Graham Allison, Foreign Affairs * Yên Tánh (Danlambao) dịch – Khi người Mỹ thức tỉnh bởi sự trỗi dậy của Trung Quốc, đối thủ của Hoa Kỳ trong mọi lãnh vực, nhiều người tìm xoa dịu với tin tưởng rằng khi Trung Quốc phát triển giàu mạnh hơn, họ sẽ theo con đường trước kia của Đức, Nhật và các nước khác là tiến hành một cuộc biến đổi sâu rộng và xuất hiện như một trong những nền dân chủ tự do tân tiến. Với cách nhìn như vậy, sự toàn cầu hoá kỳ diệu, sự khuyến khích tiêu thụ dựa vào thị trường và sự hội nhập vào một trật tự quốc tế dựa trên pháp luật cuối cùng sẽ dẫn Trung Quốc đến chỗ trở nên dân chủ ở trong nước và phát triển thành cái mà cựu Phó Bộ Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ Robert Zoellick đã có lần mô tả là “một thành viên có trách nhiệm” ở ngoài nước.
Samuel Huntington không đồng ý. Trong bài viết của ông ‘Sự Xung Đột Giữa Các Nền Văn Minh’, đăng trên tạp chí Foreign Affairs năm 1993, nhà khoa học chính trị lập luận rằng còn rất xa cho việc hòa nhập vào trật tự của thế giới tự do, các mâu thuẫn văn hóa sẽ quyết định cục diện thế giới sau chiến tranh lạnh. Lập luận của Huntington được nhớ lại ngày hôm nay chủ yếu là vì nó đoán trước được sự chuyên chú của quần chúng vào vấn đề chia cách giữa “văn minh Tây phương và Hồi giáo”, một sự rạn nứt được phô bày sống động nhất bằng các cuộc tấn công 11 tháng 9 và sau đó. Huntington đã nhìn thấy cái vực sâu văn hóa cách biệt giữa phương Tây do Mỹ dẫn đầu và Trung Quốc thật thăm thẳm, lâu dài và đầy hệ lụy. Như ông đã đưa ra, “Chính cái nhận định rằng có một loại văn minh hoàn vũ, một ý tưởng của phương Tây, mâu thuẫn trực tiếp với tính cách đặc thù riêng biệt của phần lớn các xã hội Á châu mà sự chú trọng của những xã hội này vào tính cách đặc thù ấy làm cho họ khác biệt hẳn nhau”.
Năm tháng trôi qua đã củng cố cho nhận định của Huntington. Các thập niên tới chỉ sẽ củng cố thêm điều này. Hoa Kỳ là hiện thân cái mà Huntington cho là văn minh Tây phương. Các căng thẳng giữa Mỹ và Trung Quốc về các giá trị, truyền thống, triết lý sẽ làm căng thẳng thêm nhiều các cấu trúc nền tảng, xảy ra khi nào một cường quốc đang lên, như là Trung Quốc, đe dọa vị trí của một đương kim cường quốc, như Hoa Kỳ chẳng hạn.
Nguyên nhân cho loại chuyển đổi thường dẫn đến xung đột là cái bẫy Thucydidean, được đặt theo tên của một nhà sử học cổ Hy Lạp, ông quan sát thấy có mối tác động nguy hiểm giữa Athens đang lên và Sparta cầm quyền. Theo Thucydides, “Do sự trỗi dậy của Athens và nỗi lo nó sẽ dần dần ảnh hưởng đến Sparta đã làm cho chiến tranh trở thành điều không thể tránh khỏi. Có thể hiểu được là các cường quốc đang lên thường có cảm giác ngày một tăng về quyền hạn, đòi hỏi nhiều ảnh hưởng và tôn trọng hơn. Các cường quốc hiện hữu, đối mặt với thách thức của các cường quốc mới, có khuynh hướng trở nên lo sợ, bất an và tự vệ. Trong một môi trường như vậy, các sự hiểu lầm sẽ bị khuếch đại, sự cảm thông sẽ tan biến dần và các sự kiện cùng hành động của một đệ tam nhân lúc bình thường không gây hệ lụy hay có thể dàn xếp được thì nay trở thành ngòi nổ của một cuộc chiến tranh mà các nhân vật chính không bao giờ muốn can dự vào.
Trong trường hợp của Hoa Kỳ và Trung Quốc, sự rủi ro kiểu Thucydidean bị tăng thêm bởi sự tương khắc về văn hoá giữa hai nước, điều đó làm xấu đi sự ganh đua và khiến cho một hòa giải khó thực hiện được. Sự không giống nhau này dễ nhận thấy nhất ở dị biệt sâu xa Mỹ-Hoa trong quan niệm về nhà nước, kinh tế, vai trò cá nhân, quan hệ quốc tế và bản chất của thời gian.
