Tại sao TC chưa dám đụng độ với Mỹ?
Tiến sỹ Nguyễn Tiến Hưng Gửi đến BBC từ Virginia, Hoa Kỳ – 27 tháng 8 2016
Một điều chắc chắn là ngày nay quân lực Mỹ không còn độc quyền ở Thái Bình Dương, cũng không thể dễ dàng chớp nhoáng đánh bại TQ.
Chính Báo cáo 2014 của Bộ Quốc phòng Mỹ gửi Quốc hội Hoa Kỳ (viện dẫn trên đây) đã phân tích rõ ràng khả năng quân sự hiện nay của TQ như thế nào.
Với sức mạnh ấy Bộ trưởng Quốc phòng Trung quốc, Tướng Thường Vạn Toàn đã nói thẳng với Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel khi ông này viếng thăm Bắc Kinh (tháng 4, 2014):
“TQ sẽ không thỏa hiệp, không nhượng bộ, không thương thuyết về tranh chấp đối với Nhật Bản.”
“Quân đội TQ có thể tập hợp ngay tức khắc khi nào có lệnh, có thể chiến đấu trong bất cứ mặt trận nào, và sẽ thắng.”
Tuy nhiên, dù Bắc Kinh tự tin đến mức nào về kinh nghiệm hải chiến và không chiến thì quân đội TQ cũng không thể nào so sánh được với quân đội Nhật Bản (chứ đừng nói tới Mỹ).
Mọi người đều đã biết về “Nhật – Nga chiến kỷ” đầu thế kỷ 20, rồi Nhật chiến đấu với Mỹ và đồng minh trong Thế Chiến 2.
Cán cân lực lượng Thái Bình Dương
Về cán cân lực lượng ở Thái Bình Dương thì khoảng cách hiện nay giữa Mỹ – Trung đã gần lại rất nhiêu, nhưng như cựu Bộ trường Quốc phòng Mỹ, ông Leon Panetta đã tuyên bố:
“Tới năm 2020 Hải quân Mỹ sẽ hoàn tất việc tái phối trí lực lượng giữa Thái Bình Dương và Đại Tây Dương: lực lượng này hiện được dàn ra khoảng 50/50 giữa hai đại dương, nhưng sẽ chuyển sang 60/40 – bao gồm sáu hàng không mẫu hạm, phần lớn những tuần dương hạm, khu trục hạm, tầu tác chiến vùng duyên hải và tầu ngầm.”
Và ngoài cán cân vể sức mạnh vũ trang lại còn cán cân về kinh nghiệm. Dù khoảng cách về thiết bị của hai bên càng ngày càng gần lại, nhưng khoảng cách về kinh nghiệm chiến đấu thì còn quá xa nhau. Có vũ khí là một chuyện, sử dụng nó như thế nào lại là chuyện khác.
Sử dụng thì đòi hỏi phải có nhiều kinh nghiệm thực tế chứ không phải chỉ kế hoạch để chiến đấu hay đánh trận giả ‘war games.’
Đối với Mỹ thì có thể nói là ngoài kinh nghiệm chiến đấu trên không, trên bộ và dưới biển trong Thế chiến I và II, và từ sau Thế Chiến II, tức là trong 70 năm qua, binh lính và tướng lãnh Mỹ vẫn tiếp tục chuẩn bị cũng như chiến đấu: chiến tranh Triều Tiên, Việt Nam, Iraq, Afghanistan, Syria. Đây là không kể những phi vụ oanh tạc như ở Kossovo hay chống ISIL ở toàn vùng Trung Đông.
Như vậy, họ đã thực tập và thu thập được một số lượng lớn về kinh nghiệm cả về chiến tranh quy ước lẫn du kích. Thêm vào đó là kinh nghiệm về vũ khí.
Thí dụ như sau khi B-52 bị bắn rơi ở chiến trường Việt Nam, Bộ Quốc phòng đã cho nghiên cứu và cải tiến. Ngày nay không dễ mà hạ được loại phi cơ này, chưa kể còn nhiều loại tối tân mới và đang sản xuất.
