Tin Biển Đông – 23/08/2017
Quan chức Philipines:
Hải quân Trung Quốc theo dõi đảo của Philippines
Trung Quốc gần đây đã điều các tàu hải quân và tàu hải cảnh tới một nhóm những bãi cạn không người sinh sống ở Biển Đông đang tranh chấp giữa lúc có lo ngại rằng Philippines có thể đang xây dựng những cấu trúc trên những bãi cạn này, các quan chức Philippines cho biết hôm thứ Ba. Tuy nhiên, chính phủ nói vấn đề này đã nhanh chóng được giải quyết nhờ mối quan hệ thân thiện giữa hai nước.
Hai quan chức an ninh cao cấp của Philippines nói với hãng tin AP rằng ba tàu hải quân Trung Quốc, một tàu hải cảnh và 10 tàu đánh cá đã bắt đầu theo dõi đảo Sơn Ca vào ngày 12 tháng 8 sau khi một nhóm ngư dân Philippines được nhì thấy trên bãi cạn này. Những ngư dân Philippines cuối cùng rời đi nhưng người Trung Quốc vẫn ở lại.
Hai người này phát biểu trong điều kiện giấu tên và nói rằng chỉ có Bộ Ngoại giao ở Manila mới được phép thảo luận công khai các vấn đề liên quan đến tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc. Tuy nhiên, Bộ Ngoại giao từ chối tiết lộ chi tiết về tình hình tại đảo Sơn Ca.
Một nhà ngoại giao cao cấp của Philippines, người cũng phát biểu với AP trong điều kiện giấu tên vì không được phép thảo luận vấn đề một cách công khai, cho biết Trung Quốc “lo ngại rằng chúng tôi sẽ xây dựng” các cấu trúc trên bãi cạn. Các quan chức Trung Quốc và Philippines đã âm thầm làm việc để giải quyết vấn đề này trong những ngày gần đây, theo nhà ngoại giao này, người có tham trong các cuộc hội đàm.
Tại Bắc Kinh, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc, Hoa Xuân Oánh, không cung cấp thêm chi tiết nào về các hoạt động của Trung Quốc trong khu vực. “Tôi muốn nhấn mạnh rằng Trung Quốc vẫn quyết tâm giải quyết các tranh chấp có liên quan một cách hòa bình thông qua đàm phán và tham vấn với các quốc gia có chủ quyền trực tiếp liên quan,” bà nói.
Mối quan hệ thân thiện hơn nhiều giữa Manila và Bắc Kinh dưới thời Tổng thống Rodrigo Duterte đã cho phép cả hai chính phủ quản lý tranh chấp tốt hơn. Kể từ khi nhậm chức tháng 6 năm ngoái, ông Duterte đã tìm cách tăng cường thương mại và xin viện trợ của Trung Quốc và áp dụng đường lối không đối đầu đối với các tranh chấp lãnh thổ của hai nước.
Cách Trung Quốc xâm lược láng giềng :
Kết ước rồi bội ước
Nhân vụ căng thẳng giữa Trung Quốc và Ấn Độ sau khi Bắc Kinh, vào trung tuần tháng 6 này, cho lính tiến vào cao nguyên Doklam trên lãnh thổ Bhutan để xây đường, một chuyên gia Ấn Độ về quốc phòng, nữ tiến sĩ Namrata Goswami, đã có bài phân tích trên chuyên san Nhật Bản The Diplomat ngày 18/08/2017 về thủ đoạn của Bắc Kinh : Ký kết các « Nguyên tắc chỉ đạo việc duy trì nguyên trạng ở các vùng tranh chấp » để ràng buộc láng giềng, để rồi sau đó phớt lờ thỏa thuận đã ký để ngang nhiên đòi xâm lấn vùng lãnh thổ tranh chấp
Trong bài viết mang tựa đề « Có nên nghiêm túc tin vào ‘lời hứa’ đàm phán về tranh chấp lãnh thổ của Trung Quốc hay không – Can China Be Taken Seriously on its ‘Word’ to Negotiate Disputed Territory? », tác giả đã lần lượt phân tích thủ đoạn của Bắc Kinh tại ba vùng tranh chấp : Doklam ở Bhutan, Arunachal Pradesh ở Ấn Độ và Biển Đông.
