoại kiều. Năm 17 tuổi, ông rời Macédoine đến trú ngụ tại Thành Quốc này để nhập học trường Académie của Platon. Ông được thâu nhận và được Platon cử làm trợ giáo về môn tu từ học (rhétorique). Những biệt danh “Người đọc sách” (độc thư nhân), “Trí thông minh” là do Platon đặt cho ông.
Quả thật Platon đã sớm khám phá ra nơi người học trò trẻ tuổi của mình, Aristote, một triết gia hàng đầu có khả thế mang lại danh tiếng cho Hy Lạp, trải qua các thời đại. Vì như lịch sử đã chứng tỏ, ảnh hưởng của Aristote sâu rộng không riêng gì đối với tư tưởng phương Tây, mà còn cả đối với tư tưởng la-mã, tư tưởng trung-cổ, nhất là trên địa hạt pháp lý và chính trị học. Khởi đi từ một cái nhìn khoáng đạt về con người, về loài người, Aristote đã cổ võ cho tinh thần đại đồng, phổ quát (universalisme) trong cuộc sống cá thể cũng như tập thể. Nhờ vậy, ông đã xây dựng được một hệ thống tư tưởng “chủ toàn” (holisme, holism) với nhiều chiều kích, bao gồm được cả nhân sinh quan lẫn vũ trụ quan trong một cấu trúc tinh thần thống hợp linh động, gần như tự nhiên. Do đó, tư tưởng của ông mang nhiều nét đặc thù, so với các xu hướng đương thời như các phái Khắc Kỷ, Hùng Biện, Xi-ních- Cynique – tạm dịch là Duy Nhiên, sống không câu nệ để được gần tự nhiên, v.v… Cũng nên nhấn mạnh rằng, thấm nhuần tinh thần duy lý của y học, Aristote chủ trương muốn quan sát một xã hội thì phải dựa vào thực trạng của xã hội ấy chứ không thể vào một ý niệm đã có sẵn từ trước về xã hội. Tức là theo Aristote thì chỉ có thể tin vào sự thật khách quan, có thể lý giải được. Suy rộng ra, sự thực trong xã hội là công lý. Nhưng với năng khiếu biện chứng (biết tranh luận) sẵn có trong ông, Aristote lại đòi hỏi rằng công lý còn phải thực hiện thành công bình (équité) chứ không phải chỉ là sự phân phối có tính cách thuần toán học. Chính vì cần thỏa mãn cho thật đầy đủ các nhu cầu về mọi mặt nên ông chọn chỗ đứng trung dung trong mọi hoạt động trong cuộc sống. Theo ông, cần phải có xác tín nhưng đồng thời cũng không nên loại bỏ tinh thần tương đối (có điều này nhưng cũng có điều nọ, có ta, có người, có luật thành văn thì cũng vẫn có thể có luật không thành văn để thăng hoa các luật pháp mà bổ sung cho luật học v.v…).
Về mặt chính trị, ông không bị bó hẹp trong những tranh chấp giữa các Thành Quốc, ở Athènes, ông chỉ là một ngoại kiều. Nên ông đã không có được vai trò tích cực trong sinh hoạt chính trị của Thành quốc này. Đã vậy, cuộc đời ông đã trùng khít với sự suy thoái của các Thành Quốc biệt lập ở Hy Lạp. Athène chỉ còn là bóng mờ của thời vàng son của một Thành Quốc hàng đầu của Hy Lạp. Một không gian chính trị mở rộng đang thành hình. Dân chủ sớm muộn cũng sẽ phải nhường vũ đài lịch sử cho quả đầu chế hay đế chế.
Sau cái chết của Platon, Aristote quay về Macédoine và được mời làm gia sư cho con của vua Macédoine là Alexandre, sau trở thành Alexandre Đại Đế, nổi danh khắp thế giới vì cuộc trường chinh của ông. Dù vậy, Aristote vẫn không có dịp thuận tiện để làm chính trị nên ông đã chỉ suy nghĩ về chính tri.