Người Mỹ xem chính quyền như một điều xấu cần thiết và tin rằng khuynh hướng chính quyền trở nên độc tài và lạm dụng quyền hành là điều đáng lo ngại và phải bị kềm chế. Đối với Trung Quốc, chính quyền là một điều tốt cần thiết, là trụ cột căn bản bảo đảm trật tự, ngăn ngừa hỗn loạn. Trong nền kinh tế thị trường tự do tư bản chủ nghĩa, chính quyền thiết lập và thực thi luật lệ. Sở hữu nhà nước và sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế đôi khi xảy ra nhưng đó là những ngoại lệ không mong muốn. Trong nền kinh tế thị trường lãnh đạo bởi nhà nước Trung Quốc, chính quyền đặt ra chỉ tiêu phát triển, chọn và hỗ trợ các ngành công nghiệp để chúng phát triển, thăng thưởng các kiện tướng quốc gia, tiến hành các dự án kinh tế dài hạn quan trọng để thực thi các điều quan tâm của quốc gia.
Nền văn hóa Trung Quốc không tôn vinh chủ nghĩa cá nhân kiểu Mỹ, mà trong đó đánh giá xã hội bằng cách xem nó thực hiện tốt như thế nào việc bảo vệ quyền lợi và nuôi dưỡng tự do cá nhân. Thực tế, trong tiếng Hoa, chữ ‘cá nhân chủ nghĩa’-gerenzhuyi- có nghĩa như là một quan tâm ích kỷ về mình hơn là đối với cộng đồng. Thành ngữ Hoa tương ứng với thành ngữ Mỹ “Cho tôi tự do hoặc cho tôi cái chết” sẽ là “Cho tôi sự hài hòa tập thể hoặc cho tôi cái chết”. Đối với Trung Quốc, trật tự có giá trị cao nhất và sự hài hòa là kết quả của hệ thống giai tầng trong đó các thành viên tuân theo huấn lệnh đầu tiên của Khổng Tử: Biết vị trí của mình.
Quan điểm đó áp dụng không những cho xã hội trong nước mà còn cho các mối quan hệ toàn cầu, trong đó Trung Quốc cho rằng vị trí đúng đắn của nó là cái đỉnh của kim tự tháp, còn các quốc gia khác sắp xếp thành những nhánh phụ thuộc. Quan điểm của Mỹ có phần khác hơn. Từ khi ít nhất là sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, Washington đã tìm cách ngăn ngừa sự xuất hiện của một “đối thủ ngang hàng” có thể thách thức sự thống lĩnh quân sự của Mỹ. Ngoài ra, nhận thức thời hậu chiến của Mỹ về trật tự quốc tế còn nhấn mạnh sự cần thiết của một hệ thống toàn cầu dựa trên luật lệ để kềm chế các nước ngay cả Hoa Kỳ.
Sau cùng, người Mỹ và người Hoa nghĩ về thời gian và cảm nhận về sự đi qua của nó một cách khác nhau. Người Mỹ có khuynh hướng chuyên chú vào hiện tại và thường tính thời gian bằng giờ, bằng ngày. Người Hoa, ngược lại có đầu óc quan tâm hơn đến lịch sử và thường suy nghĩ theo cách nhiều thập niên và ngay cả hàng thế kỷ.
Dĩ nhiên, những điều trên là những tóm lược được tổng quát hóa vì sự cần thiết phải rút gọn và không hoàn toàn phản ảnh những điều phức tạp của xã hội Mỹ và Trung Quốc. Tuy nhiên, chúng cũng cung cấp những điều quan trọng mà các nhà làm luật Hoa Kỳ và Trung Quốc nên luôn ghi nhớ trong đầu những khi tìm cách dàn xếp các cuộc đối đầu khỏi nguy cơ chiến tranh.
Chúng tôi là số một
Sự khác biệt văn hóa giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc càng trầm trọng bởi nét dễ thấy ở cả hai nước: sự phức tạp về tính thượng đẳng tuyệt đối. Mỗi nước tự xem mình là ngoại hạng, không nước nào bằng. Nhưng chỉ có thể có một nhất hạng mà thôi. Lý Quang Diệu, cựu thủ tướng Singapore, đã từng nghi ngại khả năng Hoa Kỳ thích nghi với sự trỗi dậy của Trung Quốc: “Việc Hoa Kỳ bị soán chỗ, không phải trên thế giới mà chỉ ở Tây Thái Bình Dương, bởi một dân tộc Á châu từ lâu bị khinh thường và không được màng đến bởi sự khinh bỉ về sự lụn bại, yếu kém, tham nhũng và bất lực là một điều thật khó khăn về mặt cảm xúc để chấp nhận”, ông đã phát biểu trong một cuộc phỏng vấn vào năm 1999, “Cảm nhận về văn hóa thượng đẳng của người Mỹ sẽ làm cho họ khó chấp nhận chuyển đổi này”.
