Việt Nam có tự do báo chí?

Cac Bai Khac

No sub-categories

Việt Nam có tự do báo chí?

Thế nào là một nền báo chí tự do và độc lập?

Một nền báo chí tự do và độc lập thực sự là thành tố quan trọng của một xã hội tự do. Sẽ không có xã hội tự do nếu báo chí chưa độc lập khỏi chính quyền.

Theo BBC – LS Lê Công Định – Gửi tới BBC từ Sài Gòn – 10:40 GMT – thứ sáu, 2 tháng 5, 2014

Luật lệ về báo chí giúp thiết đặt những quy tắc bảo đảm sự tự do và độc lập đó, chứ không phải là phương tiện để chính quyền kiểm soát và áp đặt quan điểm của mình về nội dung thông tin, cũng như cách thức đưa tin và bình luận các sự kiện kinh tế, chính trị và xã hội.

Thông tin cung cấp cho công chúng không phải là những sản phẩm đã được nhào nặn và định hướng cách hiểu từ bất cứ ai và thế lực nào. Tất nhiên không tránh được sự thiên vị và suy nghĩ chủ quan của người cầm bút và chủ bút một tờ báo khi xử lý và đưa tin.

Vai trò của luật lệ về báo chí do vậy là thiết lập một hệ thống quy tắc đạo đức nghề nghiệp của nhà báo nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân và tổ chức trong xã hội.

Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo không đồng nghĩa với trách nhiệm đưa tin theo ý chí của chính quyền hoặc quan chức. Một khi tuân thủ đạo đức nghề nghiệp, nhà báo không phải sợ hãi khi thông tin mình đã đưa trái với “định hướng” hoặc đụng chạm đến cơ quan công quyền dù ở cấp nào, bởi lẽ vai trò mặc nhiên của báo chí là đưa tin và chính quyền phải tôn trọng điều đó.

Sự thật là tiêu chí tối thượng của một nền báo chí tự do và độc lập cho dù nhà báo và tờ báo phải trả giá thế nào để bảo vệ sự thật mà mình biết.

Nhà báo phải xác minh sự thật và đưa tin về điều đó. Báo chí không bao giờ được phép đưa tin sai sự thật khi biết rõ đâu là sự thật. Đấy chính là trách nhiệm quan trọng nhất của báo giới.

Vậy, với quan niệm phổ biến như vậy, liệu Việt Nam thực sự có tự do báo chí? Hỏi tức là trả lời.

“Sự thật là tiêu chí tối thượng của một nền báo chí tự do và độc lập cho dù nhà báo và tờ báo phải trả giá thế nào để bảo vệ sự thật mà mình biết”

Ai giám sát báo chí?

Khác với cách hiểu lâu nay ở Việt Nam, việc giám sát báo chí không phải của chính quyền, mà của chính báo giới và độc giả.

Như đã nói trên, nhà báo phải tuân thủ các quy tắc đạo đức nghề nghiệp được ấn định bởi luật pháp và quy tắc riêng của một tờ báo.

Có thể nói, đạo đức nghề nghiệp là cơ chế giám sát tối cao hoạt động báo chí. Cũng như nghề luật sư, những quy tắc đạo đức nghề nghiệp chủ yếu giúp giải quyết vấn đề xung đột lợi ích tài chính hay các phân tranh lợi ích khác. Mọi thiên vị dưới áp lực của tiền bạc hay quyền lực đều bị cấm đoán.

Ngoài ra, độc giả sẽ dựa vào tiêu chí sự thật để đặt lòng tin vào một tờ báo, qua đó giám sát cách thức đưa tin và bình luận các sự kiện kinh tế, chính trị và xã hội của tờ báo.

Bình luận sự kiện có thể thế này thế kia, tùy thuộc vào kinh nghiệm và kiến thức của nhà báo, nhưng cố tình bỏ sót, bịa đặt hoặc bóp méo sự kiện thực tế sẽ bị độc giả xét đoán nghiêm khắc.

Sự tự do và độc lập của báo chí không cho phép bất kỳ sự kiểm duyệt vô lý nào từ phía chính quyền dù dưới danh nghĩa thiết lập và duy trì ổn định trật tự xã hội. Mọi sự ngụy biện nhằm áp đặt sự kiểm soát tùy tiện như vậy trên thực tế sẽ thủ tiêu một nền báo chí tự do và độc lập như có thể thấy ở những thể chế độc tài và toàn trị.

Chính quyền thường lập luận rằng báo chí không bao giờ được phép đặt mình cao hơn pháp luật.

Có vẻ đúng, nhưng đó là “pháp luật” gì? Xin thưa, đó là loại “pháp luật” được đặt ra theo hướng che đậy và cho phép sự can thiệp của nhà cầm quyền vào hoạt động báo chí.

Tất nhiên, mỗi nước có quy tắc pháp lý và đạo đức khác nhau, song điều đó không có nghĩa rằng nhà cầm quyền tại một nước có quyền phớt lờ những chuẩn mực văn minh chung được toàn thế giới công nhận để biện minh cho sự kiểm duyệt báo chí một cách võ đoán của mình nhân danh luật pháp và trật tự công.