Kinh nghiệm chiến tranh của Trung Quốc
Ngược lại với Mỹ, trên 60 năm qua, kinh nghiệm chiến đấu của quân đội Trung Quốc rất là giới hạn:
Lục quân: sau chiến tranh Triều Tiên (1950-1952), quân đội TQ chưa hề có kinh nghiệm với những trận chiến lớn. Kinh nghiệm chỉ gồm việc pháo kích vào eo biển Đài Loan (1954/1955 và 1958), xung đột tranh chấp lai rai ở biên giới với Ấn độ (1962), với Liên Xô (1969), và xung đột biên giới với Việt Nam vào đầu 1979 (3 tuần và 6 ngày).
Không quân: kinh nghiệm chỉ gồm mấy trận không chiến với không quân Đài Loan cách đây 57 năm. Ngày 22/9/1958, 100 phi cơ MiG của TQ đụng độ với 32 phi cơ F-86s của Đài Loan. Tên lửa Sidewinders (do Mỹ cung cấp) giúp phi công Đài Loan bắn rơi nhiều máy bay MiG của TQ.
Hải quân: kinh nghiệm của Hải quân TQ về hải chiến là rất khiêm nhượng vì chưa tham gia trận chiến lớn nào, chỉ đụng độ với Hải quân VNCH đầu 1974, và tấn công lực lượng hải quân Việt Nam năm 1988 tại đảo Gạc Ma (Trường Sa). Năm 1974, tuy chiếm được Hoàng Sa nhưng cũng chịu tổn thất lớn: nhiều sĩ quan tham mưu của trận chiền đã tử trận khi Hộ tống hạm Kronstad 274 bị Hải quân VNCH bắn chìm, ba chiến hạm khác bị hư hại nặng.
Công tác hậu cần, tiếp vận và điều hợp: là những khía cạnh rất khó khăn trong các trận lớn, đặc biệt là hải chiến. Giao tranh trên biển rất khó khăn trong nhiều tình huống. Ngoài yếu tố thời tiết (thay đổi bất chợt), công tác hậu cần và tiếp vận đòi hỏi rất nhiều kinh nghiệm. Bản thân chúng tôi khi có dịp tới thăm viếng căn cứ của Đệ Thất Hạm Đội ở Honolulu đã được cắt nghĩa sơ qua (trong phòng tình hình) về những đòi hỏi đối với một hàng không mẫu hạm.
Nghe viên sĩ quan chỉ vào các bản đồ rồi thuyết trình, chúng tôi thấy nó hết sức phức tạp. Nguyên việc cung cấp thức ăn, vệ sinh, sức khỏe, y tế cho mấy nghìn binh sĩ trên một chiến hạm là đã đặt ra nhiều vấn đề. Rồi công tác bảo trì phản lực cơ và các loại khí giới trên tầu, đến những công tác thông tin, trinh thám. Khi thuyết trình viên nói đến công tác điều hợp (các binh chủng với nhau) trong một trận hải chiến thì chúng tôi thấy quá là khó khăn, phức tạp. Đây là chưa nói đến những dịch vụ của các loại tầu ngầm nguyên tử, lòng vòng thật sâu và thật lâu ở dưới mặt biển.
Tinh thần binh sĩ: đây có lẽ là một trong những khía cạnh khó khăn nhất đối với người lính TQ. Chính sách một con/mỗi gia đình đã đưa tới tình trạng là cha mẹ luôn cố gắng để có con trai, và khi có được một cậu ấm thì biến thành hoàng tử, được bốn ông bà (hai bên nội, ngoại) và bốn cha mẹ thường chú ý, chiều chuộng. Việc này ảnh hưởng không ít tới tinh thần người thanh niên. Tình huống ‘một con’ lại còn làm cho cha mẹ thật miễn cưỡng khi phải để cho con nhập ngũ, huống chi là tham chiến.
Còn đối với Hoa Kỳ thì trong những thập niên qua, người lính Mỹ ít khi nào được nghỉ ngơi. Có thể nói là ‘tình trạng sẵn sàng ứng chiến’ (status of readyness) luôn là một yếu tố quan trọng ưu tiên trong những kế hoạch quân sự của Ngũ Giác Đài.
Những khó khăn lớn hiện nay của Trung Quốc
Ngoài việc không được trang bị với nhiều kinh nghiệm chiến đấu trong 70 năm qua, Trung Quốc lại còn có nhiều vấn đề khác. Các nhà quan sát quốc tế thường hay quan tâm đến sức mạnh kinh tế và quân sự của TQ, ít người để ý tới những khó khăn đối nội, đối ngoại mà TQ phải trực diện.
