Tin Biển Đông – 27/07/2017
Anh đưa hàng không mẫu hạm vào Biển Đông năm 2018
Ngoại trưởng Boris Johnson cam kết sẽ đưa các tàu hàng không mẫu hạm tới khu vực Biển Đông đang có tranh chấp để thực thi quyền tự do hàng hải, báo chí Anh hôm thứ Năm 27/7 đồng loạt đưa tin.
“Một trong những điều đầu tiên chúng tôi sẽ làm đối với hai hàng không mẫu hạm mà chúng tôi vừa đóng xong là sẽ gửi chúng tới để thực thi quyền tự do hàng hải trong khu vực,” ông Johnson được báo The Guardian dẫn lời, “nhằm khẳng định niềm tin của chúng tôi đối với hệ thống luật pháp quốc tế, và đối với quyền tự do đi lại ở các vùng nước có vai trò vô cùng quan trọng đối với thương mại thế giới.”
Cùng trong hôm thứ Năm, Bộ trưởng Quốc phòng Anh Michael Fallon cũng có phát biểu tương tự.
Tuy nhiên, ông Fallon chỉ nói tới việc gửi một tàu chiến thay vì hai hàng không mẫu hạm như lời phát biểu ông Johnson đưa ra từ Sydney, Úc.
Biển Đông: Làm rõ tin ‘VN phải dừng khoan’
Manila ‘sẽ hỏi láng giềng’ trước khi ký với TQ
TQ vẫn tiếp tục ‘tằm ăn dâu’ ở Biển Đông
“Chúng tôi hy vọng sẽ gửi một tàu chiến tới khu vực vào năm tới. Chúng tôi vẫn chưa chốt chính xác khi nào việc triển khai sẽ được thực hiện, nhưng chúng tôi sẽ không ngại ngần trước Trung Quốc trong việc cho tàu đi lại trên Biển Đông,” ông Fallon nói với hãng tin Reuters.
Anh Quốc sẽ tăng sự hiện diện tại vùng biển này sau khi đã cho bốn chiến đấu cơ Anh tham gia tập trận chung với Nhật Bản hồi năm ngoái, ông Fallon nói thêm.
Bước đi này sẽ tác động tiêu cực tới mối quan hệ giữa Bắc Kinh và London, làm suy yếu các nỗ lực thúc đẩy điều mà chính phủ hai bên gọi là “kỷ nguyên vàng” trong quan hệ song phương, giữa lúc Anh đang tách khỏi Liên hiệp Âu châu, Reuters bình luận.
Dự án hạt nhân TQ đầu tư ở Anh ‘đội vốn’
Ông Tập đến Anh mở ‘kỷ nguyên vàng’
‘Thời đại vàng son’ của Anh và Trung Quốc?
“Đối phó Trung Quốc”
Việc Trung Quốc trong những năm gần đây bồi đắp các đảo nhân tạo và xây dựng các căn cứ quân sự trên Biển Đông đã bị quốc tế lên án.
VN ngừng khoan dầu khí ở Biển Đông
Hoa Kỳ ước tính Bắc Kinh đã mở rộng thêm 1.300 ha đất tại bảy địa điểm trên Biển Đông trong thời gian ba năm qua, xây dựng các đường băng, cảng, bãi đỗ, nhà chứa máy bay và lắp đặt các thiết bị viễn thông trên đó, theo Reuters.
Người ta cũng quan ngại về việc Bắc Kinh muốn hạn chế quyền tự do đi lại trên vùng biển này.
“Chúng tôi đã cho bay các phi cơ Typhoon của Không quân Hoàng gia Anh trên Biển Đông hồi tháng 10 năm ngoái, và sẽ thực thi quyền đó vào bất kỳ khi nào chúng tôi có cơ hội làm vậy, bất kỳ khi nào chúng tôi có tàu thuyền hoặc máy bay trong khu vực,” Bộ trưởng Quốc phòng Fallon nói.
Hoa Kỳ cho đến nay đã thường xuyên thực thi quyền tự do đi lại trong khu vực, là động thái khiến Bắc Kinh giận dữ.
