Tin Biển Đông -18/01/2017
Bài học từ cuộc hải chiến Hoàng Sa
Lê Vĩnh TrươngQuỹ Nghiên cứu Biển Đông
Ngày 19/1/1974 Trung Quốc tấn công quân đội Việt Nam Cộng Hòa đồn trú tại quần đảo Hoàng Sa và chiếm trọn quần đảo này từ ngày đó đến nay.
Hành động tấn công này là đỉnh điểm của nhiều bước đi và toan tính từ trước, cũng như mang lại những hệ quả về sau.
Có một số điều có thể điểm lại để tham khảo ngày hôm nay:
Thứ nhất, điểm đặc biệt của hành động này là tính dễ nhận thấy, rất lộ liễu so với các hành động thù địch của Bắc Kinh đối với Việt Nam nói chung và Bắc Việt nói riêng trước đây.
Những hành động thôn tính hay gây ảnh hưởng thực chất đã diễn ra từ trước 1949 kéo dài đến Hiệp định Geneva 1954, Cải cách Ruộng đất 1956, song tất cả đều không phải dễ nhận thấy với mọi người – ít nhất trong điều kiện thông tin thời trước.
Riêng việc xâm chiếm Hoàng Sa đã là một điển hình xâm lăng rõ ràng và không thể chối cãi.
Sự kiện Hoàng Sa thực sự đã phơi bày hành vi xâm lăng ở mức hiển nhiên và nghiêm trọng.
Đây cũng là một điều đáng quan tâm đối với giới khoa học và quân sự của Việt Nam.
Thứ hai, hành động chiếm đóng Hoàng Sa đã mang một nhận thức mới đến người Việt Nam ở các quan điểm chính trị khác biệt rằng không có tình đồng chí ý thức hệ, không có tình chiến hữu thế giới tự do, chỉ có sự ưu tiên vì lợi ích dân tộc vượt lên trên và lắng đọng tại cột mốc lịch sử này.
Từ đó, những nhà hoạch định chính sách có đánh giá mới về Trung Quốc, Hoa Kỳ và tương quan lực lượng của Việt Nam giai đoạn hậu Thông cáo Thượng Hải 1972, khi Henry Kissinger và Richard Nixon cùng Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai nâng cốc thỏa thuận trên đầu hai nước Việt Nam.
Ưu tiên cho lợi ích dân tộc từ sự kiện Hoàng Sa 1974 cũng chính là khuynh hướng mới trong vận hành những cỗ máy chính trị dù dưới màu áo nào đi nữa.
Lợi ích dân tộc một mặt sẽ quyết định tính chính danh của nhà cầm quyền và mặt khác là ngọn lửa dễ bùng dậy dẫn đến chủ nghĩa dân tộc cực đoan.
Thứ ba, xâm chiếm Hoàng Sa, Trung Quốc có một tiền đồn có vị trí địa lý quan trọng có thể tận dụng dòng chảy-khí hậu biển Đông: dòng hải lưu Luzon-Đài Loan mang cá, tôm, ấu trùng cá con, san hô vào đến khu vực Hoàng Sa. Một phần tụ bám lại đây, phần còn lại trôi về Nam Trung Bộ Việt Nam tạo nên sự đa dạng sinh học biển, ngư trường và cảnh quan.
Vị thế tàu bè Bắc Nam của Việt Nam khi đi qua khu vực này hầu như sẽ dễ bị kiểm soát.
Thứ tư, bài học thất thủ Hoàng Sa đã được tiếp nhận nhiều chiều và nhưng không hẳn là thấu suốt. Bài học này gợi ý cho Bắc Việt tiếp quản Trường Sa thật nhanh ngày 4/4/1975 song nước Việt Nam thống nhất vẫn sảy chân tại Gạc Ma 18/3/1988, mất cảnh giác tại Bauxite Tây Nguyên, rừng đầu nguồn, bãi biển Đà Nẵng và những vị trí địa chiến lược khác, vốn không dễ thấy và dễ biết như việc Hoàng Sa thất thủ.
Trung Quốc luôn tấn công Việt Nam với yếu tố bất ngờ vào các thời điểm lễ Tết 19/1/1974, 17/2/1979 và 18/3/1988 và khi nội bộ Việt Nam suy yếu, mất cảnh giác nhất.Lê Vĩnh Trương
Trung Quốc luôn tấn công Việt Nam với yếu tố bất ngờ vào các thời điểm lễ Tết 19/1/1974, 17/2/1979 và 18/3/1988 và khi nội bộ Việt Nam suy yếu, mất cảnh giác nhất.
Việc xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa cho Trung Quốc một lợi thế chiến lược quan trọng nhưng đồng thời cũng làm lộ rõ ý đồ của Bắc Kinh và cảnh tỉnh thế giới.
Nó là mắt xích quan trọng trong chiến lược của Trung Quốc: xác lập đường chữ U và các hành động bành trướng tại Trường Sa sau này.