Đây cũng là một đề tài nên được phân tích. Chúng tôi chỉ nêu lên vài khía cạnh:
Về đối nội
Căng thẳng về vấn đề dân tộc thiểu số: sự căng thẳng còn bị nặng nề thêm bởi những khó khăn về vấn đề đối với các dân tộc thiểu số, đặc biệt là vấn đề Tây Tạng và Tân Cương trong những năm gần đây.
Môi trường băng hoại: là một vấn đề hiện ảnh hưởng tới người dân nhiều nhất. TQ đã phải trả cái giá quá cao để sản xuất đủ hết mọi thứ với giá thật rẻ, khống chế thị trường tiêu thụ trên toàn cầu. Người ta gọi TQ là ‘nhà máy sản xuất của thế giới.’ Nhà máy này phun khói ra làm đen tối cả bầu trời Bắc Kinh, Thượng Hải giữa ban ngày như ta thường thấy trên tivi. Còn vấn đề các chất thải kỹ nghệ hết sức độc hại, làm ô nhiễm cả đất, sông, biển.
Cái nghèo của người dân: về kinh tế ta thấy GDP của Trung Quốc ngày nay đã đứng thứ hai trên thế giới, chỉ sau có Mỹ.
Nhưng đời sống của người dân còn thấp, vì đông dân, 1 tỷ 381 triệu, lợi tức bình quân đầu người của Trung Quốc mới chỉ tới $5,720 một năm (2012), đứng khoảng thứ 120 trên thế giới, chỉ bằng 12% của Nhật ($47,870), 11% của Mỹ ($52,340), 12% của Singapore ($47,210) và 58% của Malaysia ($9,820).
Số người nghèo tính theo chỉ tiêu quốc tế là có mức sống dưới $2 một ngày còn tương đương gần một phần ba dân số (2009). Chi tiêu dưới $2 một ngày là gồm tất cả mọi nhu cầu: ăn, ở, y tế, vệ sinh, giáo dục, giải trí, thờ cúng tổ tiên).
Khoảng cách giàu – nghèo càng ngày càng cách xa: đây là khoảng cách giữa nông thôn và thành thị, giữa miền duyên hải và miền tây bắc lục địa.
Chỉ số Gini về mất cân bằng thu nhập càng cao thì khoảng cách càng lớn. Chỉ số của TQ đã tăng từ 0.33 vào năm 1993 lên 0.42 năm 2006 và còn đang tăng thêm. Sự kiện này càng ngày càng gây căng thẳng chính trị và xã hội.
Đây là chưa nói tới hiện tượng về ‘cái nghèo tâm lý’ (psychological poverty): ‘về tâm lý, người nghèo là những người cảm thấy mình không được hưởng những gì mà những người khác trong xã hội đang được hưởng quá nhiều.’
Ngày xưa, ngồi trong nhà lá, người nghèo chỉ so sánh mình với hàng xóm. Ngày nay vì điện lực hóa nông thôn, lại có tivi, điện thoại lưu động (rất rẻ ở TQ), người nghèo so sánh mình với những người khác ở thành thị, càng thấy mình nghèo hơn nữa.
Sự lớn mạnh về quyền lực của các đại tập đoàn quốc doanh: có lẽ vấn đề kinh tế, xã hội và chính trị khó khăn nhất của Trung Quốc ngày nay là sự lớn mạnh của những đại tập đoàn kinh tế, tài chính quốc doanh.
Nhưng các tập đoàn này đang thao túng về mọi lãnh vực. Về vấn đề này, tờ New York Times xuất bản ngày 9 tháng 11, 2012 đã bình luận rằng nhiều kinh tế gia Trung Quốc cho rằng những đại tập đoàn quốc doanh, đặc biệt là các ngân hàng và những công ty dầu khí và viễn thông đã lớn quá mạnh đến độ có thể làm tiêu tan tăng trưởng kinh tế, đe dọa cả ổn định chính trị. “Chẳng ai có điều gì tốt để nói về những tập đoàn này,” ông Wang Yong, chủ tịch Ủy ban Giám Sát và Quản lý Tài sản các Công ty Quốc Doanh đã công khai chỉ trích tại Quốc hội Trung Quốc vào ngày 24 tháng 8, 2012.
