Căn bệnh kiêu ngạo cộng sản

Cac Bai Khac

No sub-categories

Căn bệnh kiêu ngạo cộng sản

 

Nguyễn Cao Quyền (Danlambao) – Kiêu ngạo cộng sản là bệnh do chính miệng của Lenin nói ra. Bệnh này gồm hai thành tố. Thành tố thứ nhất là sự ngu dốt chậm tiến không theo kịp đà tiến hóa của nhân loại. Thứ hai là sự ham thích bạo lực, từ thời Trung Cổ để lại, vẫn còn tồn tại. Hai thành tố này hợp lại thành bản chất của những người lãnh đạo cộng sản, từ khi chủ nghĩa này xuất hiện.
Mỗi khi cướp được chính quyền tại một nơi nào những người cộng sản thường vênh mặt khoe rằng “cách mạng” của họ đã thành công”. Và khi cách mạng của họ đã thành công rồi thì các nhà chính trị “ăn cướp” này thường bất chấp pháp luật. Họ quan niệm rằng họ đủ tài năng để lãnh đạo ngành tư pháp, sẽ bắt buộc ngành tư pháp phục vụ triệt để chính trị mà không cần đến những nguyên tắc căn bản của pháp lý.
Kết qủa là chẳng bao lâu bộ máy tư pháp trở thành hư hỏng. Không những nó không củng cố được tình hình mới mà còn gây nhiều khó khăn cho “cách mạng”. Hơn bất cứ dân tộc nào khác, dân tộc Việt Nam đã có rất nhiều kinh nghiệm và đồng thời cũng đã chịu rất nhiều hậu quả đau thương do sự sai lầm nghiêm trọng này gây ra.
Ai đã sống qua thời Việt Minh, chắc chắn còn nhớ rằng hồi đó họ đưa ra khẩu hiệu “Thà mười người bị chết oan còn hơn một địch sống sót”. Hậu qủa là họ giết người văng mạng và hành động vô lý này, qua cuộc “Cải cách ruông đất” đã làm thiệt mạng khoảng 500.000 người. Uy tín của họ từ đấy bị sút giảm trầm trọng.
Cũng một vấn đề này nhưng trong một chế độ pháp trị thì khác hẳn: “Thà bỏ sót mười địch còn hơn một người bị chết oan”. Mười kẻ địch còn sót không phải là vấn đề cần lo lắng vì khi đã nắm được chính quyền thì sẽ không có địch nào thoát được. Không cần phải so sánh ta cũng thấy là khẩu hiệu “pháp trị” hơn hẳn vì theo khẩu hiệu này thì không ai bị chết oan cả.
Đây là một căn bệnh chung của các chế độ cộng sản. Lenin đã lên án nặng nề cái bệnh ấu trĩ chậm tíến này nhưng cũng không đâu chữa được. Hậu quả là trên thế giới hàng trăm triệu người đã bị chết oan. Lý do là vì những người cộng sản đã không biết đưa ra giải pháp pháp lý để điều hòa với giải pháp chính trị trong việc trị nước an dân ngõ hầu vừa tôn trọng đạo lý dân tộc vừa tôn trọng sinh mạng con người.
Người dân trong xã hội cộng sản nào cũng phải cắn răng chịu đựng những lỗi lầm nghiêm trọng của giai cấp lãnh đạo. Lỗi lầm của họ là do đâu? Tất cả có ba lý do: thứ nhất, quan điểm bạn thù của họ rất mơ hồ; thứ hai, người cộng sản nào cũng bất chấp pháp luật; thứ ba, người cộng sản nào cũng bất chấp chuyên môn.
Quan điểm bạn thù mơ hồ 