Trong vài cách thức, chủ nghĩa ngoại hạng của Trung Quốc có tầm ảnh hưởng sâu rộng hơn so với đối thủ Hoa Kỳ. “Đế quốc Trung Hoa xem nó là trung tâm của vũ trụ văn minh”, nhà sử học Harry Gelber đã viết trong cuốn sách của ông năm 2001 mang tên Các Quốc Gia Bắt Nguồn Từ Các Đế Quốc. Trong thời đế chế, “hàng thư lại Trung Hoa tư duy về một Trung Hoa hay nền văn minh Trung Hoa không giống một chút nào so với cảm nhận đương đại. Theo ông, chỉ có dân tộc Hán và ngoài ra, chỉ có bọn mọi rợ. Bất cứ gì không văn minh bị xếp là mọi rợ.
Cho đến nay, Trung Quốc có niềm hãnh diện lớn lao về các thành tựu văn minh của mình. “Quốc gia chúng tôi là một quốc gia vĩ đại”, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tuyên bố trong một diễn văn năm 2012. “Trong tiến trình văn minh và phát triển hơn 5.000 năm, Trung Quốc đã góp phần không thể phủ nhận vào nền văn minh và sự thăng tiến của loài người”. Thật vậy, Tập đã tuyên bố trong một cuốn sách của ông nhan đề ‘Điều Hành Trung Quốc’ rằng “Nền văn minh tiếp diễn của Trung Hoa không giống như bất cứ thứ gì khác trên trái đất, mà là một thành tựu độc đáo trong lịch sử thế giới”.
Người Mỹ cũng tự xem mình là tiền phong của văn minh, đặc biệt là sự phát triển về mặt chính trị. Niềm đam mê tự do lên ngôi trong văn bản cốt lõi của niềm tin chính trị Mỹ, Bản Tuyên Ngôn Độc Lập đã công bố “tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng” và họ được “ban cho bởi Tạo Hóa một số quyền không thể tước bỏ”. Bản tuyên ngôn chi tiết hóa các quyền bao gồm “Sống, Tự Do và mưu cầu Hạnh Phúc” và đoan chắc rằng những quyền đó không là đề tài để tranh luận mà là chân lý. Như nhà sử gia Mỹ Richard Hofstadter đã viết “Số phận của đất nước chúng ta là không có những ý thức hệ mà là trở thành một ý thức hệ”. Trái lại, trật tự là giá trị chính trị trọng tâm của Trung Quốc và trật tự là kết quả của hệ thống giai tầng. Tự do cá nhân, như kiểu người Mỹ hiểu, làm sứt mẻ hệ thống giai tầng, theo quan điểm Trung Quốc là mời gọi hỗn loạn.
Làm như ta bảo và như ta làm
Những dị biệt triết lý trên được biểu đạt qua quan điểm của mỗi nước về chính quyền. Mặc dầu được sinh động hóa bởi sự bất tín sâu xa đối với giới cầm quyền, những nhà sáng lập Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ nhận biết rằng xã hội đòi hỏi chính quyền. Nếu không, ai sẽ là người bảo vệ công dân khỏi hiểm họa từ bên ngoài hay các vi phạm quyền lợi của họ bởi các tội phạm từ bên trong nước? Tuy nhiên họ phải vật lộn với một nghịch lý: một chính quyền đủ mạnh để thực hiện các nhiệm vụ thiết yếu, có thể hướng về bạo quyền. Để giải quyết thách thức này, họ thiết kế một chính quyền gồm “nhiều cơ chế riêng biệt chia sẻ quyền lực”, như nhà sử gia Richard Neustadt mô tả nó. Điều này cố tình tạo ra đấu tranh thường xuyên giữa các ngành hành pháp, lập pháp và tư pháp, dẫn đến trễ nải, ngưng trệ và ngay cả rối loạn. Tuy nhiên nó giúp cho việc kiểm tra và cân bằng đối với sự lạm quyền.