Rồi khi khai mạc Đại hội Đảng, chính Chủ tịch Hồ Cẩm Đào, trước khi về hưu và là người đã giúp cho những công ty này lớn mạnh trong vòng 10 năm qua cũng phải đề nghị là nên giới hạn chúng lại để có thể giúp các công ty tư nhân cạnh tranh. Nhưng hai cố vấn cho lãnh đạo tiếp theo (Chủ tịch Tập Cận Bình) là những người hiểu biết rất rõ về sự tranh dành giữa bè phái trong đảng, đều cho rằng những công ty này chẳng có gì phải e ngại vì cả chính phủ trung ương lẫn địa phương đều phải tùy thuộc tài chính vào lợi tức những công ty này nên sẽ không muốn dẹp những công ty này đi.”
Như mọi người đã biết, giàn khoan 981 trị giá 1 tỷ đôla (đã khai thác được khí đốt vào trung tuần tháng 9, 2014) thuộc về đại tập đoàn dầu khí China National Offshore Oil Corporation (CNOOC).
Tình trạng tham nhũng, đặc biệt là trong quân đội: đây là một đề tài nóng bỏng, đang được truyền thông quốc tế đề cập thường xuyên trên mạng.
Về đối ngoại
Ngoài tranh chấp ở Biển Đông, TQ còn có những tranh chấp lãnh thổ quan trọng hơn nữa. Với một dân số gần 1 tỷ 380 triệu (2015), áp lực về đất đai của Trung Quốc càng ngày càng nặng nề. Cho nên tranh chấp lãnh thổ với láng giềng luôn xẩy ra.
Riêng với Nhật Bản hiện nay, Bộ trưởng Thường Vạn Toàn đã nói thẳng với Bộ trưởng QP Mỹ Chuck Hagel về “ba không”:
“TQ sẽ không thỏa hiệp, không nhượng bộ, không thương thuyết” về tranh chấp đối với Nhật Bản.
Về phía Nhật Bản, Thủ tướng Abe cũng đang leo thang: đặt vấn đề an ninh không riêng cho vận chuyển hàng hải mà bao gồm cả những phi vụ trên không trung.
Như ta đều đã thấy, một khi Nhật Bản thực sự tái võ trang thì sẽ là đối thủ đáng ngại cho TQ.
Bắc Kinh không quên là Nhật đã từng chiến đấu với Nga ngay từ đầu thế kỷ 20: ‘Nhật – Nga chiến kỷ’, rồi trong Thế chiến 2 hải quân Nhật đã thi hùng với Mỹ ở Thái Bình Dương, và không quân Nhật đã tấn công Trân Châu Cảng.
TQ lại còn mối thù hận muôn đời đối với Nhật Bản về việc xâm chiếm lãnh thổ.
Kết luận
Xét về cán cân lực lượng, kinh nghiệm, và có thể là cả tinh thần binh sĩ, chắc chắn là TQ không muốn hoặc chưa muốn trực diện với Mỹ tại Thái Bình Dương.
Chiến lược TQ ngày nay là hăm dọa theo phương pháp du kích: địch tiến ta lùi, địch lùi ta tiến’ và chiến thuật ‘cắt từng miếng xúc xích – ‘salami slicing,’ nhắm vào từng đối tượng, từng hòn đảo hay bãi cạn một lúc.
Theo như Báo Cáo mới đây của Viện Carnergie Endowment For International Peace, thì ít nhất là trong tương lai có thể nhìn thấy được, “TQ chưa muốn theo mô hình của Liên Xô để trở thành một đối thủ toàn cầu của Hoa Kỳ nhưng chỉ muốn thành cường quốc ở Á Châu và tập trung vào việc tranh chấp lãnh thổ với các nước láng giềng. Mặc dù vậy, đó cũng là sự thách đố lớn đối với Hoa Kỳ vì Washington đã long trọng tuyên bố là sẽ tăng mạnh chi tiêu về sự hiện diện quân sự tại Á Châu mặc dù các khoản khác trong ngân sách phải cắt giảm”.