Tại vùng cao nguyên Doklam ở Bhutan, nơi binh lính Ấn Độ và Trung Quốc đang gờm nhau ở vùng biên giới với Trung Quốc từ trung tuần tháng Sáu, Bắc Kinh đã gây căng thẳng khi đưa công binh đến xây một con lộ trên lãnh thổ Bhutan chạy từ Dokola đến Jampheri, nơi có căn cứ quân sự Bhutan.
Đối với bộ Ngoại Giao Bhutan, hành động của Trung Quốc đã « vi phạm các thỏa thuận song phương, tác động đến tiến trình phân định biên giới hai bên ». Bhutan đồng thời hy vọng là « nguyên trạng của vùng Doklam như trước ngày 16/06/2017 được duy trì. »
Tuy Bhutan và Trung Quốc không có quan hệ ngoại giao nhưng hai bên đã tiến hành 7 vòng đàm phán và chủ trương giải quyết tranh chấp một cách hòa bình. Năm 1988, hai nước đã ký một thỏa thuận về « Các nguyên tắc chỉ đạo », và đến năm 1998 thì ký thỏa thuận « Duy trì hòa bình và sự yên ổn ở biên giới Trung Quốc – Bhutan ».
Qua hai thỏa thuận này, hai quốc gia cam kết giải quyết tranh chấp bằng con đường hòa bình, đối thoại, và không có bất kỳ hành động nào đe dọa hòa bình. Hai bên cam kết giữ nguyên trạng, không thay đổi gì ở biên giới.
Nhưng Trung Quốc gần đây đã khẳng định thỏa thuận về vấn đề biên giới với Bhutan không liên quan đến vùng Doklam, vì đứng trên mặt lịch sử vùng này thuộc Trung Quốc.
Phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Trung Quốc, Lục Khảng, trong cuộc họp báo tại Bắc Kinh ngày 28/06, khẳng định : « Doklam là một vùng của Trung Quốc từ thời xa xưa, chứ không phải là của Bhutan, và càng không phải là của Ấn Độ. Đó là điều không thể chối cãi và được lịch sử chứng minh. Trung Quốc xây dựng một con đường ở Bhutan là một hành động chủ quyền trên lãnh thổ của mình… »
Theo tác giả bài viết, việc Trung Quốc đột nhiên vào Bhutan xây đường có thể làm nhiều người ngạc nhiên, nhưng khi nhìn những gì Trung Quốc đã làm đến nay, liên quan đến lãnh thổ đang tranh chấp, từ Ấn Độ qua Bhutan rồi đến Biển Đông, thì dường như Bắc Kinh theo đúng một mô hình, tiến hành một cách có hệ thống.
Trung Quốc ký « nguyên tắc chỉ đạo » hay « thỏa thuận duy trì hòa bình và ổn định » với quốc gia tranh chấp, thiết lập như vậy một cái khung, với quy tắc rõ rệt, ràng buộc nước ký kết và che mắt đối thủ về những kế hoạch tương lai của Trung Quốc đòi chủ quyền một cách hung hăng.
Ấn Độ
Một ví dụ là trường hợp Ấn Độ. Năm 2005, Trung Quốc và Ấn Độ ký thỏa thuận mang tên « Thông số chính trị và các nguyên tắc chỉ đao việc giải quyết vấn đề biên giới Ấn-Trung ». Điều IX của thỏa thuận này quy định hai bên tôn trọng đường ranh hiện hữu và cùng duy trì ổn định vùng biên giới.
Nhưng năm 2006, đại sứ Trung Quốc tại Ấn Đô, Tôn Ngọc Tỉ (Sun Yuxi) tuyên bố là « cả bang Arunachal Pradesh thuộc lãnh thổ Trung Quốc, và nơi tranh chấp, vùng Tawang, chỉ là một bộ phận của Arunachal. Chúng tôi đòi cả bang. Đó là quan điểm của chúng tôi. »
Sau tuyên bố này, quân đội Trung Quốc thường xuyên thâm nhập vào khu vực, tìm cách dựng trại, căn cứ tại đây. Bộ Ngoại Giao Trung Quốc cũng cho in bản đồ Arunachal Pradesh trên hộ chiếu Trung Quốc cũng như những vùng tranh chấp ở Biển Đông, coi như thuộc về Trung Quốc.