Quan điểm của Trung Quốc về chính quyền và vai trò của nó trong xã hội khác biệt hơn một cách mạnh mẽ. Như họ Lý đã quan sát thấy, “Các tài liệu lịch sử và văn hóa của nước này cho thấy khi nào có một trung ương hùng mạnh (Bắc Kinh hay Nam Kinh), đất nước thanh bình và thịnh vượng. Khi trung ương yếu kém, các tỉnh huyện bị các lãnh chúa nắm giữ. Như thế, loại chính quyền tập trung mạnh mà người Mỹ chống đối, lại tiêu biểu đối với Trung Hoa là nhân tố chính cho việc thăng tiến trật tự và ích lợi công chúng trong và ngoài nước.
Đối với người Mỹ, dân chủ là dạng thức chính quyền duy nhất đúng đắn: Các nhà cầm quyền có được chính danh từ đồng thuận của người dân. Đó không phải là cái nhìn chủ đạo ở Trung Hoa, nơi mà thông thường người ta tin rằng chính quyền đạt được hoặc đánh mất chính danh về chính trị tùy thuộc vào thành tích của nó. Trong một chương trình gây tranh cãi TED Talk phát năm 2013, nhà tư bản đầu tư Eric Li đã thách thức sư ưu việt giả định của dân chủ. “Tôi đã được hỏi một lần rằng Đảng đã không được chọn bằng bầu cử. Vậy đâu là tính chính danh?” Ông ta nhớ lại, “Tôi nói, thế thì khả năng thì sao? Ông tiếp tục nhắc nhở cử tọa rằng vào năm 1949, khi Đảng Cộng Sản Trung Quốc nắm quyền, “Trung Hoa ngập ngụa trong nội chiến, bị phân chia bởi xâm lược từ ngoại bang, tuổi thọ trung bình lúc ấy là 41 tuổi. Ngày hôm nay, Trung Hoa là nước có nền kinh tế lớn thứ hai toàn cầu, là một đầu tàu kỹ nghệ và dân chúng sống trong nền thịnh vượng ngày càng tăng”.
Hoa Thịnh Đốn và Bắc Kinh còn có những phương cách khác biệt hẳn nhau để cổ súy các giá trị chính trị nền tảng của họ trên trường quốc tế. Người Mỹ tin rằng nhân quyền và dân chủ là sự khát khao thủ đắc mang tính hoàn vũ, chỉ đòi hỏi khuôn mẫu Hoa Kỳ (và đôi khi gần với tân đế quốc) để thực hiện ở mọi nơi. Hoa Kỳ, theo như Huntington đã viết trong cuốn sách nhan đề “Sự Đụng Độ Giữa Những Nền Văn Minh”, là “một đất nước truyền giảng” được điều khiển bởi niềm tin “Các dân tộc không Tây phương nên tự thực hành những giá trị Tây phương…và nên hiện thân hóa những giá trị này trong các tổ chức của họ”. Đa số người Mỹ tin rằng các quyền dân chủ sẽ mang lợi ích cho bất kỳ ai, bất kỳ nơi nào trên thế giới.
Qua nhiều thập niên, Hoa Thịnh Đốn đã theo đuổi các chính sách đối ngoại nhằm thăng tiến mầm mống dân chủ ngay cả trong những trường hợp tìm cách áp đặt nó nơi những ai đã thất bại trong việc tự họ nồng nhiệt đón nhận dân chủ. Ngược lại, Trung Quốc tin rằng người khác có thể theo gương họ, thán phục đức hạnh của họ và ngay cả tìm cách bắt chước cung cách của họ, Các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã không thực hiện hoán cải nhân danh phương thức của họ. Như nhà ngoại giao Mỹ Henry Kissinger đã ghi nhận rằng đế quốc Trung Hoa “đã không xuất khẩu các tư tưởng của họ mà để cho người ngoài đến tìm chúng”. Và không có gì ngạc nhiên, các nhà lãnh đạo đã có sự ngờ vực sâu xa về nỗ lực của Hoa Kỳ nhằm hoán cải họ theo niềm tin Hoa Kỳ. Trong những năm cuối 1980, Đặng Tiểu Bình, lãnh đạo Trung Quốc từ 1978 đến 1989 và bắt đầu quá trình tự do hóa nền kinh tế của đất nước, than phiền với một chức sắc đến thăm rằng Tây phương nói đến nhân quyền, tự do và dân chủ chỉ để bảo vệ quyền lợi của các nước giàu mạnh mà các nước này lợi dụng sức mạnh của họ để gây khó dễ cho các nước nhỏ, theo đuổi sự bá quyền và thực hành chính trị của kẻ mạnh.