Hồi đầu tháng, Hoa Kỳ gửi hai máy bay ném bom tới nơi, chỉ vài tháng sau khi cử một tàu chiến tới tập trận trong phạm vi 12 hải lý cách Đá Vành Khăn, nơi Trung Quốc đã bồi đắp đảo nhân tạo ở Hoàng Sa.
Phi cơ ném bom Mỹ vào Biển Đông, TQ phản đối
Tàu chiến Mỹ tiếp cận Đá Vành Khăn
Tàu chiến Mỹ áp sát đảo tranh chấp ở Hoàng Sa
Việc đưa các tàu mới nhất, đắt tiền nhất tới khu vực sẽ bị Bắc Kinh coi là hành động khiêu khích từ phía Anh.
Chiếc hàng không mẫu hạm mới nhất của Anh dài 280 mét, trọng tải 65.000 tấn, được đặt tên là HMS Queen Elizabeth, là chiếc tàu lớn nhất từ trước tới nay của hải quân Anh.
Tàu hiện đang được vận hành thử ngoài khơi Scotland, và được trông đợi sẽ chính thức bàn giao cho hải quân vào cuối năm nay.
Chiếc thứ hai, HMS Prince of Wales, hiện đang được lắp đặt thiết bị tại quân cảng Rosyth cũng ở Scotland, và sẽ chính thức được đặt tên vào tháng Chín.
Trung Quốc luôn lên án nỗ lực của các nước bên ngoài khu vực trong việc muốn tham gia vào tranh chấp Biển Đông.
Trong cuộc họp với các nhà ngoại giao ASEAN tại Bắc Kinh hôm thứ Tư, Ngoại trưởng Vương Nghị nói rằng hai bên phải “loại trừ những hỗn loạn trong vấn đề Biển Nam Hải (cách Trung Quốc gọi Biển Đông), và duy trì động cơ tích cực,” Bộ Ngoại giao Trung Quốc loan tin.
http://www.bbc.com/vietnamese/world-40740334
Kế hoạch của Anh
đưa tàu chiến đến Biển Đông làm TQ giận dữ
Anh dự định gửi một tàu chiến đến khu vực biển Đông vào năm tới để tham gia các hoạt động tự do hàng hải. Bộ trưởng Quốc phòng Anh Michael Fallon cho biết tin này hôm 27 tháng 7.
Ông Fallon nói với hãng tin Reuters rừng Anh sẽ gia tăng sự hiện diện của mình ở khu vực biển Đông sau khi nước này gửi 4 máy bay chiến đấu tham gia diễn tập chugn với Nhật Bản trong khu vực hồi năm ngoái. Ông Fallon Anh hy vọng gửi tàu chiến đến khu vực vào năm tới nhưng chưa quyết định chính xác là ở vị trí nào. Ông cũng nói Anh không có ý định kiềm chế Trung Quốc ở biển Đông mà chỉ thực hiện quyền tự do hàng hải của nước này tại đây.
Bộ trưởng Quốc phòng Anh cho biết hồi năm ngoái máy bay RAF Typhoons của Anh đã bay qua biển Đông và máy bay cũng như tàu chiến của nước này sẽ còn làm như vậy khi có cơ hội.
Trung Quốc là nước đòi chủ quyền phần lớn diện tích biển Đông, nơi các nước như Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei và Đài Loan cũng đòi chủ quyền.
Hoa Kỳ đã nhiều lần lên tiếng quan ngại về các hoạt động quân sự hóa của Trung Quốc tại khu vực này và đã gửi tàu chiến đi qua các đảo nhân tạo do Trung Quốc xây dựng để thách thức đòi hỏi quá đáng của nước này.
Hồi đầu tháng này, Hoa Kỳ cũng cho hai máy bay ném bom bay qua khu vực biển Đông.
Trung Quốc đã nhiều lần lên tiếng chỉ trích những nước ngoài khu vực can thiệp vào khu vực biển Đông.
Bộ trưởng Ngoại giao Vương Nghị hôm 25 tháng 7 đã lên tiếng kêu gọi các nước ASEAN đoàn kết và nói không với lực lượng từ bên ngoài khu vực.