Hiện tượng “ta lại giết ta” là một hiện tượng thông thường trong các chế độ cộng sản. Trong xã hội Việt Nam thì qua cuộc Cải Cách Ruộng Đất ta đã thấy biết bao nhiêu chiến sĩ bảo vệ chế độ, với huy chương gắn đầy ngực, đã bị kết án là phản động và bị hành hình. Đó là không nói gì đến số quần chúng bị hy sinh oan uổng. Làm như vậy, thử hỏi còn gì là lý tính.
Tại sao họ lại làm như vậy? Câu trả lời là: họ không phân biệt được giữa bạn và thù và đây là một điều cực kỳ quan trọng. Nguyên do là họ đã được nhồi nhét một tinh thần cảnh giác quá khích đến nỗi mù quáng mà Lenin gọi là bệnh “ấu trĩ cách mạng”. Bệnh này được thể hiện trên thực tế trong quan điểm bạn thù rất mơ hồ. Và suốt trong quá trình phát sinh và phát triển của hiện tượng cộng sản căn bệnh này không nơi nào chữa khỏi. Nói khác, không một người cộng sản nào bất cứ ở đâu, đã có được sự trưởng thành chính trị.
Bất chấp pháp luật
Trong trường hợp những cuộc đảo chính thành công như trường hợp của Việt Minh, chính trị say sưa với thắng lợi thường lâm vào tình trạng tự mãn và bao biện. Họ không hiểu rằng xây dựng một chính quyền mới là một việc vô cùng khó khăn chứ không dễ dàng như những khi xuống đường hô khẩu hiệu.
Nếu nhà chính trị tiếp tục bao biện thi chắng chóng thì chầy sẽ xảy ra những hiện tượng oan trái làm người ta đau sót. Trên con đường bao biện các nhà chính trị cộng sản cho rằng pháp lý chỉ là cái gậy chọc bánh xe, nhưng họ không hiểu rằng chính pháp lý giúp xe khỏi lật và khỏi gây tại nạn. Nguy hại hơn nữa khi chính trị ngồi trên pháp luật thì trường hợp này tạo ra thói quen độc đoán, thói quen lộng quyền, nghĩa là thói quen hành động tùy tiện từ phía những người lãnh đạo. Lộng quyền là một hành động phi pháp không thể không trừng phạt.
Bất chấp chuyên môn
Các nhà chính trị cộng sản thường bất chấp luật pháp nhưng nếu họ hỏi ý kiến những nhà chuyên môn thì những người này cũng yêu cầu họ dùng luật pháp để phục vụ chế độ. Cộng sản đã chiếm lĩnh tất cả các khu vực trong nhận thức con người, dẫn họ đến tình trạng chối bỏ chân lý. Nhưng chân lý thì cho biết rằng chính trị không thể nào thay thế được chuyên môn vì không thể làm được việc của chuyên môn mà luật pháp thì nằm trong lãnh vực của chuyên môn.
Trong chế độ cộng sản, chính trị đã chèn ép chuyên môn như thế nào, đã xua đuổi những người trí thức ra ngoài hệ thống chính quyền ra sao, kinh nghiệm đau đớn này tất cả mọi người đều đã biết. Lãnh đạo cộng sản đã cố tình ném vào thùng rác tiêu cực cái vốn chuyên môn của anh em trí thức. Với những động thái thuộc loại này chính quyền cộng sản đã dần dần xa rời quần chúng. Tình trạng này đã khiến những người lãnh đạo cộng sản đi vào tệ quan liêu, mệnh lệnh, hẹp hòi, độc đoán, độc tài. Nói khác là thiếu dân chủ.
*
Phương pháp để sửa chữa sai lầm nói trên là thiết lập một chế độ pháp trị chân chính và một chế độ dân chủ theo đúng nghĩa.
 