Biển Đông
Mô hình mà Trung Quốc sử dụng ở 3 nơi tranh chấp chủ quyền y hệt như nhau: Yêu sách chủ quyền dựa trên nền tảng lịch sử xa xưa, tiếp theo là đưa quân thâm nhập, xây đường xá, bất chấp thỏa thuận đã ký kết là bảo đảm duy trì nguyên trạng và giải quyết tranh chấp qua đàm phán hòa bình.
Trường hợp Biển Đông cũng vậy. Trung Quốc cũng đồng ý với ASEAN về một khung ứng xử (CoC) vào tháng 5 vừa qua. Theo bản dự thảo (CoC), các bên giải quyết tranh chấp một cách hòa bình, tránh lắp đặt vũ khí tấn công trên các đảo.
Năm 2002 trong Bản Tuyên Bố Ứng Xử – DOC mà Trung Quốc và ASEAN đã thông qua, có phần ghi rõ « các bên tự kềm chế trong hoạt động có thể làm tranh chấp phức tạp hay leo thang, ảnh hưởng đến hòa bình, ổn định, trong đó có việc cư ngụ trên các đảo, đá, vốn không người ở hay những thực thể địa lý khác… ».
Nhưng Trung Quốc đã sử dụng sự hiện diện của họ và những yếu tố khác tại hiện trường để đưa ra yêu sách chủ quyền, mặc dù đã ký kết bản tuyên bố 2002, và đã lập ra những vùng cấm, những vùng quân sự ở Biển Đông.
Tháng Giêng 2014, tàu Trung Quốc ồ ạt nạo vét cát, tiến vào bên trong các rạn san hô ở 7 thực thể ở Trường Sa : Chữ Thập (Fiery Cross Reef), Vành Khăn (Mischief Reef), Ga Ven (Gaven Reef), Châu Viên (Cuarteron Reef), Xu Bi (Subi Reef), Gạc Ma (South Johnson Reef), và Tư Nghĩa (Hughes Reef).
Một khi các đảo nhân tạo được hoàn tất, bước tiếp theo là các công trình xây dựng cơ sở, bến cảng, phi đạo, đài rađa, nơi đóng quân, tóm lại, tất cả hoạt động xác định chủ quyền và kiểm soát lãnh thổ tranh chấp.
Yêu sách chủ quyền Biển Đông của Trung Quốc cũng dựa trên lịch sử; thủy thủ Trung Quốc thời xa xưa đã khám phá ra các đảo Nam Sa (Nansha), tức là các đảo Biển Đông bây giờ. Theo Bắc Kinh, đó là từ thế kỷ thứ 2 trước công nguyên, và ngư phủ Trung Quốc luôn qua lại vùng này từ thời nhà Minh và nhà Thanh.
Tóm lại, theo chuyên gia Goswami, chiến lược của Trung Quốc là luôn đi ngược lại với những gì chính họ ký kết. Họ đưa quân xây đường ở vùng tranh chấp với Bhutan, thâm nhập vùng tranh chấp với Ấn Độ, xây đảo nhân tạo ở Biển Đông trong lúc vẫn cổ vũ duy trì nguyên trạng.
Câu hỏi là tại sao ký « nguyên tắc chỉ đạo », « thỏa thuận khung » để rồi vi phạm sau đó ? Có lẽ là để kềm chế, ràng buộc nước tranh chấp với Trung Quốc, còn Bắc Kinh thì hành động ngược lại, sử dụng lịch sử, che mắt đối phương trên các đường biên giới không rõ ràng.
Bài viết kết luận : Điều rõ nét qua chiến lược của Trung Quốc ở 3 nơi tranh chấp trên là Trung Quốc không hề tôn trọng « những thỏa thuận khung », những cam kết, khiến người ta nghi ngờ về tính nghiêm túc, đáng tin cậy của Trung Quốc trong đàm phán.
http://vi.rfi.fr/chau-a/20170823-cach-trung-quoc-xam-luoc-lang-gieng-ket-uoc-roi-boi-uoc-ok
“Trung Quốc, chuẩn bị đi !