Ngừng khoan dầu:
Việt Nam bị Trung Quốc đe dọa như thế nào?
Kể từ khi có tin Việt Nam phải ngừng khoan thăm dò dầu khí trên biển Đông do bị Trung Quốc đe dọa, truyền thông Việt Nam vẫn im lặng và Bộ Ngoại giao cũng “im lặng một cách khác thường.”
Cho tới hết ngày 26/7, Bộ Ngoại giao Việt Nam chưa lên tiếng về vụ việc này và thông tin về việc Việt Nam yêu cầu một công ty con của tập đoàn dầu khí Tây Ban Nha Repsol ngừng khoan thăm dò dầu khí ở lô 136-03 trong vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam không xuất hiện trên truyền thông chính thống.
Nguồn tin của các chuyên gia về biển Đông, giáo sư Carl Thayer của Học viện quốc phòng Úc và học giả Bill Hayton của viện nghiên cứu Chatham House, cho biết Trung Quốc đã đưa ra yêu cầu này thông qua đại sứ Việt Nam ở Bắc Kinh. “Sau khi Bộ Chính trị (của Đảng Cộng Sản Việt Nam) xem xét yêu cầu này đã quyết định ngừng khoan dầu,” học giả và nhà báo chuyên viết về Việt Nam Hayton cho biết.
Các chuyên gia về biển Đông cho rằng lối đe dọa này của Trung Quốc là chưa từng có tiền lệ khi Bắc Kinh dọa dùng vũ lực, và trong bối cảnh đó Việt Nam phải nhượng bộ để có thời gian thay đổi chiến lược đối phó với Trung Quốc.
Sự giằng co giữa Việt Nam và Trung Quốc về vấn đề khoan dầu trên biển Đông, theo giáo sư Alexander Vuving của Trung tâm nghiên cứu an ninh châu Á-Thái Bình Dương, bắt đầu từ khi tướng Phạm Trường Long cắt ngắn chuyến thăm tới Hà Nội và chương trình giao lưu quốc phòng giữa 2 nước bị hủy bỏ.
Kể từ đó, Trung Quốc và Việt Nam đều huy động 1 lượng lớn các tàu tuần
“Sự đe dọa này của Trung Quốc đối với Việt Nam cho thấy sự hung hăng ngày càng tăng của Trung Quốc.”
Carl Thayer, Học viện Quốc phòng Úc
duyên và tàu đánh cá tới khu vực bãi Tư Chính (Vanguard Bank) nằm ở phía Tây Nam trong quần đảo Trường Sa và cách Vũng Tàu khoảng 200 hải lý về phía Đông Nam.
Hôm 23/7, một ngày trước khi bài báo của BCC và giáo sư Carl Thayer nói về quyết định của Việt Nam ngừng khoan dầu trên biển, giáo sư Vuving và Jonathan London đều đưa tin trên trang Twitter cá nhân về việc Trung Quốc đang triển khai dàn khoan HYSY-760 cùng 40 tàu hải giám tới khu vực gần bãi Tư Chính, quanh lô 163-03, là nơi Việt Nam lúc đó đang triển khai dự án khai thác dầu Cá Rồng Đỏ do PetroVietNam hợp tác với Repsol trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Dù Việt Nam và Trung Quốc đều chưa lên tiếng xác nhận hay phủ nhận về thông tin Trung Quốc yêu cầu Việt Nam ngừng khoan dầu, người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Trung Quốc hôm 26/7 được Reuters dẫn lời nói “Trung Quốc thúc giục bên liên quan dừng các hoạt động vi phạm đơn phương và có hành động thiết thực bảo vệ cho khu vực biển mà không dễ có được.”
Trung Quốc ngày càng hung hăng
“Sự đe dọa này của Trung Quốc đối với Việt Nam cho thấy sự hung hăng ngày càng tăng của Trung Quốc,” theo giáo sư Thayer.
Cùng chung nhận định này, giáo sư Vuving nói “hành động của Trung Quốc cho thấy họ tiếp tục quyết liệt với các tuyên bố chủ quyền quá đáng của mình trên biển Đông và tự tin về khả năng bắt nạn những nước khác cũng có tuyên bố chủ quyền (trong vùng biển này).”