Một chế độ pháp trị chân chính
Đối với Việt Nam ngày nay vấn đề không phải chỉ là tăng cường chế độ pháp trị mà phải là xây dựng chế độ pháp trị. Nhân dân đòi hỏi những người có công phải được thưởng và những người có tội phải đền tội. Trách nhiệm của tất cả mọi người từ dưới lên trên và từ trên xuống dưới phải được quy định rứt khoát. Như thế mới yên được lòng dân và thu phục được nhân tâm. Kinh nghiệm lịch sử khổ đau đã dạy CSVN điều ấy.
Kinh nghiệm đau đớn của dĩ vãng đòi hỏi họ phải xây dựng lại quan điểm “thù địch” trên cơ sở pháp lý và pháp trị. Các đau khổ trong dĩ vãng cũng như trong thời điểm ngày nay bắt ngồn từ một quan điểm chính trị về “địch”. Họ cần phải xác định rõ ràng trong hình luật thế nào là “địch”. Có như thế họ mới đánh đúng “địch”, mới ổn định được nhân tâm, thực hiện được đoàn kết giữa các tầng lớp nhân dân, bảo đảm được cho quần chúng một đời sống tự do, thoát khỏi mọi đe dọa của lộng quyền, bênh vực được các quyền căn bản và thiết yếu của con người.
Một chế độ dân chủ theo đúng nghĩa
Mặc dầu nói chuyện dân chủ với tập đoàn lãnh đạo CSVN chỉ là nước đổ đầu vịt nhưng những dòng viết này chủ yếu là để cống hiến những người dân đang bị đàn áp trong nước. Phải nói lên để anh chị em hiểu rõ những nét cần nắm bắt của một nền dân chủ theo đúng nghĩa.
Một nền dân chủ theo đúng nghĩa phải là một chế độ trong đó người dân được làm chủ trên đất nước, kkông những trong hiến pháp mà cả trên thực tế nữa. Dân chúng cần được đàm thoại với lãnh đạo để thông tri cho họ biết ý kiến của mình về chính sách do lãnh đạo xây dựng. Nếu lãnh đạo chỉ tiếp xúc với quần chúng qua báo cáo của cán bộ đảng viên mà thôi thì quả là thiếu sót và thiếu sót này nhất định đưa đến sai lầm, những loại sai lầm nghiêm trọng như ta thấy trong trường hợp của Việt Nam.
Một chế độ dân chủ theo đúng nghĩa đòi hỏi:
Thứ nhất, những báo cáo trung thực của cán bộ. Cán bộ nào cố ý xuyên tạc sự thật vì động cơ bất chính phải bị truy tố về tội giả mạo trước toà án và phải bị trừng phạt theo luật pháp nếu tội giả mạo đó được toà xác nhận.
Thứ hai, các ủy viên Mặt Trận phải có trách nhiệm phản ánh lên Mặt Trận ý kiến của quần chúng. Mặt Trận phải đệ đạt lên lãnh đạo phản ánh của các ủy viên và thông tri về các ủy viênthái độ của lãnh đạo trong việc giải quyết vấn đề. Khi Mặt Trận họp hội nghị phải cho quần chúng đến bàng thính để quần chúng kiểm soát công việc của Mặt Trận và thái độ của các uỷ viên. Báo chí phải phản ánh trung thực nội dung của các cuộc thảo luận.
Thứ ba, một chế độ tự do ngôn luận. Quần chúng phải được nói lên tiếng nói của mình qua báo chí và báo chí phải được tự do xuất bản.
*
Gần một thế kỷ qua, nhân loại đã nếm trải biết bao đau đớn khổ cực chỉ vì thảm họa “đối đầu”.
Người ta tận dụng mọi thủ đoạn để lừa dối nhau vào thế thù địch. Kẻ thù đó có khi lại là chính cha mẹ, anh em ruột thịt cuả mình.
Sau khi Chiến Tranh Lạnh chấm dứt nhân loại hy vọng được sống trong hòa bình và thế giới nhận ra “nhân quyền” là tín hiệu chung của mọi người. Nhân quyền được xem như một bằng chứng để thế giới căn cứ vào đó mà thiết lập mọi tương quan giữa người với người, giữa dân chúng với chính quyền, giữa quốc gia với quốc gia. Có thể thế giới vẫn chưa hoàn hảo tuyệt đối nhưng không thể còn ai chấp nhận có thứ nhân quyền này khác với nhân quyền khác.
Nhân loại đều đã mặc nhiên lựa chọn : kinh tế thị trường, tự do chính trị và dân chủ pháp trị để cùng nhau đi vào con đường phát triển hoà bình. Con đường dân chủ pháp trị là con đường được thế giới tiếp tay. Vì thế luật pháp phải là quyền lực cao nhất. Chính quyền chỉ làm theo luật và bị luật chế tài. Người CSVN hãy mau thức tỉnh./.
Tháng 5 năm 2016