Tàu sân bay Mỹ đang trực chỉ Việt Nam”
Quan hệ quốc phòng Việt-Mỹ tiến triển rõ nét tiếp tục thu hút sự quan tâm của giới phân tích. Trong bài viết mang tựa đề rất hóm hỉnh « Trung Quốc, chuẩn bị đi ! Tàu sân bay Mỹ đang trực chỉ Việt Nam – Get Ready, China: U.S. Navy Aircraft Carriers are Headed to Vietnam » đăng trên tạp chí Mỹ The National Interest ngày 20/08/2017, nhà báo Zachary Keck đã phân tích thêm về ý nghĩa của sự kiện một tàu sân bay Mỹ sẽ ghé thăm Việt Nam vào năm tới 2018.
Nhà báo Mỹ trước hết ghi nhận rằng đây là lần đầu tiên mà một hàng không mẫu hạm Mỹ ghé cảng Việt Nam, từ ngày chiến tranh kết thúc vào năm 1975. Đối với giới quan sát, sự kiện này là một dấu hiệu cho thấy quan hệ hai bên thắt chặt thêm, và cùng nhắm vào một đối tượng là Trung Quốc. Và dĩ nhiên là Bắc Kinh không hài lòng chút nào.
Cách đây hai tuần, bộ trưởng Quốc Phòng Việt Nam, Ngô Xuân Lịch công du nước Mỹ và tiếp xúc với đồng nhiệm James Mattis. Theo bộ Quốc Phòng Mỹ, hai bên đã thảo luận về những bước tăng cường hợp tác song phương cũng như về an ninh khu vực, và đồng ý mở rông hợp tác hải quân và chỉa sẻ thông tin.
Nhân dịp này, hai bên đã bàn về chuyến ghé cảng Việt Nam của tàu sân bay Mỹ khi điều kiện kỹ thuật cho phép. Tên chiếc tàu sẽ ghé Việt Nam chưa được cho biết, cũng như cảng mà chiếc tàu sẽ ghé thăm. Bộ Quốc Phòng Mỹ chỉ cho biết là vào năm tới.
Tuy thế, các nhà quan sát cho là tàu sân bay sẽ ghé Cam Ranh, vì như nhà báo của tạp chí Nhật Bản The Diplomat, Prashanth Parameswaran ghi nhận vào năm ngoái, cầu tầu của cầu cảng Cam Ranh đã được tu sửa để có thể đón hàng không mẫu hạm.
Quan hệ thắt chặt nhanh chóng
Dẫu sao thì chuyến ghé cảng Việt Nam của tàu sân bay Mỹ là dấu hiệu mới nhất phản ánh đà nhanh chóng thắt chặt thêm quan hệ giữa hai nước, để đối phó với sự vươn lên của Trung Quốc, cho dù sự nghi kỵ Mỹ-Việt bắt nguồn từ cuộc chiến trước đây vẫn còn.
Từ khi chiến tranh chấm dứt vào năm 1975, phải chờ đến năm 1995 hai bên mới tái lập bang giao, với quan hệ ấm dần với các cuộc viếng thăm của các tổng thống Mỹ khởi đầu là Bill Clinton năm 2000, George W. Bush năm 2006. Nhưng phải chờ đến thời Obama thì quan hệ song phương mới thật sự được củng cố, với chính sách « xoay trục » bắt đầu từ cuối năm 2011.
Tháng 7/2013, tổng thống Obama và chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang thông báo hai nước nâng cấp quan hệ lên hàng Đối Tác Chiến Lược. Qua năm 2014, Mỹ giảm cấm vận vũ khí một phần, trước khi hoàn toàn bãi bỏ hai năm sau.
Sau đó không lâu, vào tháng 10/2016, hai tàu chiến Mỹ : tàu hâu cần tàu ngầm USS Frank Cable, và khu trục hạm USS John S. McCain ghé cảng Cam Ranh. Đó là lần đầu tiên từ sau chiến tranh mà chiến hạm Mỹ cập bến Cam Ranh. Tàu Mỹ trước đó cũng đã ghé cảng này, nhưng không phải là tàu chiến. Khu trục hạm USS John S. McCain, đặt căn cứ ở Nhật Bản, cũng đã viếng thăm các cảng khác ở Việt Nam trước khi ghé Cam Ranh. Mới tháng Sáu vừa qua, chiếc John S. McCain cũng đã trở lại Cam Ranh.
