Tại sao kinh tế TC không bị khủng hoảng?
Liên tục trong suốt 30 năm có rất nhiều dự đoán kinh tế Trung Quốc sẽ sụp, gần đây nhất vào năm 2015-16 khi Hoa Lục ồ ạt chảy máu ngoại tệ trong khi tổng số nợ quốc gia tăng nhanh chóng mặt. Nhưng đến 2017 mức tăng trưởng trở lại 6.7% cho dù độ đáng tin của thống kê rất kém. Nhiều người cho rằng Tập Cận Bình tạm ổn định thị trường cho đến hết kỳ Đại hội Đảng rồi sau đó… tính sổ. Núi nợ vẫn là nguy cơ tiềm ẩn lâu dài nhưng nền kinh tế Hoa Lục đã không hạ cánh cứng (hard landing) theo tiên liệu. Câu hỏi đặt ra là tại sao nhiều chuyên gia Tây Phương đã liên tục đánh giá sai lầm về kinh tế Trung Quốc?
Dĩ nhiên nếu bói theo kiểu “ông sẽ chết” lúc nào cũng đúng vì nền kinh tế nào cũng vận hành theo những quy luật nhất định như lên rồi phải xuống (what goes up must come down) hay có vay có trả. Nhưng trái với các định đề trong vật lý, kinh tế là bộ môn khoa học xã hội nên không chính xác và bị tác động bởi chính sách nhà nước (policy) và tâm lý con người (behavioural economics). Sai lầm của những chuyên viên nơi áp dụng cách nhìn chủ quan theo mô hình kinh tế tự do Tây Phương vào nền kinh tế chỉ huy của Hoa Lục.
Âu-Mỹ bị khủng hoảng khi mắt xít yếu nhất (the weakest link) bị đứt, trái lại Trung Quốc chỉ lâm nguy vào lúc mắt xít cứng nhất (the strongest link) lung lay – tức là Đảng Cộng sản mất khả năng kiểm soát. Thí dụ Hoa Kỳ năm 2008 rơi vào Đại suy trầm sau khi Ngân hàng Lehman Brothers yếu nhất trong Top 10 bị phá sản tạo ảnh hưởng dây chuyền đến Citigroup, Merryl Lynch… Khu vực đồng Euro năm 2010 bắt đầu suy sụp do nợ xấu tại nước nhỏ Hy Lạp bị phanh phui rồi từ đó lây lan đến Tây Ban Nha, Ý… Trái lại ở Trung Quốc khi một ngân hàng yếu kém bị lâm nguy thì Đảng Cộng sản hạ lệnh sát nhập vào ngân hàng mạnh, tâm lý hốt hoảng không xảy ra ngày nào thị trường còn tin rằng nhà cầm quyền có đủ khả năng như nhà cái còn bảo đảm được cho nhà con.
Nói cho công bằng không riêng gì tại Trung Quốc mà ngay các chính quyền Tây Phương đều can thiệp ồ ạt để cứu vãn nền kinh tế khi khẩn cấp. Năm 2008 Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ(1) mua nợ địa ốc nhằm tái cấp vốn cho các ngân hàng tư nhân(2) dàn xếp cho ngân hàng mạnh mua lại Lehman Brothers (nhưng không thành)(3) liên tục tung ra nhiều gói kích cầu khổng lồ. Tại Âu Châu IMF đã nhiều lần làm trung gian cho các chủ nợ kéo dài thời hạn trả nợ của các nước Nam Âu, trong khi Ngân hàng Trung ương Âu cắt giảm lãi xuất đến mức âm để thúc đẩy đầu tư và tiêu thụ. Nhưng mục tiêu của các chính quyền phương Tây để ổn định thị trường trong khi tại Trung Quốc nhằm bảo vệ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Nói cách khác, kinh tế Âu-Mỹ suy sụp dẫn đến xáo trộn chính trị khiến nhiều đảng cầm quyền bị thay đổi, nhưng đối với Đảng Cộng sản Trung Quốc vai trò lãnh đạo bị lung lay là việc không thể chấp nhận được.
Chuyện đời có vay có trả nên ngay cả Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng không thể thoái nợ mãi mãi được. Dù vậy, nói theo kiểu bình dân nợ kiếp này không trả hết xin để lại kiếp sau nên khả năng của nhà cầm quyền có thể kéo dài tiến trình này rất lâu như Liên bang Xô Viết mãi đến 70 năm mới sụp. Nền kinh tế Trung Quốc lại rất năng động chớ không trì trệ cho thấy Bắc Kinh nghiên cứu rất kỷ các kinh nghiệm Nga, Nhật và Mỹ để đẩy lùi ngày bị tính sổ (reckoning day).
Bài học thứ nhất từ Nga là không thể cởi trói chính trị và kinh tế cùng một lúc. Bắc Kinh tin rằng chỉ có Đảng Cộng sản mới mang lại ổn định chính trị và xã hội để tạo điều kiện cho thị trường tự do phát huy năng lực cạnh tranh theo những mục tiêu phát triển mà nhà nước đã đề ra. Cho dù vẫn không ai giải thích được kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là cái gì và chủ trương nói trên chứa đầy mâu thuẫn trong lý luận nhưng thực tế đã giúp Hoa Lục không bị tan rã thành nhiều mảnh như Liên bang Xô Viết trước đây, đồng thời mang đến bước nhảy vọt kinh tế thần kỳ, sự ra đời của nhiều doanh nghiệp mũi nhọn có tính cạnh tranh quốc tế và giúp 1.5 tỷ người Hoa sống đổi đời. Tuy đi đôi với sự tha hóa cùng cực của đảng viên, tham nhũng lan tràn, môi trường bị hủy hoại và khoảng cách giàu nghèo tột bực nhưng đối với Đảng Cộng sản ngay cả những chướng ngại này sẽ không cản trở được tiến trình công nghiệp hóa đưa nước Trung Hoa tiến lên hàng nhất nhì thế giới – và lo tiến lên hạng nhất trước rồi chuyện đâu còn có đó để tính sau!