Tư duy nhanh và chậm
Cảm nhận của Hoa Kỳ và Trung Quốc về quá khứ, hiện tại và tương lai khác biệt nhau một cách cơ bản. Người Mỹ hãnh diện ăn mừng đất nước được 241 tuổi vào tháng Bảy 2017, còn người Hoa thích đề cập lịch sử 5.000 năm của họ. Các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ thường nhắc đến “kinh nghiệm Mỹ” và các chính sách đôi khi tùy thời của họ phản ảnh thái độ đó. Trung Quốc, ngược lại, xem mình như một bộ phận của vũ trụ: nó đã luôn như thế và sẽ luôn như thế.
Do cảm nhận về thời gian trải rộng của họ, các nhà lãnh đạo Trung Quốc cẩn thận phân biệt nhất thời và lâu dài, cấp bách và quan trọng. Thật khó tưởng tượng rằng các nhà lãnh đạo chính trị Hoa Kỳ đề nghị một vấn đề lớn về đối ngoại, được đặt trên cái giá chứa đựng châm ngôn cho một thế hệ. Tuy nhiên, điều đó trở nên đúng cho việc Đặng đã làm năm 1979, khi ông dẫn đầu phái đoàn Trung Quốc thương thuyết với Nhật Bản về tranh chấp quần đảo Điếu Ngư/Senkaku và chấp nhận một giải pháp lâu dài mà không phải tức khắc.
Nhạy cảm hơn bao giờ đối với các đòi hỏi của giới báo chí và dư luận quần chúng, các chính trị gia Mỹ sử dụng Twitter hoặc thông báo các chính sách êm tai, đi vào từng điểm một, hứa hẹn giải pháp nhanh chóng. Đối lại, lãnh đạo Trung Quốc có chiến lược kiên nhẫn: chừng nào các xu hướng tiến triển còn thuận lợi cho họ thì họ vẫn thoải mái đợi chờ kết cục. Người Mỹ cho họ là những người giải quyết vấn đề. Điều phản ảnh chủ nghĩa đoản kỳ của họ là họ xem các vấn đề là những chuyện riêng biệt cần được xem xét ngay bây giờ để họ có thể tiếp tục với những chuyện sắp tới. Nhà văn và sử gia Mỹ Gore Vidal đã có lần gọi đất nước của ông là “Hiệp Chủng Quốc Lãng Quên”, nơi mà mọi ý kiến đều là sáng kiến và mọi khủng hoảng đều là chưa từng thấy. Điều này trái ngược rõ ràng với ký ức đậm chất lịch sử và truyền thống của Trung Quốc cho rằng không có gì là mới dưới ánh mặt trời.
Quả vậy, lãnh đạo Trung Quốc có khuynh hướng tin rằng nhiều vấn đề không thể giải quyết được mà chỉ có thể xoay sở. Họ thấy thách thức có tính dài hạn và lập lại, vấn đề họ đối diện ngày hôm nay là kết quả của những quá trình diễn biến qua những năm, thập niên hay hàng thập kỷ về trước. Việc thực hiện chính sách ngày nay sẽ đơn giản là đóng góp vào sự tiến hóa đó. Chẳng hạn, từ năm 1949, Đài Loan đã được sự lãnh đạo của nhóm người mà Bắc Kinh coi là những nhà quốc gia chủ nghĩa xấu xa. Mặc dầu các nhà lãnh đạo Trung Quốc luôn cho Đài Loan là một phần lãnh thổ toàn vẹn của Trung Hoa, họ đã theo đuổi một chiến lược lâu dài liên quan đến việc thắt chặt các giềng mối liên hệ kinh tế và xã hội để từ từ hút hòn đảo này trở về cố quốc.
Ai làm chủ?
Sự đụng độ văn hóa sẽ làm khó khăn hơn cho Hoa Thịnh Đốn và Bắc Kinh thoát khỏi cái bẫy Thucydides hình thành bởi hai quan niệm về trật tự thế giới. Sự đối xử của Trung Quốc đối với người dân của chính họ tạo nên kịch bản cho các quan hệ của họ đối với các nước láng giềng yếu hơn. Đảng Cộng Sản Trung Quốc duy trì trật tự bằng cách buộc tuân thủ một hệ thống quyền lực trong đó người dân phải vâng lời và làm theo. Cung cách Trung Quốc đối với quốc tế phản ảnh niềm mong đợi tương tự: trong một khoảnh khắc ngoài lề cuộc họp của Hiệp Hội các Quốc Gia Đông Nam Á năm 2010, Bộ Trưởng Ngoại Giao Trung Quốc lúc bấy giờ là Dương Khiết Trì đã trả lời các than phiền về việc Trung Quốc quá quyết đoán ở Biển Đông bằng cách nói với các đối tác trong khu vực của họ và Bộ Trưởng Ngoại Giao Mỹ Hillary Clinton rằng: “Trung Quốc là một nước lớn và các nước khác là những nước nhỏ, đó là thực tế”.