Vấn đề Hoàng Sa và Biển Đông cho thấy mưu đồ tranh thủ thời gian, truyền thông, tiến hành cuộc chiến tiêu hao sinh lực và tinh thần của nước khác mà Trung Quốc đang tiến hành.
Cũng vì hành động đó, Trung Quốc sẽ phải giải quyết câu chuyện Hoàng Sa với người Việt Nam sau này và mãi mãi.
Bài thể hiện quan điểm riêng của tác giả, từ Quỹ Nghiên cứu Biển Đông. Cảm ơn hai ông Dự Văn Toán và Lê Trung Tĩnh đã đóng góp.
http://www.bbc.com/vietnamese/forum-38664086
Việt Nam, Trung Quốc dịu giọng trên vấn đề Biển Đông
Trong viếng thăm Trung Quốc từ ngày 12 đến 15/01/2017, tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đã được tiếp đón rất long trọng ở Bắc Kinh và đã hội đàm với chủ tịch Tập Cận Bình trong bầu không khí được mô tả là « thân tình, hữu nghị ».
Theo thông cáo chung được công bố sau chuyến viếng thăm Trung Quốc của ông Nguyễn Phú Trọng, lãnh đạo hai nước cũng đã trao đổi « thẳng thắn và chân thành » về các vấn đề trên biển, đặc biệt là về tranh chấp Biển Đông, hồ sơ vẫn gây xáo trộn quan hệ giữa hai nước. Hai bên cam kết sẽ « kiểm soát tốt các bất đồng trên biển », không có hành động « làm phức tạp, mở rộng tranh chấp ».
Một điểm đáng chú ý khác trong thông cáo chung nói trên, đó là ông Nguyễn Phú Trọng và ông Tập Cận Bình đã đồng ý sẽ « thúc đẩy vững chắc » đàm phán phân định khu vực vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và « tích cực thúc đẩy » hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này.
Cho tới nay, Việt Nam vẫn được xem là quốc gia chống đối mạnh mẽ nhất sự bành trướng của Trung Quốc ở Biển Đông, tranh giành chủ quyền với Bắc Kinh ở Trường Sa và thường xuyên chỉ trích sự kiểm soát của Trung Quốc trên quần đảo Hoàng Sa, chiếm của Việt Nam từ năm 1974. Năm 2014, vụ giàn khoan Hải Dương 981 đã khiến hai nước suýt đụng độ nhau trên biển.
Nhưng quan hệ giữa Hà Nội và Bắc Kinh trong thời gian gần đây đã được cải thiện. Trước ông Nguyễn Phú Trọng, vào tháng 09/2016, thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc đã đi thăm Bắc Kinh và đã đồng ý với thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường là hai nước phải « kiểm soát tốt bất đồng trên biển ».
Trong bối cảnh tổng thống Mỹ Donald Trump sắp chính thức nhậm chức, có thể kéo theo những thay đổi lớn trong chính sách của Hoa Kỳ về châu Á, Hà Nội buộc phải tái cân bằng quan hệ với Bắc Kinh, không dựa quá nhiều vào Washington, cho nên phải dịu giọng trên vấn đề Biển Đông.
Mặt khác, tổng thống tân cử Mỹ Donald Trump đã báo trước sẽ rút Hoa Kỳ ra khỏi hiệp định tự do mậu dịch Đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP, khiến hiệp định này có nguy cơ bị khai tử, trong khi hiệp định rất quan trọng đối với Việt Nam, quốc gia mà nền kinh tế phụ thuộc rất nhiều vào xuất khẩu. Đây cũng là lý do khiến Việt Nam phải « xoay trục » phần nào về phía Trung Quốc.
Về phần Trung Quốc, sau phán quyết của Tòa Trọng tài Thường trực vào đầu tháng 7 năm ngoái bác bỏ các đòi hỏi chủ quyền của họ ở Biển Đông, Bắc Kinh cũng buộc phải tìm giải pháp thương lượng với các nước tranh chấp khác, nhất là Việt Nam.
Theo lời ông Denny Roy, nhà nghiên cứu tại cơ quan tư vấn East-West Center của Mỹ, khi tỏ thái độ muốn tìm một giải pháp hòa bình với các nước tranh chấp khác, Bắc Kinh nhắm đến việc giảm thiểu tác hại của phán quyết nói trên. Cho tới nay, Trung Quốc vẫn chủ trương giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông trên cơ sở song phương hơn là thông qua các cơ chế đa phương như khối ASEAN hoặc tòa án quốc tế. Khi thỏa thuận với phía Việt Nam là sẽ « tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được » cho vấn đề Biển Đông, Bắc Kinh chắc là muốn đẩy Hà Nội đi theo hướng song phương hơn là đa phương.
http://vi.rfi.fr/viet-nam/20170118-viet-nam-trung-quoc-diu-giong-tren-van-de-bien-dong