Kể từ cuối những năm 2000 và đặc biệt sau 1 năm tòa trọng tài quốc tế ra phán quyết bác bỏ đường lưỡi bò 9 đoạn của Trung Quốc, nước này vẫn không thay đổi gì trong cách hành xử và thậm chí còn có thêm nhiều hành động hung hăng hơn.
Vào tháng 5 vừa qua, tổng thống Philippines Rodrigo Duterte đã nói trước công chúng rằng chủ tịch Tập Cận Bình của Trung Quốc đe dọa “có chiến tranh” nếu Philippines trở lại khai thác dầu và khoan thăm dò ở bãi Recto. Vụ máy bay chiến đấu của Trung Quốc áp sát máy bay do thám của hải quân Mỹ trên biển Đông hôm 24/7 là ví dụ mới nhất cho thấy sự can thiệp của Trung Quốc vào các chuyến bay của Mỹ trên vùng trời phía đông và nam của biển Trung Hoa. Trung Quốc hiện cũng đang tiến hành các cuộc tập trận hải quân ở vùng biển Baltic với hải quân Nga, theo truyền thông quốc tế.
Việc tiếp tục quân sự hóa của Trung Quốc trên biển Đông cũng cho thấy nước này đang coi thường phản ứng của cộng đồng quốc tế.
Những hình ảnh vệ tinh mới nhất do Trung tâm Nghiên cứu chiến lược quốc tế (CSIS) của Mỹ ở Washington đưa ra hôm 19/6 cho thấy Trung Quốc xây thêm các cơ sở quân sự mới trên các đảo nhân tạo ở quần đảo Trường Sa mà Việt Nam cũng có tuyên bố chủ quyền.
Washington luôn cáo buộc Bắc Kinh quân sự hóa tuyến hải lộ trọng yếu trong khu vực, nơi có lượng hàng hóa trị giá 5.000 tỷ USD được giao thương hàng năm.
“Việt Nam phải ngưng khoan dầu ở lô 136 bởi vì các lực lượng của họ quá mỏng và không đủ khả năng để bảo vệ các hoạt động khoan thăm dò thêm lâu hơn trước số lượng quá đông của các tàu Trung Quốc.”
Alexander Vuving, Trung tâm nghiên cứu an ninh chấu Á-Thái Bình Dương
Thượng nghị sỹ Mỹ Cory Gardner hôm 18/7 đã lên tiếng cáo buộc Trung Quốc gần đây có những hành động gây mất ổn định khu vực biển Đông và biển Hoa Đông, làm trái với luật lệ quốc tế và tạo ra hiểm họa xung đột trong tương lai.
Việt Nam phải làm gì?
Nếu Trung Quốc thực sự đe dọa dùng vũ lực để tấn công các thực thể của Việt Nam trên biển Đông để buộc Việt Nam ngưng thăm dò dầu khí thì đây là một sự leo thang chưa từng có và đáng báo động, theo ông Thayer, cũng là giáo sư của Đại học New South Wales.
Việt Nam phải ngưng khoan dầu ở lô 136 bởi vì các lực lượng của họ quá mỏng và không đủ khả năng để bảo vệ các hoạt động khoan thăm dò thêm lâu hơn trước số lượng quá đông của các tàu Trung Quốc, theo nhận xét của giáo sư Vuving.
Các nguồn tin từ Việt Nam mà vị giáo sư của Trung tâm nghiên cứu an ninh châu Á-Thái Bình Dương có được cho biết có gần 200 tàu của Trung Quốc được điều tới khu vực bãi Tư Chính trong khi Việt Nam chỉ có hơn 50 tàu ở khu vực khoan dầu này. Tuy nhiên, cũng theo nguồn tin của giáo sư Vuving, việc khoan thăm dò này cũng đã gần hoàn tất nhiệm vụ và họ đã phát hiện ra một mỏ khí có trữ lượng lớn.
Mặc dù một số chuyên gia trong nước cho rằng việc Việt Nam hủy bỏ khoan thăm dò vì bị Trung Quốc đe dọa là “hành động bất lực, hèn nhát” nhưng các chuyên gia quốc tế lại cho rằng đây là một sự rút lui đúng lúc.