Trái lại, các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ mong ước về một qui tắc luật quốc tế mà cốt lõi là qui tắc luật của Mỹ viết rộng ra hơn. Đồng thời, họ cũng nhận biết hiện thực của quyền lực toàn cầu kiểu rừng xanh, trong đó làm sư tử tốt hơn là cừu. Hoa Thịnh Đốn thường cố gắng hòa giải căng thẳng này bằng cách diễn đạt một thế giới trong đó Hoa Kỳ là một bá quyền có ích, hành xử như nhà làm luật, cảnh sát, quan toà và bồi thẩm của thế giới.
Hoa Thịnh Đốn thúc giục các cường quốc khác chấp nhận một trật tự quốc tế dựa trên luật lệ mà Mỹ sẽ chủ trì. Nhưng dưới con mắt Trung Quốc, có vẻ như người Mỹ tạo luật lệ còn người khác vâng theo mệnh lệnh của Hoa Thịnh Đốn. Tướng Martin Dempsey, cựu Tổng Tư Lệnh Quân Đội Hoa Kỳ, trở nên quen thuộc với sự phẫn nộ có thể đoán trước của Trung Quốc. “Một trong những điều lôi cuốn tôi về Trung Quốc là bất cứ lúc nào có cuộc đối thoại với họ về những chuẩn mực hoặc luật lệ quốc tế, sẽ không tránh khỏi việc họ chỉ ra rằng những luật lệ đó được tạo ra khi họ vắng mặt trên trường quốc tê”, Demsey nay đưa ra nhận định này khi tạp chí Foreign Affairs phỏng vấn ông năm ngoái.
Bạn có thể đi con đường của mình
Hoa Kỳ đã là siêu cường số một của thế giới trong 3 thập niên liền. Trong thời gian đó, ảnh hưởng to lớn của Hoa Thịnh Đốn lên trên các vấn đề thế giới đã làm cho nó thành thiết yếu cho các thành phầu ưu tú và lãnh đạo của các nước khác để hiểu nền văn hóa Mỹ và các phương pháp chiến lược của họ. Về phía Mỹ, họ cảm thấy rằng họ có cái xa xỉ là không cần phải suy nghĩ nhiều về quan điểm về thế giới của các dân tộc khác, sự thiếu quan tâm này được khuyến khích bởi niềm tin của tầng lớp tinh hoa Mỹ là phần còn lại cuả thế giới vẫn còn chậm chạp nhưng dẫu sao đi nữa chắc chắn sẽ trở nên giống Mỹ.
Tuy nhiên, những năm gần đây, sự trỗi dậy của Trung Quốc đã thách thức sự thờ ơ này. Các chính sách gia ở Mỹ đang bắt đầu nhận thấy họ cần phải cải thiện sự hiểu biết của mình về Trung Quốc, đặc biệt là tư duy chiến lược của Trung Quốc. Một cách cụ thể, các chính sách gia Mỹ đã bắt đầu thấy những đặc điểm trong cách mà các đối thủ Trung Quốc của họ nghĩ về sử dụng sức mạnh quân sự. Trong việc quyết định có nên, khi nào và như thế nào tấn công các địch thủ, các nhà lãnh đạo Trung Quốc trong đa số trường hợp tỏ ra hợp lý và thực tiễn. Tuy nhiên, với những chuyện khác, các chính sách và phân tích gia Mỹ định danh được năm điều ngang ngược và lập lờ đưa ra để lý giải cách ứng xử chiến lược thường thấy ở Trung Quốc trong các cuộc đối đầu.
Thứ nhất, trong chiến tranh và hòa bình, chiến lược của Trung Quốc được thúc đẩy bởi sự bành trướng trắng trợn và sự hành xử phi pháp bất chấp lý do chính đáng cần có để biện minh cho hành vi của Trung Quốc chiếu theo luật lệ quốc tế và các qui ước đạo đức ứng xử. Điều này cho phép chính quyền Trung Quốc uyển chuyển hành động một cách lạnh lùng, vì vậy họ cảm thấy ít sự cản trở bởi sự hợp lý cần phải có và được cái quyền to lớn là khỏi bị chỉ trích về tính giảo quyệt của mình. Tỷ dụ như khi Kissinger đến Trung Quốc năm 1971 để bắt đầu các thương thảo bí mật về việc nối lại quan hệ Mỹ-Hoa, ông thấy rằng người nói chuyện với ông tỏ ra không khoan nhượng về ý thức hệ và trắng trợn một cách thô bạo trong việc bảo vệ quyền lợi của Trung Quốc. Trong khi Kissinger và Tổng Thống Mỹ Richard Nixon cảm thấy cần thiết sự biện minh cho thoả hiệp cuối cùng sẽ đạt được để chấm dứt chiến tranh Việt Nam như là “hoà bình trong danh dự”, lãnh đạo Trung Quốc Mao Trạch Đông cảm thấy không cần giả vờ như vậy trong việc thiết lập mối quan hệ với Hoa Kỳ tư bản chủ nghĩa để làm mạnh lên vị thế của Trung Quốc so với Liên Xô, ông ta đã bằng cách nào đó củng cố một phong trào quốc tế xã hội chủ nghĩa to lớn hơn.