—————

Căn bệnh kiêu ngạo cộng sản

27 Tháng Mười Hai 201312:00 SA(Xem: 134)

50Vote
40Vote
30Vote
20Vote
10Vote
00

Dân gian ta vẫn thường nói: “Có tài, có tật”. Tức là có ý nói : những người có tài ba lỗi lạc hơn người khác, thì thường hay có tật kiêu ngạo, ỷ cậy vào tài năng của mình mà đâm ra ngạo mạn khinh thường người khác. Người cộng sản vốn tự cho mình là “ những người tiến bộ, đi theo đúng đường lối phát triển của Lịch sử”, cho nên họ thường chê bai những người khác là “lạc hậu, phản tiến bộv.v..”

Cụ thể là ông Karl Marx, cha đẻ của chủ thuyết cộng sản, thì ông ấy là một con người có trí tuệ thông minh siêu đẳng, thông thạo cả về Triết học, Kinh tế học và Xã hội học vào hồi giữa thế kỷ XIX, tức là cách đây cỡ 150 năm. Ông ta chê tất cả các triết gia là chỉ biết tìm cách “giải thích thế giới, chứ không biết làm sao để thay đổi thế giới”. Cho nên chỉ có một mình ông và các người theo ông ta, thì mới chủ trương “một cuộc cách mạng triệt để, tòan diện nhằm biến cải bộ mặt thế giới”, chứ không như những ai chỉ biết “ thực hiện những chuyện cải lương chắp vá vặt vãnh” như thường xảy ra ở Âu châu vào thời đó.

Qua thế kỷ XX, với cuộc cách mạng Bolchevik thành công ở nước Nga kể từ năm 1917, thì các môn đệ của Marx là Lenin, Stalin, Mao trạch Đông v.v… đã đưa chủ thuyết Marxist lên thành một giáo điều độc tôn duy nhất, với chủ trương “ bạo lực cách mạng, đấu tranh giai cấp, chuyên chính vô sản v.v…” khiến gây ra không biết là bao nhiêu cuộc tàn sát, tiêu diệt hàng trăm triệu con người ở khắp nơi. Riêng ở Trung quốc, thì ông Mao còn kết hợp với khẩu hiệu “thế thiên hành đạo” (thay trời mà hành động) của nhóm Anh hùng Lương sơn bạc ngày xưa, để mà tha hồ tác ai tác quái trong nước và truyền lại cái kinh nghiệm “cách mạng đẫm máu” này cho đảng cộng sản đàn em ở Việt nam. Vì thế mà tại nước ta, từ 50 năm trước đã có một cuộc “cải cách ruộng đất long trời lở đất”, tàn sát đến mấy trăm ngàn thường dân ở miền Bắc, và gây ra không biết bao nhiêu thống khổ xáo trộn cho xã hội, mà cho đến nay vẫn chưa làm sao phục hồi ổn định lại được.

Giới lãnh đạo cộng sản VN còn tự ví mình là “Đỉnh cao trí tuệ loài người”, là “Lương tâm của thời đại”. Họ còn cho treo các lọai khẩu hiệu như: “Chủ nghĩa Mác Lênin bách chiến bách thắng”, “Đảng cộng sản VN là người tổ chức mọi thắng lợi” v.v…Ông Thủ tướng Phạm văn Đồng còn dõng dạc tuyên bố với các ký giả quốc tế là : “Chúng tôi là những người làm ra lịch sử”.