Giáo sư Jane Kirtley (người Mỹ) đã viết: “Một nền báo chí tự do cũng có thể có khiếm khuyết và đôi khi không đáp ứng được hết những gì người ta kỳ vọng về nó.”

“Nhưng những nền dân chủ đang phát triển khắp thế giới vẫn hàng ngày chứng tỏ rằng họ có đủ dũng khí và tự tin để chọn sự hiểu biết hơn là ngu dốt, chọn sự thật hơn là những thông tin tuyên truyền, bằng cách chấp nhận và áp dụng lý tưởng về báo chí tự do.”

“Sống với tự do báo chí không dễ. Nhưng tôi biết rằng tôi sẽ không thể sống nếu không có điều đó.”

Luật pháp quốc tế và quốc gia về tự do ngôn luận và tự do báo chí

Nền tảng của một nền báo chí tự do và độc lập là quyền tự do ngôn luận của công dân.

Quyền tự do ngôn luận là một quyền hiển nhiên của những ai có tư cách làm người, được hiến pháp quốc gia công nhận và ghi nhận, chứ không phải được ban phát.

Khác với Việt Nam, luật pháp các nước dân chủ nghiêm cấm quốc hội hay chính quyền thông qua các đạo luật hay đặt ra các quy định hạn chế hoặc vi phạm tự do ngôn luận và tự do báo chí, dù dưới hình thức công nhiên hay ngụy trang nào.

Tuyên ngôn Toàn cầu về Nhân quyền của Đại hội đồng Liên hợp quốc năm 1948 đã khẳng định như sau tại Điều 19: “Mọi người đều có quyền tự do có chính kiến và tự do ngôn luận; quyền này bao gồm tự do giữ các quan điểm mà không bị can thiệp, tự do tìm kiếm, tiếp nhận và chia sẻ thông tin và ý tưởng thông qua bất  kỳ phương tiện truyền thông nào và không bị giới hạn.”

Điều 10 của Công ước Châu Âu về Nhân quyền ghi nhận: “Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm quyền tự do được giữ các quan điểm, tiếp nhận và chia sẻ thông tin mà không bị can thiệp bởi chính quyền và không bị giới hạn. […]”

Ngoài ra, Công ước Châu Âu về Nhân quyền còn nêu rõ: “Việc thực hiện các quyền tự do này, do chúng bao hàm cả quyền lợi và nghĩa vụ, có thể phải chịu sự chi phối của các thủ tục, điều kiện, hạn chế hoặc hình phạt do luật pháp quy định và là điều cần thiết trong một xã hội dân chủ, vì lợi ích an ninh quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, hay an toàn xã hội, nhằm ngăn ngừa tội phạm, mất trật tự xã hội, nhằm bảo vệ sức khỏe, tinh thần, bảo vệ thanh danh hay quyền của những người khác, nhằm ngăn ngừa việc phát tán thông tin mật, bảo đảm thẩm quyền và tính không thiên vị của ngành tư pháp.”

Như vậy, luật pháp quốc tế bảo đảm quyền tự do ngôn luận dù cũng thừa nhận một số cơ sở pháp lý để nhà nước hạn chế tự do ngôn luận nhằm bảo vệ các lợi ích xã hội và cá nhân chính đáng.

Mọi người đều có quyền tự do có chính kiến và tự do ngôn luận; quyền này bao gồm tự do giữ các quan điểm mà không bị can thiệp, tự do tìm kiếm, tiếp nhận và chia sẻ thông tin và ý tưởng thông qua bất kỳ phương tiện truyền thông nào và không bị giới hạn.” – Điều 19 Tuyên ngôn Toàn cầu về Nhân quyền của Đại hội đồng LHQ1948

Nhiều công ước, hiệp ước và tài liệu quốc tế khác đều công nhận tương tự về quyền tự do ngôn luận, đặc biệt là Công ước Quốc tế về Quyền Dân sự và Chính trị. Dù có thể khác nhau về ngôn ngữ cụ thể song tất cả đều thừa nhận tự do ngôn luận là quyền cơ bản của con người.

Hiến pháp của các quốc gia cũng công nhận quyền tự do ngôn luận.

Chẳng hạn, Điều 25 của Hiến pháp Vương quốc Bỉ năm 1831 ghi rõ: “Báo chí được tự do; không bao giờ được thiết lập sự kiểm duyệt nào; không được yêu cầu an ninh từ các tác giả, các nhà xuất bản và các nhà in. Khi tác giả của một tác phẩm báo chí được biết rõ và đang cư trú ở Bỉ, không được truy tố nhà xuất bản, nhà in hay nhà phát hành.”

Luật pháp quốc tế và quốc gia về tự do thông tin

Bên cạnh tự do ngôn luận, các công ước, hiệp ước và tài liệu quốc tế cũng công nhận tự do thông tin như là quyền cơ bản của con người. Tự do thông tin là quyền hợp hiến tại khoảng 80 quốc gia trên thế giới. Tất nhiên, tại nhiều nước, đặc biệt là Việt Nam, các nhà báo vẫn gặp khó khăn trong việc thực hiện quyền tự do thông tin của mình.