Giống như phương thức thực tiễn của Trung Quốc đối với nền chính trị quốc tế tạo cho Trung Quốc có lợi thế hơn Mỹ, Trung Quốc có cái nhìn tổng hợp súc tích về chiến lược toàn cầu. Các nhà hoạch định Trung Quốc thấy rằng mọi thứ được liên kiết với mọi thứ khác. Khi bối cảnh biến đổi, tình trạng chiến lược sẽ xảy ra để quyết định cái mà Trung Quốc gọi là thời (‘shi’). Khái niệm này không có cái tương ứng trực tiếp trong tiếng Anh nhưng có thể hiểu như ‘năng lượng tiềm tàng’ hay ‘đà lực’ liên kết với mọi hoàn cảnh tại một thời điểm nhất định. Nó bao gồm địa lý, phong thổ, cân bằng lực, yếu tố bất ngờ và các thành tố khác. “Mỗi yếu tố có ảnh hưởng đến các yếu tố khác”, như Kissinger đã viết trong cuốn sách của ông năm 2011 “Về Trung Quốc”. Như thế, một chiến lược gia tài tình Trung Quốc dùng phần lớn thì giờ một cách nhẫn nại để “quan sát và nuôi dưỡng các đổi thay trong địa hình chiến lược” và chỉ chuẩn bị hành động khi mọi việc ăn khớp ở mức tuyệt hảo. Kế đó, y sẽ ra đòn một cách khéo léo. Đối với một người quan sát, kết quả sẽ xuất hiện một cách chắc chắn.
Chiến tranh đối với các chiến lược gia Trung Quốc trước nhất mang tính tâm lý và chính trị. Trong cách nghĩ của họ, sự cảm nhận về các sự việc của đối thủ cũng quan trọng như chính bản thân các sự việc đó vậy. Đối với đế quốc Trung Hoa, việc tạo ra và duy trì hình ảnh một nền văn minh thượng đẳng, thể hiện ‘trung tâm của vũ trụ’, có tác dụng ngăn đe làm cho các kẻ thù của mình không dám thách thức ưu thế tuyệt đối của Trung Quốc. Ngày nay, viết về sự trỗi dậy không thể tránh khỏi của Trung Quốc và sự đi xuống không thể đảo ngược của Mỹ đóng một vai trò tương tự.
Theo truyền thống, Trung Quốc đạt được thắng lợi không ở những trận đánh quyết định mà lần lượt qua nhiều động thái được thiết kế để dần dần nâng cao vị thế của họ. David Lai, một chuyên gia về các vấn đề quân sự Á châu, đã minh họa phương cách này bằng việc so sánh cờ Vua của Tây phương với cờ Vây (weiqi, thường được nhắc đến như là ‘đi’) của Trung Quốc. Với cờ Vua, người chơi tìm cách chế ngự trung tâm bàn cờ và chiến thắng đối thủ. Còn với cờ Tướng thì người chơi tìm cách bao vây đối thủ. Nếu người chơi giỏi cờ Vua nhìn thấy trước năm hay sáu bước thì trong cờ Tướng, người chơi giỏi có thể nhìn thấy hai mươi hoặc ba mươi. Tham dự vào mọi cấp độ trong quan hệ sâu rộng với các địch thủ, các chiến lược gia Trung Quốc không chọn sự vội vàng thiếu già giặn nhằm đạt chiến thắng, mà họ nhắm vào những việc làm tăng dần các ưu thế của họ. “Truyền thống Tây phương nhấn mạnh nhiều vào sử dụng vũ lực, nghệ thuật chiến đấu giới hạn phần lớn ở các chiến trường và cách thức là vũ lực chống lại vũ lực”, Lai viết trong một bài phân tích cho Khoa Chiến Tranh Quân Đội của Học Viện Nghiên Cứu Chiến Lược. Tương phản lại là “triết lý đằng sau ‘đi’… để giành cái lợi tương đối hơn là tìm cách tiêu diệt hoàn toàn các lực lượng của đối phương”. Với một nhắc nhở khôn ngoan, Lai cảnh báo rằng “sẽ là nguy hiểm nếu chơi ‘đi’ bằng cái đầu của cờ Vua.