Vì thế chính những người cán bộ cộng sản còn chút liêm sỉ đã phải thốt ra rằng : Đây là cái căn bệnh “kiêu ngạo cộng sản”, tự coi mình vượt lên trên tất cả mọi người khác, và giới lãnh đạo thì luôn luôn là “tuyệt đối đúng, không bao giờ sai lầm được”…

Dưới đây, ta sẽ phân tích chi tiết hơn về cái căn bệnh quái ác này, dựa vào những nhận định đánh giá của một số nhân vật có thẩm quyền và đáng tin cậy trong lãnh vực khoa học xã hội cũng như về tư tưởng triết học.

Trước hết, phải kể đến Bertrand Russell, một bộ óc siêu việt của thế kỷ XX. Ông là người có khuynh hướng tả phái, gây khó chịu cho chính quyền nước Anh cũng như nước Mỹ. Ấy thế mà trong bài “Tại sao tôi không là người cộng sản?” (Why I am not a communist?), ông viết về Karl Marx đại khái như sau :” Ông Marx bài xích thậm tệ những người có quan điểm khác với mình. Ông ta và các môn đệ không hề có sự khoan dung nào đối với người có lập trường bất đồng với mình…” Vì là người Anh, nên ngay từ hồi còn trẻ, Bertrand Russell đã có cơ hội theo dõi tư tưởng của Marx ngay lúc ông này còn sinh sống tại nước Anh. Do vậy mà Russell hiểu rất rõ về Marx và nhất là các môn đệ như Lenin, Stalin là người cùng lứa tuổi với mình. Như vậy, rõ rệt là các vị sáng lập ra Phong trào cộng sản đã không hề có thái độ “Quân tử hòa nhi bất đồng”, mà chỉ có sự “bất hòa đối với người bất đồng với mình” mà thôi. Và từ đó, khi họ có quyền bính trong tay, thì đã thẳng tay tiêu diệt những người đối lập với họ, và đã gây ra bao nhiêu cuộc tàn sát đẫm máu kinh hòang chưa từng thấy trong lịch sử nhân lọai.

Người kế tiếp là Nicolas Berdiaeff, một triết gia người Nga đồng thời với Lenin. Ông được Boris Pasternak, nhà văn nổi tiếng với giải thưởng Nobel về văn chương với tác phẩm Doctor Zivago, tôn vinh là bậc sư phụ. Trong cuốn sách nổi tiếng “Cội nguồn của chế độ cộng sản Nga” ( Les Origines du Communisme Russe), Berdiaeff có viết là “Ông Lenin là người chuyên làm mọi sự biến thành man rợ, thô lỗ” (nguyên văn tiếng Pháp : rudoyer les choses). Mà đến Stalin, thì còn tệ hại hơn nữa.

Và rồi đến lượt chính Pasternak đã phải viết về chế độ Xô viết vào những năm 1930-40 dười thời Stalin trong một câu thơ như sau : “Tất cả chỉ là giả dối, giả hình !” (tiếng Pháp : Tout n’est que pharisianisme! Đây là từ ngữ thường dùng trong Kinh Thánh “Pharisee” để chỉ loại người biệt phái kênh kiệu, giả hình).

Một lãnh tụ cộng sản cao cấp ở Nam Tư là Milovan Djilas, người từng là nhân vật thứ hai đứng sau Thống chế Tito, đã phải viết trong cuốn sách thời danh “Giai cấp mới” (La Nouvelle Classe) rằng : Đó không phải là nền chuyên chính của giai cấp vô sản, mà đó là “Nền chuyên chính đè lên đầu, lên cổ giai cấp vô sản” (tiếng Pháp : C’est une dictature sur le proletariat).

Trở lại với chế độ cộng sản ở nước Việt nam chúng ta, thì các lãnh tụ như Trường Chinh, Lê Duẫn, Lê đức Thọ v.v…, thì cũng đều huênh hoang dương dương tự đắc, coi thiên hạ mọi người chẳng ra chi chi cả. Trường Chinh được coi là lý thuyết gia cùa đảng, đã có lần tuyên bố : “ Chế độ của ta ở Việt nam thì dân chủ gấp cả triệu lần hơn so với các nước ở phương Tây”!