Về lâu về dài thì như đề cập trên đây, TQ muốn thay thế Mỹ để trở thành một nước siêu cường. Và như Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ McNamara đã kết luận năm 1965: xa hơn nhưng quan trọng hơn, Trung Quốc đang sắp xếp, tổ chức để tất cả Á Châu chống lại Hoa Kỳ.”
Cái nguy của sự tính lầm
Các nhà lãnh đạo thế hệ thứ năm của TQ ngày nay vì ít có kinh nghiệm về những tính toán của các cường quốc trong thời chiến tranh lạnh, cho nên dễ có thể tính lầm như Nhật Bản hay Liên Xô đã tính lầm, đó là một nhận xét của một số quan sát viên quốc tế.
Trở lại trận Trân Châu Cảng: về chiến lược, có thể là Nhật đã tính lầm về phản ứng của Hoa Kỳ và Anh Quốc vì thấy rằng sau khi Phát xít Đức chiếm đóng Czechoslovakia (tháng 3, 1939) Mỹ không phản ứng gì cả, lại tuyên bố là mình đứng trung lập, không dây dưa gì (ngày 5/9/1939).
Mười hai ngày sau, Phát xít Đức thôn tính thêm Ba Lan. Năm 1940 thì đến lượt Đan Mạch, Na Uy. Ngày 14/6/1940 Phát xít Đức tiến vào Paris. Đến tháng 9 lại chớp nhoáng bắn phá cả Anh Quốc. Năm 1941 tràn qua Hy Lạp và Nam Tư cũ (tháng 6, 1941). Bên Âu Châu thì đồng minh Anh Quốc cũng bết bát.
Sau khi quân Phát xít Đức bắt đầu gây hấn, vi phạm Hiệp Ước Versailles (tháng 3, 1935), rồi chiếm vùng Rhineland, Thủ tướng Anh Neville Chamberlain lại điều đình Hiệp Ước Munich để hòa hoãn, tuyên bố câu nổi tiếng “hòa bình trong thời đại của chúng ta” – ‘peace in our time’ (tháng 9, 1938). Từ đó tên ông Chamberlain dính liền với quan niệm ‘nhân nhượng, giảng hòa’ với đối thủ.
Về điểm này thì các nhà lãnh đạo Mỹ thường hay hối tiếc là chính vì Chamberlain có lập trường nhân nhượng, và vì Mỹ không hợp lực với đồng minh ngay từ đầu nên đã để xẩy ra Thế Chiến 2.
Rõ ràng nhất là có lần Tổng thống Eisenhower đã viết cho Thủ tướng Churchill:
”Nếu tôi có thể nhắc lại lịch sử, chúng ta đã không ngăn chặn Hirohito, Mussolini, Hitler vì đã không cùng hành động chung với nhau, và cho kịp thời, chính vì thế nên đã dẫn tới một thảm kịch bi đát và một sự nguy hiểm tuyệt vọng trong mấy năm sau. Và như vậy, chúng ta đã học được điều gì chưa trong kinh nghiệm này?” (thư 5/04/1954).
Năm 1962, Liên Xô đã tính lầm về việc mang tên lửa vào Cuba. Tổng Bí Thư Krushchev cho rằng Tổng thống Kennedy sẽ không phản ứng mạnh vì còn quá trẻ (42 tuổi), chưa có kinh nghiệm, lại nhút nhát, không dám can thiệp vào Lào, rồi lại cho phép CIA vận dụng một nhóm người đổ bộ ở Vịnh Con Heo ở Cuba để lật đổ Fidel Castro mà lại không tiếp tục khi chiến dịch bị phá vỡ.
“Ông ta đối xử với tôi như một cậu bé con, (like a little boy),” Tổng thống Kennedy đi quanh phòng, lẩm bẩm, “Ừ, như là một cậu bé con!” Ông đã bừng tỉnh: “Tôi biết tại sao ông ta lại coi tôi như vậy. Ông ta nghĩ rằng vụ Vịnh Con Heo chứng tỏ là tôi thiếu kinh nghiệm. Có thể ông ta còn nghĩ là tôi ngu nữa. Và có thể quan trọng nhất, ông ta nghĩ tôi không có gan.”