Khác với Socrate, không có tác phẩm viết và hơn Platon, Aristote đã viết rất nhiều và về đủ loại. Luận lý, thi ca, vật lý học, sinh học, khí tượng học, tu từ học, tâm lý học, chính trị học, triết học… Rất tiếc là công trình sáng tác đồ sộ ấy của ông đã bị thất tán rất nhiều. Trong phần còn lại, có ba tác phẩm mà người ta coi như là những phản ảnh trung thành của tư tưởng của Aristote. Đó là Les Politiques (Bàn Về Chính Trị), Éthique à Nicomaque (Đạo Lý Trao Tặng Cho Nicomaque) và một phần của cuốn Constitution d’Athènes trong đó Aristote đã nghiên cứu 158 bản Hiến pháp của 158 Thành Quốc ở Hy Lạp… Một cái nhìn lướt qua mấy tác phẩm này sẽ tóm lược tư tưởng của Aristote như sau. Người ta coi Aristote như là người đi tiên phong sáng lập ra môn Chính Trị Học. Để làm công viêc đó, Aristote đã xây nền đắp móng cho Chính Trị Học và phân loại các chế độ chính trị.
Một Khoa Học về Chính Trị
Nền móng của Chính Trị Học
Aristote đã được đào tạo trong môi trường khoa học của sinh học, của y học nên ông triệt để tôn trọng kết quả của sự quan sát. Trước những sự thật khách quan, ông sẵn sàng cúi đầu tuân theo kỷ luật phải giữ thái độ trung lập trước những kết quả của sự quan sát ấy. Chẳng những vậy, ông còn chủ trương nới rộng kỷ luật tôn trọng kết quả sang những loại kiến thức khác ở ngoài môi trường sinh vật học, như ở trong môi trường xã hội, chính trị. Nhất là bởi ông là ngoại kiều ở Athène, không được phép trực tiếp tham dự vào sinh hoạt chính trị của Thành Quốc này nên ông lại càng xu hướng coi việc quan sát sinh hoạt ấy bằng con mắt lạnh lùng của một nhà dân tộc học. Ngoài ra, ông còn so sánh các hiện tượng chính trị với nhau như so sánh các loài trong sinh vật học.
Để nghiên cứu các hiến pháp, ông phân chia các hiến pháp này trên có sở những tương đồng, dị biệt giữa các loại chế độ, các nền hành pháp, các loại pháp luật, các thể thức tuyển chọn người cầm quyền v.v… Khi phân loại như vậy, ông không dừng lại ở những sự miêu tả thuần túy mà còn tìm cách vượt lên trên những miêu tả này để đi tới tổng hợp. Và ông chỉ rút ra kết luậu sau khi đã phân tích kỹ lưỡng các sự kiện. Ông tuyệt đối gạt bỏ mọi thái độ tiên thiên, những thành kiến, thiên kiến, ngay cả những khi ông quan sát những đối tượng mà ông không ưa thích.
Được một điều là ông vốn không đam mê về chính trị. Nhờ vậy mà ông đã cung cấp cho hậu thế một kiến trúc khoa học về chính trị học, xuất phát từ phương pháp phân tích trên đây là thành tố thứ nhất của nền móng của chính trị học theo Aristote.
Thành tố thứ hai là tinh thần hiện thực của Aristote. Người ta nói rằng đó là thứ đặc điểm đã làm cho người học trò Aristote khác biệt với thầy học Platon. Hay nói cách khác, đó là sự khác biệt giữa phương pháp phân tích dựa vào kinh nghiệm và phương pháp đứng trên có sở ý niệm. Thầy bước vào địa hạt chính trị với những khái niệm tiên thiên có sẵn từ trước. Như vậy, cuộc khảo sát dường như đã được sắp đặt trước. Vì đã được cân đo và đánh giá theo những tiêu chuẩn bất biến. Ngược lại, trò sẽ chỉ tìm kiếm chân lý trong những đối tượng có thể quan sát được. Với trò, sẽ không có những Chân, Thiện tự thân. Quan sát và kinh nghiệm là những dấu mốc chắc chắn nhất để đưa dẫn tới chân lý trong chính trị và đạo lý.
Thầy và trò đều đi tìm những tuyệt đối trong mọi lãnh vực. Nhưng thầy đi theo ngã của những yếu tố siêu hình, không cần kinh qua kinh nghiệm. Trò, về phần mình, đã chọn một lộ trình ngược lại với thầy, dừng bước trước biên cương của siêu hình và chịu sự dẫn đạo của quan sát và kinh nghiệm.
Cả hai cuộc hành trình tuy trái ngược nhau nhưng đã hợp lực để lưu lại cho hậu thế những bài học về sự nghiệp xây dựng văn minh tiến bộ cho loài người. Và đó là một đóng góp vô giá của Aristote cho di sản tinh thần Hy Lạp.
Nguồn : http://www.vietthuc.org/81925/