Không ai chối cãi là những người cộng sản lão thành này, khi tham gia vào phong trào tranh đấu chống thực dân Pháp vào những thập niên 20-30- 40 của thế kỷ XX, thì họ theo đuổi lý tưởng yêu nước, giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ của thực dân Pháp. Lúc đó, họ cũng giống như nhà ái quốc Nguyễn Thái Học, cũng đứng chung trong hàng ngũ chống thực dân đế quốc. Nhưng đến năm 1945, khi nắm được chính quyền trong tay của mình rồi, thì họ lại tìm mọi thủ đọan hầu tiêu diệt, hạ sát mọi thành phần yêu nước khác, mà chỉ mấy năm trước đó đã là đồng đội của họ trong cuộc tranh đấu chống thực dân, để giành lại độc lập cho xứ sở. Và rồi lần hồi, đảng cộng sản đã thiết lập được một chế độ độc tài tòan trị (totalitarian dictatorship), theo đúng mô hình của Liên Xô và Trung quốc, trên quê huơng đất nước chúng ta. Rốt cuộc, họ càng ngày càng sa đọa, ngoan cố trong đủ mọi thứ âm mưu đen tối, đê tiện nhằm củng cố chế độ độc quyền lũng đọan trong mọi lãnh vực chính trị, kinh tế, xã hội và cả văn hóa tư tưởng nữa.

Và kể từ năm 1989 với sự sụp đổ của cộng sản ở Đông Âu và sự giải thể của Liên bang Xô viết, thì giới lãnh đạo ở Hanoi vẫn rất mực ngoan cố bấu víu vào Trung cộng mà mới trước đó họ coi là kẻ thù, “bè lũ bành trướng phương Bắc”, để mà giữ vững chính quyền trong tay của đảng mình.Và gần đây, Hanoi lại còn cam bề nhượng bộ cho đàn anh Trung quốc xâm lấn đất và biển do cha ông đã bao nhiêu đời khai phá, bảo vệ và truyền lại cho thế hệ chúng ta ngày nay. Rõ ràng là giới lãnh đạo cộng sản ở Hanoi hiện nay, thì họ đang chủ trương “thà mất nước, chứ không thà mất đảng”. Họ đang đặt quyền lợi riêng của đảng cộng sản lên trên quyền lợi của Tổ quốc. Đây chính là cái tội bán nước, cái tội tầy đình nhục nhã mà lịch sử dân tộc sẽ không thể nào dung thứ cho được.

Rồi đến cái vụ cướp ruộng, cướp đất của hàng triệu dân oan tại khắp nơi trên mọi miền của nước ta, khiến gây ra bao nhiêu thống khổ đau đớn tủi hờn cho các gia đình ở nông thôn.Thành ra chính quyền cộng sản bây giờ đã trở thành một thứ “Kẻ thù nội xâm” của dân tộc chúng ta. Họ đã tịch thu tài sản cuả các tổ chức xã hội dân sự như hôị hướng đạo,cuả các tổ chức tôn giáo như Công giáo, Phật giaó, Tin Lành, Cao Đaì, Hoà Haỏ, cuả các tổ chức chính trị như Quốc Dân Đảng, Đại Việt v.v… Vì thế mà vừa đây, ngay giữa thủ đô Hanoi, họ phải dở moị thứ trò đê tiện như dùng cả đến bọn du côn để cản phá việc các giáo dân tranh đấu ôn hoà để đòi lại khu đất Thái Hà, Toà Khâm sứ. Họ phải làm như vâỵ, vì họ sợ “Hiệu ứng Domino”, tức là nếu phải trả lại đất cho bên Công giáo, thì cũng phaỉ trả laị cho tất cả các tôn giáo khác, các tổ chức thuộc khu vực xã hội dân sự, cũng như cho các sắc dân thiểu số khác ở các vùng cao nguyên. Cũng như phaỉ trả lại đất đai cho hàng triệu dân oan khắp nơi trên toàn quốc nưã. Các tài sản này họ đã tẩu tán chia chác cho nhau từ trên nửa thế kỷ nay rồi, vậy thì làm sao mà trả lại được nữa đây? Vì thế họ phải dùng đến “thủ đoạn ly gián, chia để trị”, bằng cách gây mâu thuẫn trong nôị bộ cuả mõi tôn giáo, cũng như giữa tôn giáo này vơí tôn giáo khác v.v… 