Vì vậy Kennedy quyết tâm phản ứng. Khủng hoảng tên lửa ở Cuba suýt nữa leo thang thành Thế Chiến 3.
Năm 1995/96, có thể là Trung Quốc đã tính lầm khi quyết định đe dọa Đài Loan vì nhận được Hong Kong trên căn bản ‘một nước Trung Quốc’ theo như ‘Thông Cáo Thượng Hải’ (1972), cho nên khi thấy Tổng thống Lý Đăng Huy có lập trường ‘Đài Loan độc lập’, TQ đã thử nghiệm tên lửa bắn vào hướng Đài Loan. Hành động này dẫn đến việc Tổng thống Clinton phản ứng.
Trong chiến lược mới, Bắc Kinh cho rằng nếu chỉ làm những gì mình có thể kiểm soát được, ví dụ như chỉ hành động gây hấn, tranh chấp ở hải đảo thì không đưa tới mức xung đột quân sự.
Tại sao?
Vì TQ có thể quyết định mục tiêu nào trước, mục tiêu nào sau, như bắt đầu từ bãi cạn Scarborough, tới quần đảo Senkaku, tới dàn khoan Hải Dương 981, tới quân sự hóa một số hải đảo. TQ luôn có thể quyết định về mức độ xung đột.
Nhưng theo như báo cáo mới đây của Viện Carnergie Endowment For International Peace: “Nguy hiểm lớn nhất ở Á Đông ngày nay là một sự leo thang bất ngờ về một sự tranh chấp có giới hạn nào đó, thí dụ như việc Trung Quốc tranh chấp với Nhật Bản về hải đảo.”
Nguy hiểm hơn nữa là những đe dọa của TQ mới đây đối với Mỹ trên không phận quốc tế: máy bay chiến đấu Trung Quốc đã bay sát, gây nên nguy hiểm cho máy bay trinh thám Mỹ nhiều lần. Theo Washington thì máy bay Mỹ bay trên không phận quốc tế, theo Bắc Kinh là trên không phận thuộc Trung Quốc. Nếu như chỉ một máy bay Mỹ bị bắn rơi thì chắc chắn là Mỹ sẽ trả đũa. Sau đó không ai tính được sự xung đột sẽ leo thang tới mức nào.
Nhìn vào lịch sử nhiều khi chỉ vì một biến cố hay sự kiện nhỏ có thể gây nên thảm cảnh.
Thế Chiến I vào đầu Thế Kỷ 20 cũng đã xẩy ra chỉ vì một sự kiện nhỏ: từ việc ám sát ông hoàng Franz Ferdinand của Đế quốc Áo – Hung năm 1914 ở Sarajevo đã châm ngòi thành đại chiến.
Trong tình huống ấy, dư luận thế giới lo ngại rằng Trung Quốc có thể tính lầm về quyết tâm của Mỹ, và cả Mỹ cũng có thể tính lầm về dụng ý thực sự của những hành động TQ. Như vậy hai bên có thể đi tới xung đột vũ trang, rồi leo thang chiến tranh. Mà leo thang chiến tranh lần này thì Mỹ có thể kéo theo cả Nhật, cả Úc.
Mặt khác, vì những giới hạn của TQ về kinh nghiệm hải chiến và không chiến cộng với những khó khăn đối nội, đối ngoại như đề cập trên đây, chưa kể những tranh chấp quyền hành nội bộ hiện nay đang gia tăng, có thể TQ cũng sẽ quyết định trở về với lập trường ‘phát triển hài hòa’ của ông Đặng Tiểu Bình.
Đây là điều mong đợi của cả thế giới. Vì chiến tranh là tàn phá, là hủy diệt, cả thế giới sẽ bị ảnh hưởng, không ai có thể tưởng tượng ra người thắng kẻ bại sẽ ra như thế nào. Mặt khác vẫn còn có sự lựa chọn cho hòa bình. Như ở vùng Biển Đông, việc hợp tác để phát triển, xây dựng là sự chọn lựa có thể nói là duy nhất cho tất cả các bên trong vùng.
Hy vọng rằng Đệ nhất Thế Chiến trong thế kỷ 21 – thế kỷ của Á Châu – sẽ không xảy ra ở trên mặt biển cuả Hòa bình – “Thái Bình Dương.”