Tuy nhiên, Zachary Keck cũng công nhận rằng quan hệ Việt Mỹ thời Donald Trump, khởi đầu vất vả khi mà quyết định đầu tiên của ông là rút khỏi hiệp định thương mại TPP. Nhưng rồi quan hệ lại tiếp tục trên con đường của chính quyền Obama trước đây.
Vào tháng 5, thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc đã gặp tổng thống Trump ở Nhà Trắng, ông Trump cũng có kế hoạch viếng thăm Việt Nam nhân thượng đỉnh APEC vào tháng 11/2017. Mỹ cũng đã cung cấp cho Việt Nam một tuần dương hạm lớp Hamilton vào tháng 5 và một tháng sau thì một tàu chiến hiện đại LCS được bảo trì ở Cam Ranh. Và tháng 7 vừa qua Hải Quân Việt Nam và Mỹ tiến hành diễn tập thường niên (NEA).
Trung Quốc trong tầm nhắm
Theo nhận định của Zachary Keck, tuy hai bên không thừa nhận, nhưng động lực thắt chặt quan hệ này là Trung Quốc, một mặt do sức mạnh quân sự ngày vươn lên và thái độ ngày quyết đoán hơn, nhất là ở Biển Đông, một mặt khác là do ảnh hưởng Trung Quốc ngày quan trọng hơn.
Từ khi lên nắm quyền năm 2016, tổng thống Philippines Rodrigo Duterte đã xích hẳn lại gần Trung Quốc khiến Việt Nam trong thế cô lập hơn trong các quốc gia Đông Nam Á trong việc đương đầu với Trung Quốc ở Biển Đông.
Zachary Keck nhắc lại nhận định của Gregory Poling, giám đốc trung tâm Minh Bạch Hàng Hải Châu Á của CSIS (Center for Strategic and International Studies’ Asia Maritime Transparency Initiative) trên đài CNN tuần qua : « Khi nói đến tranh chấp ở Biển Đông, lãnh đạo Việt Nam có lẽ cảm thấy rất lẻ loi những ngày này.”
Việt Nam cũng trong tình thế bị Trung Quốc liên tiếp hù dọa trong năm nay.
Tháng Sáu vừa qua, Việt Nam đã cho phép một chi nhánh của tập đoàn dầu khí Tây Ban Nha Repsol khoan dò dầu khí ở Bãi Tư Chính (Vanguard Bank), nằm trong khu đặc quyền kinh tế của Việt Nam mà Trung Quốc cũng tranh giành.Bắc Kinh đã phản đối ngay qua các kênh ngoại giao. Bộ Ngoại Giao Trung Quốc đã triệu mời đại sứ Việt Nam, dọa sử dụng sức mạnh nếu Việt Nam không bỏ việc khoan thăm dò và hứa không khoan lại ở vùng biển này.
Mặc dù bất đồng quan điểm trong tầng lớp lãnh đạo, nhưng Việt Nam đã phải chấp nhận yêu sách của Trung Quốc. Theo một số nguồn tin, một phần do Hà Nội không tin tưởng là có thể dựa vào chính quyền Trump đến giúp đỡ.
Một sự cố khác là trong tháng này, là ngoại trưởng Trung Quốc đã hủy bỏ cuộc gặp ngoại trưởng Việt Nam vì Hà Nội đưa vấn đề Biển Đông trong thông cáo cuối cùng của các ngoại trưởng ASEAN.
Nhà báo Zachary Keck nhìn thấy thực tế là tổng thống Philippines ‘xoay trục’ sang Trung Quốc và Thái Lan, một đồng minh khác của Mỹ, cũng ve vãn Bắc Kinh từ sau cuộc đảo chính 2014, khiến Washington ngày tin tưởng hơn vào Việt Nam trong hồ sơ Biển Đông. Động thái biểu tượng như tàu sân bay là bước khởi đầu, nhưng rõ ràng là chưa thể đủ để đối phó với Trung Quốc.