“Việt Nam luôn dùng cả ngoại giao và hành động để đáp trả các hành động của Trung Quốc. Việt Nam không muốn hành động vội vàng trong một thế mà họ không có lợi.”
Carl Thayer, Học viện Quốc phòng Úc
“Nếu Việt Nam tiếp tục khoan dầu với (đối tác) Repsol vào thời điểm này thì Trung Quốc sẽ đưa các tàu tới thách thức. Họ sẽ gửi tàu thăm dò và thậm chí tàu khoan tới khu vực mà Việt Nam đang khoan dầu. Những hàng động này sẽ làm mỏng lực lượng tuần duyên và tàu theo dõi các hoạt động đánh bắt cá của Việt Nam và lúc đó buộc Việt Nam phải dừng các hoạt động khoan dầu để tập trung vào việc ngăn cản các hoạt động thăm dò và khoan dầu của Trung Quốc,” theo tiến sỹ Vuving.
Giáo sư Carl Thayer cũng nhận định rằng nếu Việt Nam tiếp tục khoan dầu thì “không nghi ngờ gì Trung Quốc sẽ can thiệp” hoặc bằng việc cắt cáp tàu khoan dầu, hoặc gửi tàu đánh cá tới hoặc có các hành động quân sự chống lại một trong các thực thể của Việt Nam trong khu vực này.
“Việt Nam luôn dùng cả ngoại giao và hành động để đáp trả các hành động của Trung Quốc. Việt Nam không muốn hành động vội vàng trong một thế mà họ không có lợi,” theo giáo sư Thayer và ông cho rằng Việt Nam cần có thời gian để huy động những ý kiến từ quốc tế để đưa ra một chiến lược thích hợp.
Tiến sỹ Vuving cũng cho rằng hành động ngừng khoan dầu của Việt Nam là “một sự rút lui chiến lược chứ không phải là một sự đầu hàng” và Việt Nam “chắc chắn sẽ không từ bỏ các tuyên bố chủ quyền của mình trong khu vực nằm trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của họ.”
Để làm được việc này, bước tiếp theo, theo giáo sư Thayer, là “Việt Nam cần tìm kiếm sự ủng hộ của Nhật, Mỹ, Ấn Độ, Úc và châu Âu đồng thời gặp gỡ các đại diện của các công ty dầu khí nước ngoài đang hoạt động trong EEZ của Việt Nam để tham khảo các đánh giá của họ.”
Đồng khai thác Biển Đông với Trung Quốc :
Lợi bất cập hại
Trong những ngày qua, cả Manila lẫn Bắc Kinh đều kẻ xướng người họa, ca ngợi lợi ích của việc cùng nhau khai thác Biển Đông. Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte ngày 24/07/2017 hết sức lạc quan trước trước những lợi ích trông thấy, một quan điểm được ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị ghé thăm Manila hoàn toàn tán đồng.
Tuy nhiên, trong một phân tích được công bố hôm 27/07/2017, báo mạng Nhật Bản The Diplomat cho rằng đối với Philippines, đồng khai thác Biển Đông với Trung Quốc là công việc đầy rủi ro.
Trong quá khứ, Manila và Bắc Kinh từng có đề án cùng hợp tác khai thác Biển Đông, cụ thể là đề án JSMU, tức là thỏa thuận cùng khảo sát địa chấn ngoài biển, ký kết năm 2005 giữa ba tập đoàn dầu khí quốc doanh PNOC của Philippines, CNOOC của Trung Quốc và PetroVietnam của Việt Nam.
Đề án này đã nhanh chóng bị dẹp bỏ vào năm 2008 sau khi chính quyền Philippines thời đó của bà Gloria Arroyo bị cáo buộc bán đứng quyền lợi đất nước để đổi lấy các dự án cơ sở hạ tầng do Trung Quốc tài trợ.