Lại nữa, trước áp lực cuả nạn lạm phát đang làm điêu đứng bao nhiêu triệu ngươì dân, kể cả gia đình các cán bộ đảng viên cấp dưới. Rôì đến sự bất mãn ngay trong hàng ngũ đảng viên trước sự “Bán đất, bán biển cho đàn anh Trung quốc” và nhất là phản ứng mãnh liệt cuả giới trẻ vốn có lý tưởng yêu nước, thương nòi không chấp nhận cái sự sa đoạ, tham nhũng thối nát cuả giới cầm quyền, cái vụ tráo trở lật lọng cuả cán bộ các cấp. Cho nên, giới lãnh đạo mơí tạo ra “một số kẻ thù tưởng tượng” để hòng “đánh tráo dư luận, đánh lạc hướng cái mũi dùi cuả phong trào tranh đấu đòi công bằng xã hội, đòi đất đòi nhà cuả quần chúng nhân dân” mà hiện nay mỗi ngày một thêm phát triển rộng lớn cùng khắp các nơi trên cả nước. Họ đã không từ một thứ hành vi thủ đoạn hèn hạ bỉ ổi nào, miễn sao baỏ vệ được đặc quyền đặc lơị cuả cái tập đoàn “mafia “ cuả họ mà thôi.

Cái tình trạng bế tắc, sa đọa này thật là đã đến giai đọan “hết thuốc chữa” (incurable), mà Ông Boris Yeltsin vị Tổng thống đầu tiên của nước Nga “hậu cộng sản”, đã phải nói rằng : “Không thể làm cách nào mà sửa sai, chỉnh đốn được chế độ cộng sản được nữa. Mà chỉ còn có một cách duy nhất, tức là “thay đổi nó đi mà thôi”.

Thật là điều đau buồn, đáng tiếc cho dân tộc chúng ta khi người cộng sản đã du nhập vào đất nước Việt Nam cái chủ thuyết ngọai lai tàn bạo đầy sắt máu đó, khiến làm xóa bỏ tòan bộ cái truyền thống nhân bản, nhân ái tốt đẹp từ bao nhiêu thế hệ của cha ông chúng ta. Họ đã “lấy óan báo óan”, cho nên cái oan khiên, thù hận mỗi ngày càng chồng chất thêm mãi trong nội bộ gia đình dân tộc chúng ta mà thôi. Rõ ràng là khi dành được độc quyền hành động rồi, thì người cộng sản đã suy thoái, sa đọa đến hết mức rồi, đúng như người Pháp thường nói : “Quyền hành tuyệt đối thì làm hư hỏng, sa đọa tuyệt đối” (Le pouvoir absolu corrompt absolument).

Để kết thúc bài viết đã khá dài này, tôi xin phép được nêu lên một câu hỏi. Đó là: “Người cộng sản thì ngoan cố, kiêu căng như vậy. Thế còn về phía chúng ta là những người bất đồng, đối lập với chế độ độc tài chuyên chế của cộng sản, thì liêu “chúng ta có mắc phải cái bệnh kiêu ngạo tương tự như của người cộng sản hay không?”

Câu hỏi này xin được dành cho tất cả quý thức giả trả lời vậy. Người viết mong nhận được sự phản hồi của quý bạn đọc. Xin thành thật cảm ơn trước.

Đoàn Thanh Liêm

Theo Đàn Chim Việt