Luật Báo chí Thụy Điển năm 1766 được xem là bộ luật đầu tiên về tự do thông tin. Nhiều nền dân chủ đang phát triển ở Đông Âu và Mỹ châu La Tinh cũng đưa quyền tự do thông tin vào hiến pháp của mình.

Cũng như ở hầu hết các nước trên thế giới, tại Mỹ mọi công dân đều có thể yêu cầu tiếp cận thông tin theo Đạo luật Tự do Thông tin năm 1966, theo đó mọi người trên thế giới đều có quyền truy cập thông tin tại Mỹ theo luật pháp Mỹ, mà không cần phải là công dân Mỹ hay thường trú nhân ở Mỹ.

Tất nhiên, dù công nhận quyền tự do thông tin, luật về tự do thông tin tại các quốc gia đều ấn định các trường hợp ngoại lệ, theo đó một số loại thông tin mật không thể công bố rộng rãi. Chẳng hạn, những thông tin liên quan đến đời sống riêng tư của người khác thuộc loại mật mà báo chí phải tôn trọng.

Luật pháp Việt Nam về tự do ngôn luận, tự do báo chí và tự do thông tin

Hiến pháp Việt Nam năm 2013 quy định tại Điều 25 rằng: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định.”

Tuy nhiên, hành xử thực tế của chính quyền thường lệch lạc so với những tuyên bố hoa mỹ.

Nhà nước Việt Nam thường bào chữa cho việc áp dụng những nguyên tắc quốc tế theo cách riêng của mình nhằm hạn chế quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí.

Tuy vẫn dẫn chiếu những điều khoản trong các công ước, hiệp ước và tài liệu quốc tế khác mà Việt Nam tham gia ký kết, nhưng họ luôn tìm cách giải thích theo ý riêng và tự đặt ra những quy định hạn chế và tước đoạt các quyền của người dân theo những điều ước quốc tế đó.

Quả thật, câu cuối của Điều 25 Hiến pháp Việt Nam năm 2013 (ghi rằng “việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”) là minh chứng cho cách sử dụng những quy định luật pháp, dưới hiến pháp, để hạn chế và tước đoạt quyền tự do ngôn luận của công dân.

 

Blogger Phạm Viết Đào hôm 19/3 đã bị tuyên án tù 15 tháng với tội danh chống phá nhà nước

Tệ hại hơn, Bộ Luật Hình Sự Việt Nam, đặc biệt là các Điều 88 (quy định về “Tội tuyên truyền chống Nhà nước Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam”), Điều 258 (quy định “Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”), Điều 263 (quy định về “Tội cố ý làm lộ bí mật Nhà nước”) và Điều 264 (quy định về “Tội vô ý làm lộ bí mật Nhà nước”), từ nhiều năm nay được sử dụng làm công cụ pháp lý để chính quyền bắt giam những ai công khai thực thi quyền tự do ngôn luận của mình bằng cách đưa và bình luận các tin tức mà chính quyền không muốn công chúng biết.

Mặt khác, luật tiếp cận thông tin vẫn chưa có nên dự án luật đang được Bộ Tư pháp chủ trì soạn thảo và có thể được trình vào năm 2016.

Tuy nhiên, một văn kiện pháp quy là Nghị Định số 72/2013/NĐ-CP ngày 15/7/2013 được Chính phủ ban hành năm vừa rồi đã bị chỉ trích kịch liệt bởi dư luận trong và ngoài nước, bởi đó là văn kiện pháp lý đầu tiên công khai ấn định những rào cản đối với quyền trao đổi và tiếp cận thông tin của mọi thành phần trong xã hội.

Kết luận

Bài xã luận mang tựa đề “Điều trần … một phía, làm sao khách quan?” đăng trên báo Quân đội Nhân dân Online số Chủ nhật, ngày 27/04/2014, có đoạn viết: “Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tiếp tục khẳng định, mở rộng hơn quyền tự do báo chí. Xét cả về số lượng và chất lượng, Việt Nam đang có một nền báo chí phát triển và thực hiện tốt tự do báo chí.”

Quả thật, các bản hiến pháp Việt Nam trải qua các thời kỳ đều ghi nhận quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí.

Tuy nhiên, điều đó chỉ có ý nghĩa nếu nhà cầm quyền thực tâm tôn trọng quyền hiến định này mà không cố tình tạo ra những giới hạn về phương diện pháp lý nhân danh “an ninh quốc gia” (mà kỳ thực là an ninh của đảng cầm quyền).

Số lượng tờ báo trên cả nước hoàn toàn không có giá trị gì khi tất cả đều chỉ đưa tìn theo định hướng của chính quyền.

Biện minh về tự do báo chí nếu chỉ dựa trên số lượng và chất lượng các tờ báo, thì đơn thuần là sự ngụy biện không hơn không kém. Vấn đề chính của quyền tự do ngôn luận là người dân có được tự do “mở miệng” mà không bị bộ máy công an quấy nhiễu hay không mà thôi.

Bài viết thể hiện quan điểm và cách hành văn của tác giả, một cựu tù nhân chính trị hiện đang sống tại Saigon