Riêng đối với Mỹ, ta có thể chắc chắn được rằng: Mỹ sẽ can thiệp khi một trong bốn quyền lợi chính yếu (như phân tích trên đây) bị vi phạm.
Như Bộ Tổng Tham Mưu Hoa Kỳ đã xác định ngay từ lúc vừa để ý tới Biển Đông (tháng 4, 1950): “Vai trò lãnh đạo Thế giới Tự do của Hoa Kỳ đã đặt trách nhiệm lớn lao cho nước này phải huy động được sức mạnh của thế giới tự do để ngăn chận cộng sản bá chủ thế giới.”
Các văn bản về chính sách Hoa Kỳ đối với chiến tranh Việt Nam thường nhắc tới điểm này. Từ nhận thức ấy, đi tới kết luận là: việc Cộng sản thôn tính Vùng Biển Đông là điều đe dọa cho nền an ninh của Hoa Kỳ. Và đó là luận cứ của cả cuộc hành trình ‘đồng minh nhảy vào’ Miền Nam Việt Nam.
Ngày nay, quyền lợi an ninh của Hoa Kỳ ở Biển Đông lại còn quan trọng hơn trong chiến tranh Việt Nam.
Đó là vì TQ đã trở thành một thế lực có khả năng uy hiếp cả Á Châu cả lãnh thổ của Hoa Kỳ. Thực hư như thế nào thì chưa rõ, nhưng TQ cho biết: đã bắt đầu nghiên cứu loại tầu ngầm siêu thanh (supersonic submarine) có thể phóng từ Thượng Hải tới San Francisco trong 100 phút. Cho nên Mỹ đề cao cảnh giác để phản ứng. Tuy nhiên về hình thức phản ứng thì có nhiều cách thức tùy theo mức độ đe dọa của những hành động.
Từ những biện pháp kinh tế: nhắm vào một số người chung quanh lãnh đạo TQ (giống như TT Obama đang làm đối với những nhân vật gần TT Putin để trả đũa những hành động ở Ukraine), hoặc đóng băng (freeze) tài sản rất lớn của TQ để ở các ngân hàng và định chế tài chính Mỹ (như trước khi TT Nixon mở cửa Bắc Kinh), đến cấm vận, phong tỏa hải cảng, và sau cùng là biện pháp quân sự. Biện pháp quân sự thì có thể bắt đầu bằng một vài xung đột trên biển, trên không, tới trận chiến, rồi leo thang tới chiến tranh nguyên tử.
Tóm lại như Bộ trưởng QP Mỹ Leon Panetta đã tái khẳng định:
“Hoa Kỳ đã dính líu thật lâu và thật sâu đậm với Á Châu-Thái Bình Dương dù trong chiến tranh hay trong hòa bình, dù lãnh đạo là Dân Chủ hay Cộng Hòa, dù bất bình với nhau hay hài hòa với nhau, dù thặng dư ngân sách hay phải đi vay nợ. Chúng tôi đã ở nơi đây, chúng tôi đang ở nơi đây ngay bây giờ, và chúng tôi sẽ ở lại nơi đây trong tương lai.”
Vì nếu như vùng này bị áp đảo thì không những các quốc gia nơi đây, mà chính an ninh quốc phòng của Hoa Kỳ cũng bị đe dọa, vì biên giới miền Tây của Hoa Kỳ nằm ngay bên bờ Thái Bình Dương. Như cố TT Johnson đã khẳng định về Đông Nam Á:
“Nếu chúng ta buông xuôi thì có nghĩa là chúng ta phải rút tuyến phòng thủ của Hoa Kỳ về tận San Francisco.”
Bài viết của Giáo sư Tiến sỹ Nguyễn Tiến Hưng, trích dẫn từ cuốn sách ‘Khi Đồng Minh Nhảy Vào’ mới xuất bản tại Hoa Kỳ. Sinh năm 1935 ở Thanh Hóa, tác giả từng giữ chức Tổng trưởng Kế hoạch của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa kiêm cố vấn của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trước 1975 ở Sài Gòn. Hiện ông định cư tại Hoa Kỳ. Ông là tác giả cuốn ‘Khi Đồng minh Tháo chạy’ và The Palace File, viết cùng Jerrold L. Schecter bằng tiếng Anh.