Ngay sau khi đề án bị hủy bỏ, Philippines đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm đối tác nước ngoài giúp khai thác nguồn dầu khí ngoài khơi vì Trung Quốc đã tăng sức đe dọa các tập đoàn ngoại quốc, đồng thời cho tàu tuần tra hù dọa và cản trở các tàu khảo sát làm việc cho Philippines. Trong phán quyết vào tháng 7/2016, Tòa Trọng Tài Thường Trực La Haye chỉ rõ là Trung Quốc đã vi phạm chủ quyền của Philippines bằng cách ngăn không cho Manila khai thác tài nguyên tại khu vực Bãi Cỏ Rong (Reed Bank) ở Biển Đông bị Trung Quốc cho là của họ bất chấp việc khu vực này nằm trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý Philippines.
Quá khứ đã là như vậy, hiện tại, theo The Diplomat, cũng không sáng sủa hơn. Để biện minh cho chủ trương xích lại gần Trung Quốc, chính quyền Duterte đã nhấn mạnh đến lợi ích của việc đồng khai thác Biển Đông, nêu bật một số điểm như ngư dân Philippines đã được đến đánh bắt tại khu vực bãi Scarborough Shoal, và Trung Quốc cam kết không xây dựng gì trên bãi mà họ đã chiếm từ tay Philippines vào năm 2012.
Đối với The Diplomat, những lợi ích đó khá nhỏ nhoi so với những nhượng bộ đáng kể mà Manila đã phải chịu, trong đó có việc gác qua một bên phán quyết quốc tế về Biển Đông hết sức có lợi cho Philippines, cũng như là chiều lòng Trung Quốc để ra một tuyên bố chung yếu ớt một cách đáng hổ thẹn trong tư cách chủ tịch ASEAN hồi tháng 4/2017. Nếu theo đà này, chính quyền Duterte có nguy cơ sẽ bị lên án về tội không bảo vệ chủ quyền quốc gia.
Rủi ro cũng tiềm ẩn trong tương lai gần, nhất là khi mà cách hành xử của Trung Quốc tại Biển Đông trong những năm gần đây cho thấy là Bắc Kinh sẵn sàng xóa bỏ mọi thỏa thuận và dùng đến biện pháp cưỡng chế thô bạo để đạt mục tiêu. Đối với Philippines chẳng hạn, Trung Quốc cho đến giờ vẫn chính thức cho rằng sở dĩ kế hoạch đồng khai thác hồi năm 2005 thất bại, đó là vì Manila thiếu quyết tâm thúc đẩy, chứ không hề nói gì về các hành động cưỡng chế bất hợp pháp của Bắc Kinh sau đó.
Căn cứ vào tiền lệ đó, nếu vì một lý do nào đó mà Philippines không thực hiện thỏa thuận đồng khai thác với Trung Quốc, Bắc Kinh hoàn toàn có thể dùng biện pháp quân sự gây áp lực trên Manila, trực tiếp tại khu vực đồng khai thác, hoặc gián tiếp với các hành động quyết đoán khác, như cho xây dựng cơ sở trên bãi Scarborough Shoal hoặc tuyên bố một vùng nhận dạng phòng không ở Biển Đông.
Thậm chí, do việc chính quyền Duterte ngày càng bám vào Trung Quốc về kinh tế, để khỏi mang tiếng là hung bạo, Bắc Kinh còn có thể dùng đến vũ khí thương mại. Trong lãnh vực này, Trung Quốc cũng đã có rất nhiều tiền sự, như cấm xuất khẩu đất hiếm vào Nhật Bản trong năm 2010, hạn chế nhập chuối Philippines vào năm 2012, hoặc mới đây là những đòn trả đũa kinh tế chống lại Hàn Quốc vì đã cho Mỹ triển khai hệ thống lá chắn chống tên lửa THAAD.
Phân tích của The Diplomat đã tập trung vào vấn đề đồng khai thác Biển Đông trong quan hệ Philippines-Trung Quốc, nhưng đó cũng là vấn đề đặt ra cho các nước Đông Nam Á khác bị Trung Quốc tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông như Việt Nam, Malaysia hay Brunei.
Đối với các nước này, Bắc Kinh cũng đưa ra chiêu bài gác tranh chấp, đồng khai thác. Vấn đề cốt lõi tuy nhiên vẫn là tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc, và đề nghị đồng khai thác chỉ là một sách lược nhằm thực hiện tham vọng đó.