Nhiều người đã so sánh Trung Quốc với Nhật vào thập niên 70-80 vì sau đó Nhật sa lầy suốt 30 năm dài sau khi bong bóng địa ốc bị vỡ, nợ nần chồng chất và vì tình trạng lão hóa. Bài toán khó cho Bắc Kinh là phải giảm dần mức độ lệ thuộc vào nợ nhưng vẫn duy trì tăng trưởng, không tạo ra thất nghiệp và thị trường địa ốc hạ cánh mềm (soft landing). Lợi tức đầu người tại Nhật vào cuối thập niên 80 gần bằng với Hoa Kỳ trong khi lợi tức đầu người ở Trung Quốc hiện chỉ bằng ¼ của Mỹ. Đối với Bắc Kinh thì đây là lợi thế vì Trung Quốc còn tiềm năng tăng trưởng rất mạnh để giải quyết được bài toán nợ và tình trạng lão hóa. Nói cách khác hiện chỉ có 30% người Hoa ở vùng ven biển là có mức sống cao gần bằng Tây Phương, tức là còn 70% dân chúng hay 1 tỷ người sống trong nội địa sẵn sàng nhận mọi loại công việc với đồng lương cực thấp. Nếu Đảng Cộng sản kiểm soát không để cho tâm lý bất mãn nổ bùng thành bất ổn xã hội thì năng suất lao động của con số 70% rất dễ được cải thiện nhằm tiếp tục thúc đẩy kinh tế tăng trưởng, giải quyết nợ nần, lấp đầy các thành phố chết không người ở, và nâng giá trị gia tăng hàng hoá bù đắp cho tình trạng lão hóa. Tập Cận Bình không đưa ra một chiến lược toàn diện (grand strategy) nhưng ông tự tin có đủ những chìa khóa (tuning knobs) để giải quyết dần dần bài toán vô cùng phức tạp này một khi quyền hành đã tập trung để bảo đảm ổn định chính trị.
Cuối cùng so với Hoa Kỳ thì tổng số nợ của mỗi nước đều chiếm khoảng 300% GDP. Cả hai nền kinh tế lớn nhất thế giới đều nghiện nợ (addiction to debt) nhưng tăng trưởng tại Hoa Lục từ 5-7% so với Mỹ chỉ 2-3%, tức là Trung Quốc có khả năng trả nợ nhanh hơn. Hai nước đều rơi vào tình trạng phát triển không đồng đều giữa hai khu vực ven biển và trong nội địa, nhưng tại Hoa Kỳ tâm lý bất mãn nổ bùng dẫn đến hỗn loạn chính trị còn ở Trung Quốc vị thế của Tập Cận Bình vững hơn bao giờ hết. Tam quyền phân lập của Mỹ khiến Hành pháp, Lập pháp bị tê liệt, Tư pháp rơi vào những kiện tụng triền miên không bao giờ chấm dứt trong khi nền dân chủ tập trung ở Hoa Lục tạo được chính danh nhờ vào lèo lái đất nước hữu hiệu. Nước nào cũng đầy dẫy các vấn đền nan giải nhưng đa số dân Mỹ không lạc quan cho tương lai vì cảm thấy đất nước đi lệch hướng, còn người Hoa dù bất mãn nhưng tin rằng Trung Quốc qua mặt Hoa Kỳ không còn là chuyện bánh vẽ.
Cho dù kinh tế Hoa Lục có sẽ chiếm 25% hay 40% GDP thế giới không quan trọng bằng việc Trung Quốc qua mặt Mỹ vì đây sẽ là lần đầu tiên kể từ ngày nền dân chủ tự do (liberal democracy) ra đời cho thấy chủ thuyết này không phải là điều kiện tất yếu cho kinh tế phát triển. Cho dù lợi tức mỗi đầu người Hoa chỉ ¼ hay ngang bằng với Tây Phương cũng không quan trọng bằng ảnh hưởng lên kinh tế toàn cầu, giờ đây mới đứng hạng nhì mà đã khiến thế giới nghiêng ngả chớ nói gì đến khi họ lên hàng thứ nhất.
Người viết không tuyên truyền cổ võ cho mô hình Trung Quốc vì khoảng cách giữa dân chủ tập trung và độc tài toàn trị rất mong manh do không có hệ thống kiểm soát. Tuy nhiên để phê bình về Trung Quốc cần có những phân tích sâu sắc hơn là mô hình cổ điển theo lối Tây Phương hiện giờ cho phép.
Các chế độ độc tài bị sụp đổ phần lớn do lãnh đạo bị nịnh thần che mắt. Nay chính Đảng Cộng sản cũng không tin vào con số phát triển 6.7% của họ, nhưng ông Tập mỗi buổi sáng chỉ cần lên mạng đọc báo New York Times (ông Tập từng du học ở Mỹ nên chắc tiếng Anh khá giỏi) cũng đủ thấy những nan đề trong xã hội Trung Quốc. Ông Tập có thể lo âu mất ngủ nhưng xét lại những lá chủ bài trong tay Bắc Kinh hiện sáng sủa hơn Âu-Mỹ rất nhiều, nên chúng ta phải hy vọng ông Tập lại sẽ… tự sướng ngủ quên.
Đoàn Hưng Quốc
* Bài trích đăng chỉ nhằm mục đích thông tin. Nội dung bài viết không nhứt thiết phản ảnh quan điểm của Website. BBT