Chúng ta hãy thỏa thuận
Hoa Thịnh Đốn sẽ không hề gì nếu nghe theo lời cảnh báo đó. Trong những năm sắp tới, bất cứ một điểm nóng nào đều có thể tạo ra khủng hoảng cho quan hệ Mỹ-Hoa, chúng sẽ bao gồm nhiều hơn những tranh cãi về lãnh thổ ở Biển Đông và căng thẳng về chương trình chiến tranh hạt nhân. Bởi vì cần phải chờ đến ít nhất là một hay hai thập niên nữa cho các khả năng quân sự của Trung Quốc hoàn toàn đạt đến mức độ đó ở Mỹ, Trung Quốc sẽ lưu ý và cẩn thận về bất cứ việc sử dụng vũ lực chết người nào để chống lại Mỹ. Bắc Kinh sẽ sử dụng sức mạnh quân sự như công cụ hỗ trợ cho chính sách ngoại giao của họ nhằm tìm kiếm không phải chiến thắng trận mạc mà là thành tựu của các mục tiêu quốc gia. Họ sẽ cương quyết trong đường lối ngoại giao và các quan hệ kinh tế với các nước láng giềng, làm sâu thêm mối phụ thuộc vào Trung Quốc và dùng đòn bẩy kinh tế để khuyến khích (hay bắt buộc) các nước đó cộng tác với mình trong các vấn đề khác. Mặc dầu Trung Quốc theo truyền thống xem chiến tranh như phương tiện cuối cùng nếu họ kết luận rằng các đường hướng lâu dài không còn chuyển dịch theo chiều hướng có lợi và mình đang thua trong cuộc mặc cả quyền lực, họ sẽ có thể khởi đầu một cuộc xung đột vũ trang giới hạn nhằm làm đảo chiều.
Lần sau cùng Hoa Kỳ đối diện với các khủng hoảng kiểu Thucydidean là thời kỳ chiến tranh lạnh, đặc biệt là lúc xảy ra khủng hoảng phi đạn Cuba. Phản ảnh sự khủng hoảng vài tháng sau sự công bố Nghị Quyết, Tổng Thống Mỹ John F. Kennedy đã đưa ra một bài học có giá trị lâu dài: “Trên hết tất cả, trong khi bảo vệ các quyền lợi sống còn của chúng ta, các cường quốc hạt nhân phải đẩy lùi những chạm trán mang đến cho đối thủ một chọn lựa giữa sự rút lui nhục nhã hoặc một chiến tranh hạt nhân”. Mặc cho tài hùng biện đanh thép của Mạc Tư Khoa, Tổng Bí Thư Xô Viết Nikita Khrushchev sau cùng kết thúc rằng ông có thể thỏa hiệp về vấn đề trang bị hạt nhân ở Cuba. Giống như vậy, Kissinger và Nixon sau này khám phá ra rằng ý thức hệ Mao của Trung Quốc rất tinh tường về cách nhượng bộ khi nó phục vụ cho các quyền lợi của Trung Quốc.
Cả họ Tập và Tổng Thống Mỹ Donald Trump đều có những tuyên bố mạnh mẽ, đặc biệt khi bàn đến vấn đề Biển Đông. Nhưng cả hai đều là những thương thuyết gia. Nếu chính phủ Trump càng biết rõ cách Bắc Kinh nhìn về vai trò của Trung Quốc trên thế giới và các quyền lợi cốt lõi của đất nước này, họ càng được chuẩn bị tốt hơn cho việc thương thảo. Vấn đề vẫn là một dự phóng về sự hợp lý của tâm lý: ngay cả các viên chức lành nghề của Bộ Ngoại Giao rất nhiều phen lầm lẫn cho rằng những quyền lợi cốt lõi của Trung Quốc chỉ là phản ảnh những gì của Mỹ. Các viên chức ấy nay đang sử dụng vốn liếng nghề nghiệp của mình để thực hiện phương sách của chính quyền Trump đối với Trung Quốc, có thể là khôn ngoan để đọc triết gia của Trung Quốc cổ đại Tôn Tử: “Nếu ngươi biết kẻ thù và biết mình, ngươi không cần phải sợ kết quả của trăm trận. Nếu ngươi biết mình mà không biết kẻ thù, cho mỗi trận thắng, ngươi sẽ phải chịu một trận thua. Nếu ngươi không biết mình lẫn không biết kẻ thù, ngươi sẽ thua từng trận một”.
9/9/2017