Vào năm 2013, khi ông Tập Cận Bình đưa ra lời kêu gọi đồng khai thác đối với các nước Đông Nam Á, trong một bài phỏng vấn trên báo Việt Nam, tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên Trưởng Ban Biên Giới Chính Phủ Việt Nam, một chuyên gia nghiên cứu kỳ cựu về Biển Đông, đã không ngần ngại vạch trần ý đồ của Bắc Kinh là thông qua yêu sách chủ quyền vô lý trên 85% diện tích Biển Đông để « “nhảy vào xí phần” trong khu vực thềm lục địa của các nước ven Biển Đông… từ đó biến các vùng biển không tranh chấp thành các vùng biển tranh chấp… ».
Đối với các chuyên gia, việc đồng khai thác chỉ có thể được áp dụng trong trường hợp khai thác vùng trùng lắp giữa vùng đặc quyền kinh tế EEZ của hai nước, nhưng không thể nào áp dụng trong trường hợp như là Trung Quốc muốn thúc đẩy : Khoanh một vùng rất lớn ăn sâu vào thềm lục địa của các nước khác, tự nhận chủ quyền trên đó, rồi đòi đồng khai thác những vùng nằm trong EEZ của các láng giềng.
http://vi.rfi.fr/chau-a/20170727-dong-khai-thac-bien-dong-voi-trung-quoc-loi-bat-cap-hai
Biển Đông: Philippines tham khảo ASEAN
về việc cùng thăm dò dầu khí với Trung Quốc
Philippines hôm qua 26/07/2017 đã cố gắng trấn an các nước láng giềng Đông Nam Á về đề xuất hợp tác với Bắc Kinh trong việc thăm dò dầu mỏ ở Biển Đông, hứa hẹn sẽ tham khảo ý kiến của ASEAN về mọi kế hoạch liên quan.
Hôm thứ Hai 24/7 tổng thống Rodrigo Duterte tuyên bố chính quyền Philippines đang đàm phán với Trung Quốc về việc cùng thăm dò dầu khí trên Biển Đông. Tuy nhiên ngoại trưởng Alan Peter Cayetano hôm qua khẳng định Manila sẽ tham vấn 9 nước thành viên khác của ASEAN về đề nghị này.
Ngoại trưởng Cayetano nói với báo chí : « Đây không phải là một hành động đơn phương của Philippines, vì tuyên bố của tổng thống dựa trên nguyên tắc hòa bình và ổn định, và bất cứ hành động đơn phương nào của bất kỳ ai đều có thể dẫn đến bất ổn ».
Vấn đề Biển Đông nằm trong chương trình nghị sự lúc ngoại trưởng Philippines gặp gỡ các đồng nhiệm ASEAN tại Manila vào tuần tới. Ông Cayetano từ chối cho biết các địa điểm dự định cùng thăm dò dầu khí với Trung Quốc có phải là các vùng biển mà các thành viên ASEAN khác là Việt Nam, Malaysia, Brunei đòi hỏi chủ quyền hay không.
AFP dẫn lời ông Cayetano nói rằng việc thương lượng cùng thăm dò dầu khí là điểm chính trong chuyến thăm Bắc Kinh của ông Duterte hồi tháng Năm. Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị đang thăm Manila hôm thứ Ba 25/7 cho biết Bắc Kinh sẵn sàng hợp tác.
Ông Rodrigo Duterte đã đảo ngược hoàn toàn chính sách của người tiền nhiệm, không còn hăng hái tranh chấp chủ quyền Biển Đông để mong đổi lấy nhiều tỉ đô la đầu tư của Bắc Kinh. Trong khi cựu tổng thống Benigno Aquino trước đó đã đối đầu với Trung Quốc về mặt luật pháp lẫn ngoại giao : đưa vấn đề ra trước Tòa Trọng Tài La Haye, liên kết với các nước ASEAN ngõ hầu tạo thành một mặt trận đoàn kết, chống lại các hành động bành trướng của Trung Quốc trên Biển Đông.